Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Hướng dẫn xây dựng chiến lược Khoa học và công nghệ cho các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726 KB, 84 trang )

Hướng dẫn xây dựng chiến lược công nghệ
cho các doanh nghiệp
Hà nội, tháng 06 năm 2013
Hướng dẫn xây dựng chiến lược công nghệ
cho các doanh nghiệp
2
2
3
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CL
CN
Chiến lược công nghệ
CT
TC
Cho thuê tài chính
CG
CN
Chuyển giao công nghệ
DN
N&V
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
ĐM
CN
Đổi mới công nghệ
KH
&CN
Khoa học và công nghệ
KH
KD
Kế hoạch kinh doanh


RE Reverse Engineering
Thiết kế, chế tạo theo mẫu của nước ngoài
SM
EDF
The Small-and Medium-Sized Development Fund
Dự án Quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
SM
EFP
The Small and Medium Enterprise Finance Program
Chương trình hỗ trợ tài chính Doanh nghiệp nhỏ và vừa
SM
ESC
Small and Medium Enterprise Loan Guarantee of SECO’s Swiss Green
Credit Trust Fund
Quỹ tín dụng xanh Thuỵ sĩ
SX
TN
Sản xuất thử nghiệm
TM
CP
Thương mại cổ phần
4
4
UN
IDO
The United Nations Industrial Development Organization
Cơ quan Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc
VC
CI
Vietnam Chamber of Commerce and Industry

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
5
5
MỞ ĐẦU
Nhận rõ tiềm năng quan trọng của KH&CN đối với việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan
trọng nhằm khuyến khích phát triển sản xuất- kinh doanh, ĐMCN. Trong những năm
qua, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang dần được cải thiện, số lượng các
doanh nghiệp gia tăng nhanh chóng, nhiều tổ chức dịch vụ hỗ trợ đổi mới cho các
doanh nghiệp được thành lập và đang đang có những bước phát triển mới về chất
lượng.
Tuy nhiên, trình độ và năng lực công nghệ của nhiều doanh nghiệp hiện nay
còn rất thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh trong những năm tới. Các cuộc
điều tra, khảo sát cho thấy hơn 80% các doanh nghiệp chưa quan tâm, nhận thức đúng
tầm quan trọng của chiến lược công nghệ; trong khi đó, chiến lược phát triển KH&CN
ở một số doanh nghiệp quy mô lớn, tập đoàn của Nhà nước chủ yếu được lập ra mang
tình hình thức, một phần do thiếu các kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn.
Cùng với nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh, các biện pháp hỗ trợ
nâng cao năng lực ĐMCN thông qua việc cung cấp các tài liệu hướng dẫn, nâng cao
các kỹ năng nghiệp vụ đang giành được sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp.
Mục tiêu của tài liệu này nhằm trang bị cho các nhà quản trị doanh nghiệp một
số kỹ năng nghiệp vụ thực hành cần thiết phục vụ nhu cầu xây dựng và thực hiện chiến
lược công nghệ, đổi mới công nghệ. (*)
Dựa trên kết quả điều tra nhu cầu của các doanh nghiệp, tài liệu này tập trung
hướng dẫn một số nội dung cơ bản gồm: một số thuật ngữ cơ bản về ĐMCN, khung
chiến lược công nghệ, kỹ năng tìm kiếm công nghệ, lựa chọn công nghệ thích hợp, lựa
chọn hình thức phù hợp để có được công nghệ mới, đàm phán hợp đồng CGCN và huy
động vốn cho ĐMCN.
_______________________________________________________
(*) Tài liệu này không nhằm thay thế vai trò của các nhà tư vấn. Các kỹ năng nghiệp vụ giới

thiệu trong tài liệu này nhằm mục đích giúp các nhà quản trị doanh nghiệp làm quen với một
số vấn đề liên quan đến Chiê´n lược phát triển KH&CN để qua đó có thể trao đổi một cách
hiệu quả với các nhà tư vấn chuyên nghiệp khi có nhu cầu.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhiều thuật ngữ kinh tế - công nghệ đã được
du nhập vào Việt Nam, như: công nghệ, đổi mới công nghệ, hệ thống đổi mới và chiến
lược phát triển KH&CN v.v Tuy nhiên, việc nhận thức và vận dụng các thuật ngữ
này đối với nhiều doanh nghiệp còn nhiều bất cập.Phần này giới thiệu một số khái
niệm cơ bản nhằm giúp các nhà quản trị doanh nghiệp nhận thức và vận dụng đúng
đắn trong quá trình xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển KH&CN.
I.1. Công nghệ
Về cơ bản, công nghệ bao gồm phần mềm và phần cứng. Phần mềm bao gồm
các giải pháp kỹ thuật, quy trình công nghệ, thiết kế kỹ thuật và bí quyết kỹ thuật;
phần cứng bao gồm hệ thống máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất.
Trong thực tế, việc hiểu và vận dụng thuật ngữ công nghệ trong hoạt động quản
lý có thể khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, chiến lược phát triển và năng lực công
nghệ của từng doanh nghiệp (Hộp 1).
Hộp 1. Hiểu và vận dụng thuật ngữ công nghệ
- Việc đầu tư mua sắm, nâng cấp phần cứng có thể giúp doanh nghiệp nhanh
chóng đưa sản phẩm mới ra thị trường, tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
Trong quá trình ứng dụng vào thực tiến SX-KD, doanh nghiệp có thể học hỏi, tích lũy
kinh nghiệm, kỹ năng tay nghề. Điều này có thể cho phép doanh nghiệp tạo ra những cải
tiến nhỏ, thường xuyên nhằm duy trì sức cạnh tranh trong ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu không
có kế hoạch phát triển trung và dài hạn, cùng với những thay đổi cần thiết trong nhận thức
về công nghệ và quản lý công nghệ, doanh nghiệp sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh.
- Mặt khác, trong một số lĩnh vực công nghệ mới (điện tử, cơ khí chính xác, tự
động hóa, năng lượng mới…), việc thích nghi công nghệ mua về để phù hợp với điều kiện
ứng dụng đặc thù của từng doanh nghiệp có thể dễ dàng hơn nếu doanh nghiệp nắm vững
kiến thức, giải pháp và bí quyết công nghệ. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp các
doanh nghiệp muốn tự tạo ra được những cải tiến đáng kể đối với những công nghệ, thiết

