Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

ô nhiễm môi trường ở nông thôn - môn xã hội học nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.35 KB, 18 trang )


I. Đặt vấn đề:
Ô nhiễm môi trường đã và đang trở thành vấn đề bức thiết của xã hội. Bởi ô
nhiễm môi trường gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng, ảnh hưởng
tới nhiều yếu tố tự nhiên, xã hội, đặc biệt là vấn đề sức khỏ của người dân.
Ô nhiễm môi trường hiện nay không riêng gì ở thành phố và các khu công
nghiệp mà ở địa bàn nông thôn cũng đang là mối quan tâm của nhiều người.
Tại địa bàn nông thôn đáng ngại nhất là viêc sử dụng các loại chất độc hại
như thuốc trừ sâu , trừ bệnh , trừ cỏ, phân hóa học…để bảo vệ cây trồng vật
nuôi chưa đúng cách. Các phế liệu, phế phẩm xác súc vật chết ,phóng uế bừa
bãi làm ô nhiễm không khí, nước sinh hoạt , là điều kiện thuận lợi cho vi
sinh vật phát triển lây lan dịch bệnh . Môi trường sống bị ô nhiễm ảnh hưởng
trực tiếp đến sức khỏe và đời sống của nông dân và địa bàn nông thôn. Vì
vậy ô nhiễm môi trường nông thôn là điều cần được lưu ý và nhận được sự
quan tâm của các cấp chính quyền.
1. Khái niệm ô nhiễm môi trường:
- Theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam: “Ô nhiễm môi trường là sự làm
thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường”.
- Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải
hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khỏe
con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi
trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải),
lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hóa chất hoặc tác nhân vật lý, sinh
học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được xem là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng,
nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động
xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
2. Các dạng ô nhiễm chính
Dưới đây là các hình thức ô nhiễm và các chất ô nhiễm có liên quan.
* Ô nhiễm nước:
- Hiến chương châu Âu về nước, định nghĩa: “Ô nhiễm nước là sự biến đổi


nói chung do con người đối với chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và
gây nguy hiểm cho con người, cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ
ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các loài hoang dã”.
- Ô nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên: Do mưa, tuyết tan, gió bão, lũ lụt
đưa vào môi trường nước chất thải bẩn, các sinh vật và vi sinh vật có hại, kể
cả xác chết của chúng.
- Ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo: Quá trình thải các chất độc hại chủ
yếu dưới dạng lỏng như các chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp,
giao thông vào môi trường nước.
Theo bản chất các tác nhân gây ô nhiễm, người ta phân ra các loại ô nhiễm
nước: ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, ô nhiễm hóa chất, ô nhiễm sinh học, ô nhiễm
bởi các tác nhân vật lý.
* Ô nhiễm đất:
Xảy ra khi đất bị nhiễm các chất hóa học độc hại ( hàm lượng vượt quá giới
hạn thong thường ) do các hoạt động chủ động của con người như khai thác
khoáng sản, sản xuất công nghiệp , sử dụng phân bón hóa học hoặc thuốc trừ
sâu quá nhiều, hoặc do bị rò rỉ từ các thùng chứa ngầm. Phổ biến nhất trong
các loại đó là hydrocacbon, kim loại nặng , MTBE, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ
sâu, và các hydrocacbob clo hóa
* Ô nhiễm không khí:
- Ô nhiễm không khí: là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan
trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây
ra sự tỏa mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa (do bụi)”. Có rất nhiều
nguồn gây ô nhiễm không khí. Có thể chia ra thành nguồn tự nhiên và nguồn
nhân tạo.
- Nguồn tự nhiên: núi lửa, cháy rừng.
- Nguồn nhân tạo: Nguồn gây ô nhiễm nhân tạo rất đa dạng, nhưng chủ yếu
là do hoạt động công nghiệp, đốt cháy nhiên liệu hóa thạch và hoạt động của
các phương tiện giao thông.
- Không khí ô nhiễm có thể giết chết nhiều cơ thể sống trong đó có con