bị mua về. Nắm vững nguyên lý công nghệ cho phép doanh nghiệp tự thiết kế, chế tạo
hoặc thuê các đơn vị khác gia công chế tạo các máy móc thiết bị liên quan. Như vậy, việc
đầu tư cho “phần mềm” sẽ tạo điều kiện nâng cao năng lực làm chủ công nghệ, giảm dần
mức độ phụ thuộc vào các nguồn công nghệ bên ngoài và nâng cao vị thế trong đàm phán
mua bán công nghệ.
- Các chính sách khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước cho ĐMCN thường liên quan
đến các đối tượng phần mềm của công nghệ. Ví dụ, các quy định tài trợ, cho vay chủ yếu
dành cho việc mua giải pháp, bí quyết công nghệ, nghiên cứu và đào tạo để thích nghi, cải
tiến công nghệ hiện có hoặc tạo ra công nghệ mới. Do đó, để có thể nhận được các hỗ trợ,
ưu đãi, các nhà quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là các DNN&V cần có những nhận thức và
vận dụng đúng hơn về khái niệm công nghệ trong hoạt động quản lý.
I.2. Các loại hình công nghệ
Dựa vào mục tiêu ứng dụng, có thể phân chia công nghệ thành hai loại hình:
“công nghệ sản phẩm” và “công nghệ quy trình”.
- Công nghệ sản phẩm liên quan đến các đặc tính của công nghệ hàm chứa
trong các sản phẩm, dịch vụ. Ví dụ, công nghệ chế tạo khuôn ép nhựa và khuôn ép kim
loại là hai loại công nghệ khác khác nhau trong ngành chế tạo khuôn mẫu.
- Công nghệ quy trình. Công nghệ quy trình bao gồm hệ thống dây chuyền máy
móc, thiết bị, cách thức tổ chức sản xuất, phân phối sản phẩm.ĐMCN quy trình nhằm
nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm và rút ngắn thời gian đưa ra sản phẩm ra thị
trường.
Trong thực tế, công nghệ sản phẩm của doanh nghiệp này chính là công nghệ
quy trình của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, các công nghệ CNC (dây chuyền sản
xuất được điều khiển bằng máy tính) thuộc công nghệ quy trình trong ngành gia công
cơ khí, nhưng lại là công nghệ sản phẩm trong ngành tự động hóa, cơ điện tử.
Tùy vào điều kiện và yêu cầu của sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp có thể
lựa chọn một trong hai loại hình ĐMCN, hoặc tiến hành đồng thời cả ĐMCN sản
phẩm và ĐMCN quy trình.
I.3. Đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ là gì?

ĐMCN là việc chủ động thay thế một phần hay toàn bộ công nghệ đang được
sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn nhằm nâng cao hiệu quả của sản xuất -
kinh doanh.
Quan điểm chung đều nhấn mạnh yêu cầu đối với một doanh nghiệp được xem
là đã ĐMCN là sản phẩm mới phải được đưa ra thị trường (đổi mới sản phẩm), hoặc
một quy trình sản xuất mới được đưa vào ứng dụng trong sản xuất-kinh doanh (đổi
mới quy trình). Như vậy, một sản phẩm mới không thương mại hoá được không coi là
đổi mới sản phẩm, và những thay đổi về quy trình chưa được áp dụng trong sản xuất
thì chưa được tính là đổi mới quy trình.
“Mới và được cải tiến đáng kể” cần được hiểu là so với chính doanh nghiệp đó,
không nhất thiết phải là mới hoặc được cải tiến so với ngành, quốc gia hay thế giới.
1

Quan điểm này phù hợp với tính chất của hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp ở
Việt Nam, đặc biệt là các DNN&V.
Các loại hình đổi mới công nghệ
Hiểu rõ các loại hình ĐMCN sẽ giúp các nhà quản trị doanh nghiệp lựa chọn
cách tiếp cận, giải pháp quản lý các dự án ĐMCN hiệu quả hơn.
Dựa vào mục tiêu của ĐMCN, có thể phân chia ĐMCN thành hai loại cơ bản:
đổi mới công nghệ sản phẩm (đổi mới sản phẩm) và đổi mới công nghệ quy trình (đổi
mới quy trình).
Liên quan đến mức độ của đổi mới, ĐMCN bao gồm hai mức độ: mới và cải
tiến. Theo đó, ĐMCN có thể nhằm đưa ra thị trường sản phẩm mới (ứng dụng quy
trình sản xuất mới) hoặc được cải tiến đáng kể về công nghệ.
Đổi mới sản phẩm là việc một doanh nghiệp đưa ra được thị trường sản phẩm
mới hoặc sản phẩm được cải tiến đáng kể về công nghệ với những tính năng, công
dụng mới hơn so với các sản phẩm cùng loại được doanh nghiệp sản xuất trước đây.
Hộp 2. Sản phẩm mới và Sản phẩm được cải tiến về công nghệ
1 Quan điểm này được đưa ra trong Tài liệu hướng dẫn Oslo, OECD (1992), và đã được nhiều nước áp dụng
trong hoạt động đánh giá, thông kê về ĐMCN của các DNN&V.