người. Ô nhiễm ozone có thể gây bệnh đường hô hấp , bệnh tim mạch, viêm
trùng họng, đau ngực, tức thở. Ô nhiễm nước gây ra xấp xỉ 14000 cái chết
mỗi ngày , chủ yếu do ăn uống bằng nước bẩn chưa được xử lí. Các chất hóa
học và kim loại nặng nhiễm trong thức ăn , nước uống có thể gây ung thư.
Dầu tràn có thể gây ngứa rộp da. Ô nhiễm tiếng ồn gây điếc, cao huyết áp,
trầm cảm và bệnh mất ngủ, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng.
* Ô nhiễm tiếng ồn
Bao gồm tiếng ồn do ô nhiễm song , do các loại song như song điện thoại,
song truyền hình…tồn tại với mật độ lớn
II. Vài nét về tình hình môi trường nông thôn hiện nay.
Nước ta có trên 77% dân số sinh sống ở khu vực nông thôn với cơ cấu
ngành nghề chủ yếu là sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ. Trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, khu vực nông thôn
mang tính chiến lược, trước mắt cũng như lâu dài. Vì vậy, nông thôn chi
phối và tác động nhiều mặt đến vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường
quốc gia.
Môi trường nông thôn trong thời kỳ đổi mới có được cải thiện. Nhiều vùng
nông thôn đã “thay da đổi thịt”, đường làng ngõ xóm đã được cải tạo xây
dựng tốt hơn, nhà ở khang trang hợp vệ sinh có tỷ lệ cao hơn. Nhiều vùng
nông thôn đã căn bản cải tạo được tình trạng ao tù nước đọng. Chuồng trại
chăn nuôi đã xây dựng xa nhà ở, công trình vệ sinh, nước sạch đã được cải
thiện hợp vệ sinh hơn. Tuy nhiên, môi trường nông thôn nước ta hiện nay
còn nhiều vấn đề tồn tại phải giải quyết.
-* Nước sạch nông thôn: Theo số liệu của Viện Bảo hộ lao động năm 2008,
tỷ lệ nông dân được cấp nước sạch còn rất thấp, vùng núi phía Bắc là 17%,
Trung du Bắc bộ và Tây Nguyên 19%, Bắc và Nam Trung bộ 37-38%, Đông
Nam bộ 23%, đồng bằng sông Hồng 41%, đồng bằng sông Cửu Long 34%.
-* Các hoá chất bảo vệ thực vật được sử dụng nhiều trong nông nghiệp,
lượng hoá chất sử dụng cho 1 ha năm 1999 so với năm 1990 tăng gấp 2 lần.
Thuốc trừ sâu mặc dù có giảm trong 10 năm gần đây nhưng vẫn chiếm tỷ lệ

cao: Năm 2000 là 45,4%, thuốc trừ cỏ và trừ bệnh chiếm 32,03% và 22,54%.
- Số người bị ngộ độc do thuốc bảo vệ thực vật của nước ta còn lớn. Năm
1999 là 8.808 người trong đó tử vong 331 người), năm 2001 là 7613 người
(trong đó tử vong 187 người).
* Chất lượng đất nông nghiệp vùng ngoại thành và các tỉnh đứng trước
thực trạng ô nhiễm kim loại nặng ngày càng tăng do chất thải từ các
khu công nghiệp, làng nghề, phân bón hóa học tích trữ qua nhiều năm.
- Ngày 17/10/2009, báo cáo của Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường tại
Hội nghị Bảo vệ môi trường trong nông nghiệp, nông thôn do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) cho thấy: Hầu hết các lĩnh vực
kinh tế chủ chốt của ngành nông nghiệp đều gặp vấn đề lớn liên quan đến
môi trường.
- Theo ước tính, năm 2007 có khoảng gần 4 triệu tấn phân bón các loại
(chiếm 55 - 60%) bị lãng phí do cây trồng không hấp thụ được, cộng với
việc sử dụng 75.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật đã gây mất cân bằng sinh thái,
ô nhiễm đất, nước tại nhiều vùng nông thôn. Ngành chăn nuôi hàng năm
cũng "xả" khoảng 73 triệu tấn chất thải, trong đó chỉ có 30-60% (tùy địa
phương) chất thải được xử lý. Tương tự với ngành nuôi trồng thủy sản, chỉ
tính riêng cá tra, tôm sú ở đồng bằng sông Cửu Long mỗi năm có đến hàng
triệu tấn thức ăn không được tiêu hóa hết, bị hòa tan trong nước gây ra nhiều
loại dịch bệnh cho các hộ nuôi thủy sản. Bên cạnh đó, môi trường sống của
người dân nông thôn còn bị ảnh hưởng bởi tình trạng ô nhiễm ở các làng
nghề chế biến nông sản, thực phẩm, tiểu thủ ông nghiệp.
- Khảo sát chất lượng đất nông nghiệp vùng ngoại thành và các tỉnh đứng
trước thực trạng ô nhiễm kim loại nặng ngày càng tăng do chất thải từ các
khu công nghiệp, làng nghề, phân bón hóa học tích trữ qua nhiều năm. Hiện
còn gần 30% dân số nông thôn chưa được tiếp cận với nguồn nước hợp vệ
sinh, số lượng làng ung thư bị phát hiện ngày càng nhiều. Ngoài ra, tình
trạng phá rừng, sa mạc mạc hóa, thiên tai lũ lụt xảy ra liên miên cũng tạo áp
lực không nhỏ trong việc giải quyết các vấn đề môi trường nông nghiệp