- Sản phẩm mới về công nghệ là sản phẩm có công dụng, tính năng hoàn toàn mới
so với các sản phẩm cùng chủng loại được doanh nghiệp sản xuất trước đó. Sản phẩm mới
có thể được tạo ra nhờ ứng dụng các công nghệ hoàn toàn mới, hoặc bằng cách thay đổi
cách thức tổ chức, tích hợp các công nghệ hiện có để tạo ra tính năng, công dụng mới của
sản phẩm. Ví dụ:
+ Một doanh nghiệp chuyên đúc khuôn ép các sản phẩm nhựa, nay đưa ra thị
trường khuôn ép các sản phẩm kim loại kim loại thì loại sản phẩm khuôn ép kim loại là
sản phẩm mới của doanh nghiệp đó (mặc dù sản phẩm này có thể không mới đối với
ngành chế tạo khuôn mẫu).
+ Một doanh nghiệp sản xuất tai nghe nhạc có dây, nay đưa ra thị trường tai nghe
không dây dựa trên công nghệ Bluetooth thì loại tai nghe không dây này là một sản phẩm
mới. Sản phẩm này dựa trên việc tích hợp các công nghệ sản xuất tai nghe trước đó với
công nghệ Bluetooth.
- Sản phẩm được cải tiến về công nghệ được hiểu là một sản phẩm vẫn thuộc dòng
sản phẩm trước đó, nhưng có tính năng, công dụng mới hơn nhờ có những cải tiến đáng kể
về công nghệ. Những đổi mới này có thể được tạo ra nhờ việc sử dụng loại nguyên vật liệu
thích hợp hơn (chi phí thấp hơn hoặc tiết kiệm năng lượng, bền hơn…), hoặc dựa trên việc
đổi mới một số bộ phận/linh kiện của sản phẩm đó. Ví dụ:
+ Một doanh nghiệp sản xuất các loại giấy thơm nay đưa ra thị trường loại giấy
thơm tiệt trùng (đã qua xử lý thanh trùng), kết hợp với những cải tiến về kỹ thuật sắp xếp
và đóng hộp để thuận tiện cho người sử dụng thì loại sản phẩm mới này được xem là sản
phẩm được cải tiến về công nghệ.
+ Một doanh nghiệp hiện đang chế biến nước hoa quả, nay đưa ra loại nước hoa
quả giữ được các hương vị tự nhiên thì loại nước hoa quả mới này là sản phẩm được cải
tiến về công nghệ.
Đổi mới quy trình là việc một doanh nghiệp đưa vào ứng dụng quy trình công
nghệ sản xuất mới hoặc được cải tiến đáng kể về công nghệ so với quy trình công nghệ
sản xuất được doanh nghiệp ứng dụng trước đó.
Hộp 3. Quy trình mới và quy trình được cải tiến về công nghệ
- Quy trình mới: là cách thức mới để sản xuất ra sản phẩm và thường gắn với

hệ thống máy móc - thiết bị mới, dựa trên các nguyên lý công nghệ mới, phương
pháp tổ chức sản xuất mới. Ví dụ:
+ Một doanh nghiệp chế tạo khuôn mẫu đưa vào sử dụng các loại máy gia
công cơ khí CNC (máy cắt dây CNC, máy phay CNC…) để thay thế các máy gia
công cơ khí thế hệ cũ thì doanh nghiệp đó được xem là đã thực hiện đổi mới quy
trình. Quy trình mới này dựa trên các kỹ thuật lập trình thiết kế & chế tạo với sự trợ
giúp của máy tính. Các kỹ thuật cơ khí truyền thống trước đây không cho phép chế
tạo các loại khuôn mẫu đòi hỏi độ chính xác cao, mẫu mã thay đổi nhanh.
+ Một doanh nghiệp sản xuất các loại sản phẩm nhựa cao cấp áp dụng quy
trình sản xuất khép kín tự động, từ khâu trộn/ phối liệu - tạo hạt nhựa - ép đùn hỗn
hợp để sản xuất các loại cửa sổ, cửa ra vào, vách ngăn với độ bền cao, tránh trầy
xước, mầu sắc đa dạng, chịu độ ẩm và nhiệt độ cao…
- Quy trình được cải tiến về công nghệ: là việc cải tiến cách thức sản xuất để
tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, nhưng thường vẫn dựa trên các
nguyên lý công nghệ cũ và sản phẩm sản xuất ra vẫn là các sản phẩm truyền thống.
+ Một doanh nghiệp đưa vào sử dụng “cánh tay rô bốt”để vận chuyển bán
thành phẩm giữa các công đoạn sản xuất thay cho các hoạt động thủ công trước đó
thì doanh nghiệp đó đã thực hiện cải tiến quy trình sản xuất.
+ Một doanh nghiệp chế biến hoa quả đưa vào sử dụng máy đục lõi dứa
trong qui trình chế biến dứa khoanh hộp thay cho các hoạt động thủ công bằng tay
trước đó có thể coi là một cải tiến quy trình.
Đổi mới căn bản và đổi mới tuần tự: Sự phân định giữa đổi mới căn bản và
đổi mới tuần tự được sử dụng để hỗ trợ xây dựng chiến lược ĐMCN phù hợp. Tuy
nhiên, sự phân định như vậy chưa giúp lý giải vì sao doanh nghiệp này có nhiều lợi thế
hơn doanh nghiệp kia. Thực tế, không ít doanh nghiệp sở hữu các công nghệ thành
phần quan trọng nhưng lại thất bại trong việc tạo ra các sản phẩm ưu việt hơn.
Hình 1 phác thảo mối quan hệ giữa các loại hình ĐMCN, theo đó chiều ngang
biểu thị tác động của ĐMCN đối với các bộ phận hợp thành, chiều dọc biểu thị tác
động tới mối liên kết giữa các bộ phận đó. Đổi mới căn bản tạo ra một sản phẩm hoàn
toàn mới về thiết kế và thông số kỹ thuật, vì thế yêu cầu sự tương thích của các bộ