nông thôn hiện nay.
* Ngoài ra, không khí ở nông thôn đang bị ô nhiễm về nhiệt, tiếng ồn, hơi
độc, bụi khói; không gian bị thu hẹp do đất bị chiếm dụng để xây dựng cơ sở
sản xuất, chứa nguyên vật liệu, sản phẩm hàng hoá và nhất là chất thải đủ
loại.
* Ðáng chú ý, vấn đề ô nhiễm môi trường bức xúc nhất hiện nay ở khu vực
nông nghiệp, nông thôn là các làng nghề.
Theo số liệu gần đây nhất, cả nước có khoảng 1450 làng nghề phân bố ở 58
tỉnh, thành phố trong cả nước, riêng vùng đồng bằng sông Hồng có khoảng
800 làng với đặc điểm tập trung phần lớn tại khu vực nông thôn, làng nghề
tự phát, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán xen kẽ trong khu dân cư và hầu như
không có công nghệ, thiết bị thu gom xử lí rác .Trong đó, làng chế biến nông
sản thực phẩm là loại hình làng nghề có nhu cầu nước rất lớn và thải ra
lượng nước thải hữu cơ gây ô nhiễm môi trường.
- Kết quả khảo sát ở một số làng nghề cho thấy, hầu hết nước thải đều có
BOD vượt chỉ tiêu cho phép từ 12,8 đến 140 lần, COD vượt từ 9,7 đến 87
lần, nước thải có pH thấp. Trong quá trình sản xuất, chế biến của nhiều
doanh nghiệp, khu công nghiệp có sử dụng nhiều nguyên liệu thủy sản,
nước, nhiên liệu, năng lượng, hóa chất tẩy rửa, khử trùng, môi chất lạnh
dẫn đến lượng chất thải rắn, nước thải, khí thải sinh ra nhiều, đặc biệt là
nước thải hữu cơ gây ô nhiễm môi trường. Trong các loại chất thải, nước
thải trong chế biến thủy sản có hàm lượng các chất ô nhiễm hữu cơ rất cao,
các chỉ tiêu BOD5, tổng Nitơ và Coliform cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ
vài lần, đến hàng trăm lần.
- Các chất thải rắn và lỏng ở vùng nông thôn, ở các làng nghề thải vào môi
trường đất đã làm thay đổi thành phần lý, hoá, sinh học của đất làm đất bị ô
nhiễm. Ô nhiễm môi trường đất đã xảy ra nghiêm trọng nhất ở các làng nghề
tái chế kim loại, sản xuất polyetylen, cơ khí… Kết quả điều tra hàm lượng
kim loại nặng trọng mẫu đất ở một số xã làng nghề đều cho kết quả hàm
lượng kim loại nặng cao gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép đã ảnh hưởng