phận cấu thành được liên kết với nhau theo một kết cấu hoàn toàn mới. Mặt khác, đổi
mới tuần tự tạo ra những cải tiến (về thiết kế và thông số kỹ thuật) chủ yếu đối với các
bộ phận cấu thành của sản phẩm, còn giải pháp kỹ thuật để liên kết các bộ phận này về
cơ bản không thay đổi.
Một sản phẩm hoặc quy trình mới thường được cấu thành bởi nhiều công nghệ
hợp phần khác nhau. Ví dụ, một chiếc quạt cảm ứng bao gồm ít nhất 4 công nghệ
thành phần chủ yếu: động cơ, cánh quạt, bộ phận cảm ứng (nhiệt độ, độ ẩm), và hệ
thống phun hơi nước. Tương tự, một ổ cứng USB flash được tạo ra nhờ 3 công nghệ
cơ bản: bản mạch in, đầu cắm kết nối với các cổng USB, và vỏ bảo vệ. Mỗi công nghệ
này lại được tích hợp từ nhiều công nghệ đơn lẻ khác. Mặc dù việc ĐMCN có thể
được tạo ra nhờ phát triển các công nghệ đơn lẻ để tạo ra sản phẩm hoặc quy trình
mới, nhưng ĐMCN dựa trên tích hợp các công nghệ thành phần sẵn có sẽ được nhiều
doanh nghiệp trong nước quan tâm.
Hình . Các loại hình đổi mới công nghệ
Đổi mới căn bản
Đổi mới kết cấu
Đổi mới tuần tự
Đổi mới mô-đun
Tác động ít tới kết cấu hệ thống công nghệ
Tác động ít tới công nghệ hợp phần
Tác động lớn tới công nghệ hợp phần
Tác động lớn tới kết cấu hệ thống công nghệ
Nguồn: Henderson, 1990; Narayanan, 2001.
Ở Việt Nam, ĐMCN của các doanh nghiệp chủ yếu được thực hiện theo hai cách:
- Ứng dụng công nghệ mới để thay thế công nghê đang được sử dụng; và
- Tái tổ chức, tích hợp các công nghệ hợp phần trong hệ thống công nghệ hiện
có theo các cách khác nhau.
Trên cơ sở đó, có thể phân chia ĐMCN thành bốn loại hình cơ bản: Đổi mới
tuần tự, đổi mới mô-đun, đổi mới cấu trúc và đổi mới căn bản. Cụ thể có thể phân
thành bốn loại sau:

- Đổi mới tuần tự. Đổi mới tuần tự là loại hình đổi mới tạo ra những cải tiến về
công nghệ dựa trên những sản phẩm, quy trình sản xuất hiện có.Loại đổi mới này dựa
trên các kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm được học hỏi, tích lũy thông qua quá trình
sản xuất - kinh doanh.Kết quả của đổi mới này vẫn là những sản phẩm thuộc dòng sản
phẩm được doanh nghiệp sản xuất trước đó, hoặc là những quy trình sản xuất đã được
doanh nghiệp ứng dụng vào sản xuất.Mặc dù để thực hiện loại đổi mới này không đòi
hỏi phải có kiến thức mới, nhưng phải có năng lực thích nghi, cải tiến. Đổi mới tuần tự
thường được nhiều DNN&V lựa chọn do có thể tận dụng được các nguồn lực sẵn có.
- Đổi mới mô-đun. Đổi mới mô-đun là loại đổi mới tạo ra những thay đổi đáng kể
đối với một số công nghệ hợp phần của sản phẩm hoặc quy trình dựa trên các kiến thức
sẵn có về thiết kế và tích hợp hệ thống.Đổi mới mô-đun đòi hỏi doanh nghiệp phải có kiến
thức mới về một hoặc một số công nghệ hợp phần.
- Đổi mới kết cấu hệ thống công nghệ. Ngược lại với đổi mới mô-đun, đổi
mới kết cấu công nghệ là loại đổi mới dựa trên việc tái tổ chức các bộ phận, công nghệ
hợp phần trong hệ thống công nghệ hiện có theo các cách khác nhau nhằm tạo ra một
hệ thống công nghệ mới (sản phẩm, quy trình). Đổi mới kết cấu không đòi hỏi kiến
thức mới về các công nghệ hợp phần, mà chủ yếu dựa trên kiến thức thiết kế và tích
hợp các công nghệ hợp phần trong hệ thống công nghệ hiện có để tạo ra hệ thống công
nghệ mới. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp mới thành lập thường quan tâm đến loại
hình đổi mới này nhằm khai thác các thị trường ngách (Niches market).
- Đổi mới căn bản. Đổi mới căn bản là những thay đổi toàn bộ về tính năng và
nguyên lý công nghệ so với các công nghệ cùng chủng loại hiện có. Loại đổi mới này
đòi hỏi doanh nghiệp phải có kiến thức hoàn toàn mới cả về các công nghệ hợp phần
và kết cấu hệ thống công nghệ. Hiện tại và trong tương lai gần, rất ít doanh nghiệp
trong nước quan tâm, hoặc có khả năng thực hiện loại đổi mới này.
I.4. Hệ thống đổi mới của doanh nghiệp
Hệ thống đổi mới cấp doanh nghiệp
2
là tập hợp các bộ phận chức năng, phương
thức tổ chức quản lý doanh nghiệp (marketing, sản xuất, phân phối, nhân lực, nghiên

cứu & phát triển,…) và các mối quan hệ tương tác có tác động quan trọng tới hoạt
động đổi mới của doanh nghiệp.
2 Thuật ngữ “Hệ thống đổi mới cấp doanh nghiệp” trong các tài liệu tiếng Anh được dùng là “Corporate
innovation system – CIS”
Đổi mới mô-đun
Các thiết bị thông tin không dây
(tai nghe nhạc, chuột máy tính,
mô-đem, điện thoại kéo dài ),
hoặc nhiều thiết bị gia công cơ khí
được điều khiển bằng máy tính
(CNC) là những ví dụ minh họa về
đổi mới mô-đun.
Đổi mới kết cấu hệ thống công
nghệ
Một doanh nghiệp từng sản xuất
quạt bàn trước đây, nay đầu tư sản
xuất quạt trần thì trường hợp này
có thể được xem là đổi mới kết cấu
hệ thống công nghệ vì các công
nghệ hợp phần của quạt trần (cánh
quạt, động cơ, điều khiển…) cũng
giống quạt bàn nhưng được tổ
chức, tích hợp theo các cách khác
nhau.
Các mối quan hệ tương tác này bao gồm các quan hệ hợp tác giữa các đơn vị
chức năng trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa
các doanh nghiệp với khách hàng, các tổ chức đào tạo, các viện nghiên cứu/trường đại
học, các tổ chức tư vấn, dịch vụ.
Ở các doanh nghiệp lớn, các hoạt động này thường do các bộ phận chức năng
độc lập thực hiện (phòng nghiên cứu & phát triển/ kỹ thuật, phòng cung ứng, phòng

nhân sự, phòng marketing, phân xưởng sản xuất, phòng đầu tư & tài chính, phòng
chăm sóc khách hàng…). Các DNN&V thường dựa vào khai thác nguồn lực bên ngoài
để bù đắp những hạn chế, khiếm khuyết trong hệ thống của mình.
Cho dù là qui mô nhỏ hay lớn, mỗi doanh nghiệp có thể được xem là một hệ
thống. Tính chất của hệ thống đổi mới của doanh nghiệp thùy thuộc vào đặc điểm của
ngành nghề, trình độ công nghệ, loại hình và tính chất phức tạp của công nghệ, mức độ
chuyên môn hóa, chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp…
Ví dụ, đối với ngành công nghiệp lắp ráp ở Việt Nam (ô tô, xe máy, tivi…),
cạnh tranh chủ yếu dựa vào qui mô sản xuất, chất lượng, giá thành linh phụ kiện và
mạng lưới phân phối, bảo hành…, do đó các doanh nghiệp thường chú trọng phát triển
các mạng lưới liên kết với các doanh nghiệp ở nước ngoài để nhập khẩu linh phụ kiện,
dây chuyền công nghệ sản xuất, dịch vụ kỹ thuật và các nhà phân phối để mở rộng các
kênh tiêu thụ.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, hệ thống đổi mới của doanh
nghiệp không chỉ bó hẹp trong phạm vi doanh nghiệp, phạm vi vùng, mà còn mở rộng
ra qui mô quốc tế. Điều này cho thấy qui mô doanh nghiệp không còn được xem là lợi
thế mang tính quyết định, mà trong nhiều trường hợp, khả năng khai thác hiệu quả các
mạng lưới hợp tác đổi mới và sản xuất – kinh doanh đang trở nhân tố quyết định tới sự
thành công của nhiều doanh nghiệp.
I.5. Chiến lược phát triển KH&CN
Chiến lược phát triển KH&CN hay chiến lược công nghệ
Khác với cấp quốc gia, địa phương hay ngành công nghiệp, thuật ngữ chiến
lược phát triển KH&CN ít khi được sử dụng ở tầm doanh nghiệp. Thay vào đó, thuật
ngữ CLCN (hoặc chiến lược ĐMCN, chiến lược đổi mới) thường được sử dụng nhiều
hơn trong các tài liệu nghiên cứu về đổi mới của doanh nghiệp. Điều này do một số lý
do sau:
- Chiến lược phát triển KH&CN có phạm vi rộng hơn so với CLCN, bao gồm các
mục tiêu, định hướng ưu tiên và giải pháp cho phát triển hoạt động nghiên cứu
khoa học (nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, khoa học xã hội và nhân văn).
- Trong nghiên cứu khoa học (khoa học tự nhiên), sản phẩm của các nghiên cứu cơ

bản được tạo ra thường ở dạng kiến thức mới hay phát minh, chưa có tác động trực
tiếp tới việc sáng tạo công nghệ mới, và do đó, chưa thu hút sự quan tâm của doanh
nghiệp.
Do mục tiêu cơ bản là phát triển sản xuất – kinh doanh và tạo ra lợi nhuận nên
các doanh nghiệp thường ưu tiên đầu tư cho các công nghệ mới đã được thử nghiệm và
ứng dụng thành công. Các hoạt động nghiên cứu cũng đều thuộc loại nghiên cứu nhằm
thích nghi, làm chủ công nghệ mới mua về (hay băt chước) để phù hợp với điều kiện
sản xuất - kinh doanh đặc thù của mình.
Chiến lược công nghệ
CLCN là một văn bản riêng (hoặc một phần trong chiến lược kinh doanh) được
lập ra để giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu đã định trong sản xuất – kinh
doanh.
CLCN trình bày rõ các công nghệ ưu tiên, cách thức để có được các công nghệ
đó và các giải pháp khả thi để thực hiện chiến lược đó. Mục tiêu của CLCN nhằm tạo
cho doanh nghiệp những lợi thế mang tính chiến lược, nâng cao sức cạnh tranh trong
trung/dài hạn.
Để có thể khai thác tốt các chính sách hỗ trợ, ưu đãi, CLCN của doanh nghiệp
cũng cần được xây dựng phù hợp với các định hướng ưu tiên của ngành và quốc gia.
Các doanh nghiệp nên hướng các hoạt động đổi mới của mình vào việc thực hiện các
giải pháp của chiến lược phát triển KH&CN của quốc gia.
Thông thường, phó giám đốc phụ trách kỹ thuật/ công nghệ sẽ là người trực tiếp
chỉ đạo quá trình xây dựng và thực hiện CLCN. Quá trình soạn thảo CLCN của doanh
nghiệp nên có sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN, hoặc các tổ
chức tư vấn chuyên ngành.
Các loại hình CLCN của doanh nghiệp
Dựa trên qui mô công nghệ và sự dẫn đầu về công nghệ, CLCN có thể được
phân thành 04 loại hình sau:
(i) Chiến lược dẫn đầu về công nghệ (leadership). Đây là loại chiến lược nhằm
tạo ra và duy trì vị được vị thế cạnh tranh cao nhất trên thị trường về công
nghệ trong nhiều lĩnh vực. Do đó, công nghệ đóng vai trò quyết định tới lợi