lớn tới sức khoẻ của nhân dân và chất lượng sản phẩm nông sản. Ô nhiễm
môi trường không khí: Hẩu hết nhiên liệu sử dụng trong các làng nghề là
than (than củi, than cốc, than cám…), chỉ ít doanh nghiệp dùng ga và điện.
Vì vậy, lượng bụi và khí CO, CO2, SO2 và NO trong nhiều làng nghề cao
vượt tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam từ 3-5 lần, ảnh hưởng tới sức khoẻ
và sản xuất.
Ví dụ: Qua điều tra tại các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng (Khai Thái –
Hà Tây, Xuân Quan – Hưng Yên), hằng năm sử dụng 6.000 tấn than, 10.000
tấn củi, 250 tấn bùn, 1.000 m3 đá… đã thải ra nhiều loại bụi và chất thải
nguy hiểm.
III. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nông thôn:
1. Trước tiên dẫn đến trình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay là do việc lạm
dụng và sử dụng không hợp lý các loại hoá chất trong sản xuất nông nghiệp
như phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn lan, không
có sự kiểm soát của ngành chức năng.
Việc sử dụng này gây sức ép đến môi trường nông nghiệp và nông
thôn với 3 lý do: Sử dụng không đúng kỹ thuật nên hiệu lực phân bón
thấp; bón phân không cân đối, nặng về sử dụng phân đạm; chất
lượng phân bón không bảo đảm, các loại phân bón N - P - K, hữu cơ
vi sinh, hữu cơ khoáng do các cơ sở nhỏ lẻ sản xuất trôi nổi trên thị
trường không bảo đảm chất lượng đăng ký, nhãn mác bao bì nhái,
đóng gói không đúng khối lượng đang là những áp lực chính cho
nông dân và môi trường đất.
* Thuốc BVTV gồm: Thuốc trừ sâu; thuốc trừ nấm; thuốc diệt chuột;
thuốc trừ bệnh; thuốc trừ cỏ. Các loại này có đặc điểm là rất độc đối
với mọi sinh vật; tồn dư lâu dài trong môi trường đất và nước gây ra
ô nhiễm; tác dụng gây độc không phân biệt, nghĩa là gây chết tất cả
những sinh vật có hại và có lợi trong môi trường đất, nước. Hậu quả
nguy hại để lại trên các sản phẩm nông nghiệp khó lường chưa kể
đến một khối lượng lớn vỏ thủy tinh còn chứa chất gây hại đến sức

khỏe con người vứt tràn lan ở bờ ruộng, bờ mương, sông ngòi sẽ
ngấm dần vào nguồn nước ngầm.
- Ông Nguyễn Ngọc Sinh, Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên&Môi trường
Việt Nam, cho biết nếu vào cuối những năm 1960, chỉ có khoảng 0,48%
diện tích đất canh tác sử dụng thuốc bảo vệ thực vật thì hiện nay là 100%
với trên 1.000 chủng loại thuốc, trong đó nhiều loại thuốc có độc tính cao.
- Hằng năm, nước ta sử dụng trung bình 15.000 - 25.000 tấn thuốc bảo vệ
thực vật. Bình quân 1ha gieo trồng sử dụng đến 0,4 - 0,5 kg thuốc bảo vệ
thực vật. Sử dụng không hợp lý, không tuân thủ theo đúng những quy định
nghiêm ngặt về quy trình sử dụng nên thuốc bảo vệ thực vật gây nhiều tác
hại cho chính người sử dụng thuốc và người tiêu dùng nông sản và thực
phẩm có chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, đồng thời ảnh hưởng đến môi
trường sống.
- Báo cáo tổng hợp của Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên&Môi trường,
mỗi năm hoạt động nông nghiệp phát sinh khoảng 9.000 tấn chất thải nông
nghiệp nguy hại, chủ yếu là thuốc bảo vệ thực vật, trong đó không ít loại
thuốc có độ độc cao đã bị cấm sử dụng.
- Ngoài ra, cả nước còn khoảng 50 tấn thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu tại hàng
chục kho bãi; 37.000 tấn hóa chất dùng trong nông nghiệp bị tịch thu đang
được lưu giữ chờ xử lý. Môi trường nông thôn đang phải gánh chịu những
bất lợi từ hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Ví dụ: . Ở đồng bằng sông Hồng sau mười năm canh tác (từ 1990 đến 2000)
độ chua đất (pHKCL) trung bình giảm 4,5%. Tại đồng bằng sông Hồng và
đồng bằng sông Cửu Long lượng thuốc BVTV sử dụng tập trung ở mức cao
đã gây ô nhiễm nguồn nước ở các kênh, sông. Khối lượng vỏ bao thuốc
BVTV trung bình là 19 nghìn 637 tấn/năm, chủ yếu là các loại vỏ bao giấy
tráng kẽm, túi ni-lon (các loại chai nhựa và thủy tinh không đáng kể). Vỏ
bao thuốc BVTV hầu như không được thu gom mà vương vãi trên đồng
ruộng, kênh mương là nguồn ô nhiễm khá nghiêm trọng.
* Việc lạm dụng hoá chất trong sản xuất nông nghiệp đã làm cho đất, nước