thế cạnh tranh của các doanh nghiệp lựa chọn loại hình chiến lược này.
(ii) Chiến lược công nghệ chuyên biệt/ ngách (strategic niche). Đây là loại chiến
lược tập trung vào một số công nghệ then chốt nhằm tạo được vị thế dẫn
đầu.
(iii) Chiến lược đi sau về công nghệ (follower strategy). Đây là loại chiến lược
nhằm duy trì vị thế thích hợp trong nhiều lĩnh vực công nghệ. Doanh nghiệp
đi theo chiến lược này thường tập trung vào các hoạt động phát triển, ứng
dụng, và ít quan tâm tới hoạt động nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu ứng
dụng định hướng dài hạn. Trong trường hợp này, công nghệ không đóng vai
trò quyết định đối với việc nâng cao lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
(iv) Chiến lược hợp lý hóa công nghệ (rationalization). Loại chiến lược này
nhằm duy trì lợi thế thích hợp với một số loại công nghệ được doanh nghiệp
lựa chọn. Các doanh nghiệp đi theo loại chiến lược này thường phải khai
thác các lợi thế khác để bù đắp cho những hạn chế về mặt công nghệ.
Quy mô/phạm vi
Đa công nghệ Chọn lọc
Dẫn đầu
Dẫn đầu Dẫn đầu công nghệ trong nhiều
lĩnh vực
Công nghệ ngách
(Niche player)
Theo sau Theo sau về công nghệ Hợp lý hóa công nghệ
Nguồn: Theo Narayanan (2001)
Doanh nghiệp sẽ tiến hành nghiên cứu phân tích so sánh những điểm mạnh và
hạn chế của từng loại hình trên để quyết định lựa chọn loại hình chiến lược phù hợp
nhất với điều kiện của mình.
CLCN cũng thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Trong
giai đoạn đầu, một doanh nghiệp đi theo “chiến lược công nghệ theo sau”, nhưng cùng
với sự phát triển, doanh nghiệp đó có thể chuyển sang “chiến lược công nghệ ngách”
nhằm tập trung nguồn lực xây dựng năng vị thế cạnh tranh dẫn đầu trên thị trường cho

một số công nghệ chuyên sâu, phục vụ các nhu cầu chuyên dụng.
CHƯƠNG II: KHUNG CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHỆ
Dựa trên các kết quả nghiên cứu, phân tích thực trạng đổi mới công nghệ của
các doanh nghiệp trong nước, cùng với việc phân tích tổng quan kinh nghiệm quốc tế
về xây dựng CLCN, khung CLCN của doanh nghiệp có thể bao gồm 5 phần với các
nội dung cơ bản sau:
II.1. Bối cảnh, tầm nhìn
1. Làm rõ mục tiêu, định hướng phát triển của doanh nghiệp: loại hình, lợi
nhuận, thị trường, cạnh tranh… (dựa vào chiến lược kinh doanh)
2. Xác định được các tín hiệu thị trường có tác động quan trọng tới lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp (gia tăng đối thủ cạnh tranh, sắp có sản phẩm được
đưa ra thị trường, thay đổi về chính sách của chính phủ, tính chất cạnh
tranh…)
3. Dự báo được xu thế phát triển của một số lĩnh vực công nghệ then chốt
(critical/emerging technologies) trong và ngoài nước có tác động tới vị thế
cạnh tranh của doanh nghiệp.
4. Làm rõ nhu cầu công nghệ nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra của sản xuất –
kinh doanh (loại công nghệ gì…)
II.2. Quan điểm
1. Nhấn mạnh CLCN phải phục vụ nâng cao năng lực cạnh tranh, được xây
dựng và thực hiện phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
2. Xác định rõ loại hình đổi mới, mức độ đổi mới (tập trung đổi mới sản phẩm
hay đổi mới qui trình/dịch vụ/thị trường…)
3. Xác định mô hình đổi mới của doanh nghiệp (dẫn đầu, theo sau, chuyên
môn hóa…)
4. Nhấn mạnh phương thức ưu tiên để có được công nghệ (mua hay bắt chước,
mua theo phương thức nào, hợp tác với viện nghiên cứu….)
5. Phương thức huy động vốn
6. Quy mô, mức độ, loại hình hợp tác với các đối tác bên ngoài
7. Nhấn mạnh xây dựng và thực hiện CLCN không phải là nhiệm vụ riêng của

bộ phận kỹ thuật, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận chức năng (công
nghệ, tài chính, thị trường, nhân lực), dưới sự chỉ đạo, giám sát của lãnh đạo doanh
nghiệp.
8. Khả năng điều chỉnh của chiến lược: trường hợp nào được điều chỉnh, phạm
vi và mức độ điều chỉnh
II.3. Mục tiêu
1. Xác định các vấn đề kỹ thuật/công nghệ để giải quyết nhu cầu sản xuất –
kinh doanh
2. Định hướng cho phát triển sản xuất – kinh doanh, nâng cao vị thế cạnh tranh
(đến năm 2020, 30 % doanh thu từ sản xuất – kinh doanh sẽ được tạo ra nhờ
áp dụng công nghệ mới…)
3. Đưa ra các chỉ tiêu định lượng, định tính (đầu tư cho ĐMCN chiếm % tổng
vốn đầu tư/doanh thu/lợi nhuân,…)
4. Tăng cường hệ thống đổi mới của doanh nghiệp: phát triển các bộ phận
chức năng, liên kết, phối hợp giữa các bộ phận chức năng của doanh nghiệp
(marketing, bảo hành, R&D, sản xuất, tài chính)
5. Hình thành và phát triển các mạng lưới quốc tế, không chỉ về sản xuất –
kinh doanh mà c̣n về KH&CN và đổi mới (Liên doanh, hợp đồng sản xuất
OEM – ODM, CGCN, …)
6. Khai thác hiệu quả các nguồn lực KH&CN và đổi mới của quốc tế
7. Khai thác thế mạnh KH&CN của quốc gia/ngành/địa phương (viện nghiên
cứu/trường đại học, cơ sở hạ tầng, dịch vụ)
8. Phù hợp với các tiêu chuẩn kỹ thuật (quốc gia, quốc tế)
9. Kết hợp định hướng theo các ưu tiên về KH&CN của quốc gia/ngành/địa
phương
II.4. Định hướng ưu tiên
1. Nhấn mạnh nâng cao năng lực công nghệ: (kết hợp khai thác nguồn
KH&CN bên ngoài để ứng dụng phục vụ nhu cầu trực tiếp của sản xuất –
kinh doanh với làm chủ, cải tiến)
2. Xác định các công nghệ ưu tiên