nông sản bị ô nhiễm và làm ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người sản xuất và
người sử dụng. Theo kết quả điều tra mới nhất của Đại học Quốc gia Hà
Nội, cả nước hiện nay có khoảng 15 - 29 triệu người thường xuyên tiếp xúc
với thuốc bảo vệ thực vật. Điều đáng báo động là khoảng 70% trong số họ
có triệu chứng bị nhiễm độc, thậm chí là bị ngộ độc.
2. Rác thải trong chăn nuôi là một nguyên nhân cơ bản gây ô nhiễm môi
trường nông thôn.
Trong chăn nuôi, phân và nước thải tuy rất hữu ích cho cây trồng nhưng
cũng gây ô nhiễm không khí và môi trường sống của con người và động vật.
Chất thải chăn nuôi có nguy cơ gây ô nhiễm cao do ít được xử lý triệt
để bao gồm chất thải của trâu, bò, dê, cừu. Đây cũng là những
nguồn thải chứa nhiều mầm bệnh, nếu không được thu gom và xử lý
tốt nó sẽ trở thành những nguồn phát tán nguy hiểm, ảnh
hưởng đến sức khoẻ của con người.Khi chăn nuôi phát triển với quy mô
lớn, mỗi trang trại hàng ngàn con gà, hàng trăm con lợn, hàng chục con bò
sữa, bò thịt đồng thời chăn nuôi ở liền khu dân cư thì ô nhiễm môi trường là
một vấn đề đáng báo động và cần phải giải quyết. Mức độ ô nhiễm môi
trường càng tăng khi chăn nuôi hàng hoá càng lớn. Lượng nước thải lớn từ
chuồng trại chăn nuôi, từ nơi tập trung phân và lượng phân bón cho đồng
ruộng khiến cho nước trên mặt bị ô nhiễm gây ảnh hưởng không tốt đối với
sức khỏe của gia súc, người làm việc trong trại chăn nuôi và làm giảm hiệu
quả sản xuất của cơ sở chăn nuôi
Do nhận thức còn hạn chế, người chăn nuôi thường thải phân rác
chưa qua xử lý ra môi trường xung quanh, nơi bản thân gia đình họ
cùng cộng đồng đang sinh sống. Vì thế, môi trường ở nông thôn,
nhất là khu vực chăn nuôi tập trung bị ô nhiễm rất nghiêm trọng.
Theo thống kê, hiện nay có khoảng 77% dân số nước ta đang sinh
sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu. Phần lớn các
chất thải của con người và gia súc ở đây không được xử lý, thấm
xuống đất hoặc rửa trôi gây ô nhiễm nguồn nước. Nhiều nơi do nuôi