– Xác định danh mục các công nghệ cần có theo các tiêu chí lựa chọn,
các nguồn cung cấp công nghệ
– Lựa chọn phương thức để có được công nghệ mới
– Nhấn mạnh các công nghệ (phương thức) mà doanh nghiệp có nhiều
cơ hội học hỏi, có năng lực làm chủ, cải tiến
– Chú trọng các công nghệ thuộc các hướng công nghệ ưu tiên của
quốc gia/ngành/địa phương
3. Xây dựng lộ trình công nghệ phù hợp và khả thi
II.5. Giải pháp
1. Xác định các nguồn vốn, cơ chế huy động vốn đầu tư để thực hiện
- Chú trọng các nguồn vốn đầu tư, cho vay từ các chương trình, quĩ thuộc
phạm vi phát triển KH&CN và đổi mới, đầu tư mạo hiểm, hình thức góp
vốn với các đối tác để cùng nghiên cứu, phát triển công nghệ mới.
- Phát triển và sử dụng hiệu quả quỹ phát triển KH&CN của doanh
nghiệp.
1. Dự báo nhu cầu chi phí đầu tư và phương án phân bổ vốn đầu tư
2. Xây dựng phương các phương án khả thi nhằm thu hút, sử dụng, đào tạo
nhân lực (chuyên gia công nghệ, nhà khoa học, kỹ sư…) trong và ngoài
nước.
CHƯƠNG III: KỸ NĂNG NGHIỆP VỤ TÌM KIẾM
CÔNG NGHỆ
Tìm kiếm, thu thập và sử dụng hiệu quả thông tin sẽ giúp các nhà quản trị
doanh nghiệp đưa ra quyết định đúng đắn, hạn chế rủi ro phát sinh trong quá trình
xây dựng và thực hiện các dự án ĐMCN. Phần này giới thiệu một số loại thông tin
công nghệ, các nguồn công nghệ và hướng dẫn các bước cơ bản để tiến hành tìm kiếm
công nghệ.
III.1. Loại hình thông tin công nghệ
Thông tin công nghệ bao gồm các thông tin kỹ thuật (tính năng, tính mới, mức
độ hiện đại, công suất, tiêu hao nguyên-nhiên-vật liệu, tác động môi trường, điều kiện
cần thiết để sử dụng công nghệ, v.v ) và các thông tin liên quan đến khía cạnh thương

mại của công nghệ (giá cả, phương thức thanh toán, hình thức chuyển giao, tình trạng
bảo hộ sở hữu trí tuệ, v.v…).
Khi tiến hành tìm kiếm công nghệ, doanh nghiệp cần xác định rõ ràng và đầy
đủ các loại thông tin liên quan đến công nghệ đó. Bảng … tổng hợp các loại thông tin
được thiết kế trong hệ thống cơ sở dữ liệu của nhiều tổ chức dịch vụ.
Bảng : Các hạng mục thông tin về công nghệ
1 Tên công nghệ
2 Lĩnh vực công nghệ
3 Công dụng
4 Tính năng nổi trội
5 Thông số kinh tế - kỹ thuật
6 Lĩnh vực ứng dụng
7 Mức độ phát triển của công nghệ
8 Điều kiện nhân lực để ứng dụng công nghệ
9 Điều kiện cơ sở hạ tầng nhà xưởng để vận hành dây chuyền thiết bị
10 Tác động môi trường
11 Hình thức chuyển giao
12 Tình trạng bảo hộ sở hữu trí tuệ
13 Các nước mà công nghệ được chào bán, tìm mua
14 Bên chào bán công nghệ (*)
15 Giá tham khảo (*)
16 Mức độ hiện đại (*)
17 Khả năng hỗ trợ của bên bán (*)
18 Các nhà cung cấp công nghệ liên quan (*)
19 Các nhà cung cấp thiết bị liên quan(*)
20 Bài học thành công, thất bại (*)
(*): Các loại thông tin này thường được cung cấp theo phí dịch vụ.
Về cơ bản, có hai loại: miễn phí và phải trả tiền. Cụ thể như sau:
- Thông tin đơn giản, mang tính miêu tả: bao gồm các thông tin có tính chất
miêu tả về công dụng, lĩnh vực ứng dụng, tính năng mới, các thông số kinh tế - kỹ

thuật, hình thức chuyển giao (mua bán) và phương thức thanh toán, v.v…
- Thông tin chi tiết, đã được xử lý: bao gồm các nhà cung cấp công nghệ, giá
tham khảo (ví dụ, mức giá thấp nhất mà bên có công nghệ có thể bán), mức độ hiện
đại so với các công nghệ liên quan, khả năng hỗ trợ của bên bán (về vốn, thị trường, tư
vấn), các nhà cung cấp thiết bị liên quan đến công nghệ, v.v Điều kiện để làm chủ/cải
tiến của nhiều công nghệ có cùng công dụng trên thị trường.
Ngoài những thông tin liên quan đến công nghệ, doanh nghiệp cũng cần thu
thập đầy đủ các thông tin để đánh giá năng lực và uy tín của các nhà cung cấp làm căn
cứ lựa chọn. Về cơ bản, doanh nghiệp cần chú ý tới một số loại thông tin chủ yếu sau:
- Năng lực nghiên cứu và phát triển (trong lĩnh vực công nghệ chào bán).
- Quyền hợp pháp đối với công nghệ.
- Điều kiện (vật chất - kỹ thuật).
- Năng lực tài chính.
III.2. Các nguồn cung cấp thông tin công nghệ
III.2.1. Nhận xét chung
Nguồn thông tin công nghệ trong thực tế khá phong phú và đa dạng. Tuy nhiên,
nhiều doanh nghiệp không biết rõ ràng và đầy đủ các loại hình tổ chức dịch vụ thông
tin, tình trạng của các nguồn thông tin này ra sao, hoặc không biết tiếp cận các nguồn
này như thế nào.
Thực tế, vì phục vụ cho các mục đích, đối tượng khác nhau nên mỗi nguồn
thông tin thường chuyên sâu vào từng loại thông tin khác nhau. Các nguồn này đều có
những điểm mạnh và hạn chế nhất định. Vì vậy, doanh nghiệp cần khai thác tốt nội
dung thông tin từ nhiều nguồn để có những căn cứ đánh giá, so sánh phục vụ cho việc
lựa chọn công nghệ phù hợp.
Khi tiến hành tìm kiếm công nghệ các doanh nghiệp cần chú ý tới các nguồn
thông tin sau:
- Doanh nghiệp khác cùng ngành;
- Khách hàng, nhà cung cấp thiết bị;
- Hội chợ, triển lãm hàng công nghiệp;
- Chợ công nghệ và thiết bị, sàn giao dịch công nghệ trên mạng;

- Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp;
- Công ty tư vấn kỹ thuật, tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ;
- Hiệp hội, hội chuyên ngành;
- Viện nghiên cứu, trường đại học công nghệ.
III.2.2. Thực trạng của một số nguồn cụ thể
Tìm kiếm từ các doanh nghiệp khác cùng ngành
Nhu cầu công nghệ thường xuất phát khi thấy rõ được tính hữu dụng của công
nghệ trong thực tiễn sản xuất - kinh doanh.Vì thế, không ít trường hợp, nhu cầu mua
công nghệ có thể nẩy sinh sau các chuyến công tác, thăm quan nhà máy của các doanh
nghiệp khác (trong nước, nước ngoài).Ngoài ra, khai thác tốt mối quan hệ cá nhân với
đội ngũ kỹ sư, thợ lành nghề của doanh nghiệp khác cũng là cách làm hiệu quả. Qua
đó, có thể biết được ít nhất một nguồn công nghệ có thể mua hoặc bắt chước làm theo.
Khai thác thông tin từ khách hàng, nhà cung cấp
Cũng có nhiều trường hợp khách hàng vừa là nguồn làm nảy sinh các ý tưởng
đổi mới, đồng thời là nguồn cung cấp thông tin công nghệ cho doanh nghiệp. Vì vậy,
trong quan hệ bạn hàng cần tạo cơ hội thuận tiện cho việc trao đổi, lắng nghe ý kiến
của khách hàng, đặc biệt là các khách hàng lớn, các nhà phân phối sản phẩm.
Mặt khác, nếu biết cách khai thác, doanh nghiệp có thể có được những gợi ý từ
chính các nhà cung cấp máy móc, thiết bị về các giải pháp công nghệ (hợp lý hóa dây
chuyền thiết bị), v.v…
Tìm kiếm thông qua hội chợ, triển lãm
Hội chợ là nơi để giới thiệu, quảng bá các sản phẩm mới, công nghệ mới, qua
đó làm nảy sinh các ý tưởng đổi mới.Tham gia hội chợ tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp thiết lập được nhiều mối quan hệ kinh doanh, mua bán công nghệ.Các trung
tâm hỗ trợ doanh nghiệp, các hiệp hội chuyên ngành, VCCI thường là những đơn vị
tham gia tổ chức các sự kiện này.
Tìm kiếm qua các chợ công nghệ và thiết bị, sàn giao dịch công nghệ
Với sự hỗ trợ của Nhà nước, các chợ công nghệ và thiết bị, sàn giao dịch công
nghệ được tổ chức khá thường xuyên. Gần đây, một số thành phố lớn (Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, v.v…) đã phát triển hình thức cung cấp dịch vụ thông

tin qua mạng Internet. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, các trung tâm thông tin
KH&CN thuộc sở KH&CN thường là các đơn vị chủ trì các sự kiện này.
Mặc dù, chất lượng thông tin còn những hạn chế nhất định, nhưng qua đó các
doanh nghiệp có thể thu thập được một số thông tin sơ bộ trước khi chính thức tiếp cận
các nhà tư vấn chuyên nghiệp.
Tìm kiếm thông qua các tổ chức quốc tế
Các tổ chức dịch vụ thông tin công nghệ ở nước ngoài cũng là những kênh
thông tin cần quan tâm. Việc tiếp cận các nguồn thông tin này thường đòi hỏi chi phí
khá tốn kém so với các kênh trong nước.
Một số tổ chức dịch vụ thông tin công nghệ khu vực và quốc tế cũng được
thành lập với sự tài trợ của các tổ chức quốc tế (APCTT, UNIDO, ASEAN) nhằm hỗ
trợ hợp tác chuyển giao công nghệ. Các doanh nghiệp trong nước cần khai thác tốt các
kênh thông tin này nhằm giảm bớt các chi phí ban đầu trước khi tiếp cận các nguốn
thông tin công nghệ quốc tế.
Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp
Các trung tâm này thường chú trọng hỗ trợ phát triển sản xuất - kinh doanh, mở
rộng thị trường. Hoạt động hỗ trợ tìm kiếm công nghệ chưa thực sự được chú trọng.
Để đáp ứng nhu cầu ĐMCN cho các doanh nghiệp, Chính phủ đã thành lập ba
Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.
Khai thác thông tin từ các trung tâm dịch vụ chuyển giao công nghệ
Một số doanh nghiệp thành công trong việc thu thập được một số loại thông tin
quan trọng (bí quyết công nghệ) từ các trung tâm tư vấn chuyển giao công nghệ đã
từng cung cấp dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp khác.
III.3. Các bước tìm kiếm công nghệ
Quá trình tìm kiếm công nghệ có thể được thực hiện qua 04 bước cơ bản sau:
Hình : Các bước tìm kiếm công nghệ
Xác định nhu cầu
Thu thập thông tin qua các nguồn sẵn có

×