trồng thủy sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ
thuật đã tác động tiêu cực tới môi trường nước và không khí. Lượng
nước thải của các cơ sở chăn nuôi tập trung, chế biến thủy sản đông
lạnh cũng rất lớn, từ vài chục ngàn đến hàng trăm ngàn mét khối
trong một năm.
Theo thống kê của Cục Chăn nuôi, lượng chất thải rắn do vật nuôi
thải ra (phân và các chất độn chuồng, thức ăn thừa, xác gia súc, gia
cầm chết, chất thải lò mổ ) tổng khối lượng chất thải chăn nuôi bình
quân khoảng hơn 73 triệu tấn/năm (trong đó chất thải của trâu chiếm 21,9%,
bò chiếm 32,5%, lợn chiếm 33,4%) trong năm 2008 là 80,49 triệu tấn,
trong đó chỉ riêng miền Bắc chiếm đã chiếm tới 51 triệu tấn. Tuy
nhiên, ước tính hiện nay, mới chỉ có khoảng 40-70% loại chất thải
này được xử lý. Số còn lại được thải thẳng ra ao, hồ, kênh, rạch.
Ví dụ: ở đồng bằng sông Hồng đã xuất hiện thêm nhiều làng nghề
chăn nuôi và giết mổ gia súc, mỗi ngày làng nghề mổ trung bình từ
80 đến 100 con trâu bò, từ 250 đến 300 con lợn, ngày cao điểm lên
đến hàng ngàn con. Mỗi gia đình làm nghề chăn nuôi, giết mổ gia
súc thải ra từ 3-4 m3 nước thải, 80-100 kg phân, và từ 15-20 kg
xương. Ở một số làng nghề làm bún, bánh phở, sản phẩm phụ được
người dân dùng để chăn nuôi lợn, gà, cá và làm phân bón ruộng.
Chất thải rắn như bã rượu, phân lợn, trâu bò, xỉ than; chất thải lỏng
như nước rửa nguyên liệu, chuồng trại khoảng 4.000 đến 5.000
m3/ngày đêm. Tất cả các chất thải đều chưa qua xử lý vẫn thải trực
tiếp ra ao hồ và ruộng lúa quanh làng.
3. Rác thải sinh hoạt.
Cuộc sống của nhân dân được cải thiện, nhu cầu xả rác cũng không ngừng
tăng, trong khi đó, ý thức vệ sinh công cộng của bộ phận dân chưa thực sự
tốt, cơ sở hạ tầng yếu kém, dịch vụ môi trường chưa phát triển nên khả năng
xử lý ô nhiễm môi trường hạn chế.
Nếu như ở các đô thị lớn, trung bình một người thải ra 1kg rác một

ngày thì tại nông thôn, lượng rác thải ra của mỗi người dân cũng vào
khoảng 0,6- 0,7kg. Như vậy, với khoảng 50 triệu dân đang sống ở
các vùng nông thôn Việt Nam như hiện nay thì mỗi ngày chúng
ta thải ra khoảng 30-35 nghìn tấn rác. Tuy vậy, hiện nay, chúng ta
mới chỉ thu gom được khảng 50% lượng rác hàng ngày. Cách thức
thu gom chủ yếu vẫn là do người dân tự đào hố chôn lấp hoặc đốt
còn lại đa phần được thải bừa bãi ra những nơi công cộng như gầm
cầu, ven sông, hồ.
4. Nhận thức , ý thức bảo vệ môi trường của người dân sinh sống ở nông
thôn chưa cao.
Người dân nông thôn vốn xưa nay còn phải quan tâm nhiều hơn đến cuộc
sống mưu sinh. Khi cuộc sống chưa được đảm bảo thì việc bảo vệ môi
trường là thứ yếu. Nạn chặt phá rừng làm nương rẫy, lạm dụng thuốc bảo vệ
thực vật trong sản xuất, việc xả nước, rác thải, sử dụng nước không đảm bảo
vệ sinh, việc đầu tư các công trình phục vụ đời sống và sức khỏe, việc tham
gia công tác vệ sinh môi trường công cộng. …sẽ rất hạn chế.
5. Các nguyên nhân khác:
- Ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, hiên đại hóa. Ngoài phát triển
làng nghề truyền thống và công nghiệp chế biến, hiện nay nông thôn đang
được công nghiệp hóa, hiện đại hóa mạnh mẽ. Phần lớn các khu công
nghiệp, khu chế xuất, liên doanh đăt tại khu vực nông thôn. Hầu như các khu
công nghiệp, chế xuất, liên doanh ít quan tâm đầu tư công nghệ xử lí môi
trường hoặc nếu có cũng chỉ là chống đối, hoạt động không thực sự hiệu
quả
IV. Ảnh hưởng của môi trường nông thôn tới sức khỏe cộng đồng:
Môi trường nông thôn có quan hệ chặt chẽ, gián tiếp hoặc trực tiếp tới sức
khoẻ của cộng đồng dân cư nói chung và cộng đồng dân cư nông thôn nói
riêng.
- Tỷ lệ mắc các bệnh lý ở một số địa phương xấp xỉ 50% dân số; đặc biệt
mắc nhiều các bệnh như ung thư, mắt hột, đường ruột, tiêu chảy

- Kết quả điều tra ở các làng nghề cơ khí, đúc, sản xuất nguyên vật liệu do
sử dụng than lớn tỷ lệ người mắc các bệnh phổi, phế quản cao hơn mức
trung bình từ 1-2 lần.
- Vùng nông thôn dùng nhiều thuốc bảo vệ thực vật, hoá chất độc hại, kim
loại nặng tỷ lệ người mắc bệnh ung thư cao.
- Ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí đe doạ đến sức khoẻ người dân
nông thôn. Nhiều “làng ung thư” đã xuất hiện ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú
Thọ, Hải Phòng; gần đây xuất hiện dịch bệnh, các loại bệnh lạ trong đó có
phần liên quan đến môi trường
- Vùng có ô nhiễm lớn về nguồn nước, các bệnh ngoài da, mắt hột, bệnh da
liễu, phụ khoa tăng hơn mức trung bình từ 50-70%.
* Ví dụ, làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm Cát Quế, Dương Liễu
(Hà Tây) tỷ lệ người mắc bệnh ngoài da, đau mắt hột chiếm tới 70% dân số.
Xã Liễu Xá (Hưng Yên) do ô nhiễm nguồn nước từ làm nghề thuộc da, dư
lượng Cr, phèn, vôi… nên tỷ lệ người mắc bệnh phổi, não, da, hô hấp, mắt…
cao hơn mức bình quân 1,5 – 2 lần.
Hay như tại các lưu vực sông bị ô nhiễm ở xã Hoàng Tây (tỉnh Hà Nam), tỷ
lệ mắc bệnh đường ruột ngày càng tăng, trong đó 21% trẻ em dưới 5 tuổi bị
mắc bệnh tiêu chảy; 86% trẻ em bị mắc bệnh giun đũa; 76% mắc bệnh giun
tóc Các xã Hòa Hậu, Bồ Đề, Vĩnh Trù, nghiên cứu cho thấy 94,4% giếng
khoan có hàm lượng asen (thạch tín).
V. Môi trường nông thôn cần giải pháp hữu hiệu:
Nâng cao mức sống, vệ sinh môi trường nông thôn là chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá trình độ CNH, HĐH của đất nước. Dự báo đến năm 2020 mức sống
dân cư nông thôn tăng gấp 4 – 5 lần so với hiện nay, 100% số hộ có nhà ở
kiên cố và bán kiên cố, tỷ lệ nhà ở kiên cố là 70% và bán kiên cố 30%,
100% số hộ có nhà vệ sinh đúng tiêu chuẩn, 100% số hộ được dùng nước
sạch, loại bỏ hoàn toàn những tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước, đất, không
khí, bụi và tiếng ồn, môi trường nông thôn trong sạch. Để làm được điều đó
chúng ta cần có những biện pháp hữu hiệu:

Các chuyên gia về môi trường của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
cho rằng, việc trước tiên cần xây dựng chính sách về bảo vệ môi trường
nông nghiệp nông thôn, đồng thời cụ thể hóa những điều luật bảo vệ môi
trường. Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng mạng lưới quản lý môi trường
nông nghiệp nông thôn từ Trung ương đến địa phương nhằm thúc đẩy việc
chia sẻ thông tin và tăng cường công tác quản lý môi trường. Ðáng chú ý,
cần nâng cao chất lượng sản phẩm nông, lâm, thủy sản nhằm gắn với công
tác bảo vệ môi trường, tăng sức cạnh tranh và giảm thiểu tác động xấu từ
mặt trái của quá trình toàn cầu hóa. Trong phát triển lâu dài và bền vững,
Ngành nông nghiệp cần triển khai thực hiện việc lập và thẩm định đánh giá
môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường đối với tất cả các dự án
thuộc ngành. Xây dựng được các mô hình nông thôn phát triển và bảo đảm
vệ sinh và xử lý các điểm nóng ô nhiễm, suy thoái môi trường nông nghiệp,
nông thôn. Cảnh báo, ngăn chặn kịp thời việc phát sinh các điểm nóng ô
nhiễm, suy thoái môi trường nông nghiệp, nông thôn. Ðẩy mạnh công tác
nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện môi trường. Hệ
thống các giải pháp công nghệ trong xử lý chất thải cần phù hợp điều kiện
thực tiễn Việt Nam để từng bước hướng dẫn doanh nghiệp, người sản xuất
tự nguyện tuân thủ công tác bảo vệ môi trường. TS Nguyễn Hồng Sơn, Viện
trưởng Viện Môi trường nông nghiệp khẳng định: Hiện các kết quả nghiên
cứu về bảo vệ môi trường đã có nhiều thành tựu nhưng tính phổ rộng còn
chưa nhiều, đưa vào thực tế sản xuất ở Việt Nam còn khó khăn do sản xuất
nhỏ, phân tán. Thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông
thôn cũng được chú trọng triển khai. Ðiển hình như các chương trình, dự án
phát triển bảo vệ môi trường như: Mô hình xử lý rác thải nông nghiệp, phân
gia súc để làm thức ăn cho thủy sản và nuôi gia súc; mô hình xử lý rác thải,
nước thải cho các hộ sản xuất miến dong tại Hoài Ðức (Hà Nội); nghiên cứu,
tạo ra các chế phẩm vi sinh vật tổng hợp có tác dụng phân giải nhanh các
chất hữu cơ, ức chế hoạt động vi sinh vật gây mùi hôi, tiêu diệt một số vi
sinh vật hại cây trồng; chương trình ứng dụng sản phẩm công nghệ sinh học

bảo vệ thực vật trong sản xuất rau an toàn của Viện Môi trường nông
nghiệp đã góp phần quan trọng tạo nên những phương pháp xử lý môi
trường hiệu quả trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Mặt khác, Cục Bảo vệ Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã chi
hàng trăm tỷ đồng cho các hoạt động môi trường làng nghề như điều tra
đánh giá, nghiên cứu công nghệ xử lý chất thải, xây dựng các mô hình thu
gom và xử lý chất thải nhưng chưa đáp ứng kịp tốc độ gia tăng ô nhiễm. Vì
vậy, trong bảo vệ môi trường cũng cần việc quản lý ban đầu, hạn chế cao
nhất nguồn gây ô nhiễm và ngăn chặn ô nhiễm kịp thời, xử lý khi ô nhiễm
còn sơ khai cũng là yếu tố quan trọng trong bảo vệ môi trường. Cần đẩy
mạnh nghiên cứu các giải pháp khoa học nhằm xử lý bằng cách tận dụng, tái
sử dụng nguồn gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận
thức về bảo vệ môi trường cho mọi người cũng có vai trò quan trọng trong
công tác bảo vệ môi trường cho nông nghiệp, nông thôn phát triển hiệu quả,
bền vững.
Nội dung
I. Đặt vấn đề
1. Khái niệm ô nhiễm môi trường.
2. Những khái niệm liên quan.
II. Vài nét về tình hình môi trường nông thôn hiện nay.
III. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nông thôn.
1. Việc lạm dụng và sử dụng không hợp lý các loại hoá chất trong sản
xuất nông nghiệp như phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật một
cách tràn lan, không có sự kiểm soát của ngành chức năng.
2. Rác thải trong chăn nuôi.
3. Rác thải sinh hoạt
4. Ý thức của người dân nông thôn
5. Các nguyên nhân khác
IV. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường nông thôn tới sức khỏe
cộng đồng.

V. Môi trường nông thôn cần những biện pháp hữu hiệu.

×