Họ và tên: Nguyễn Thị Quy
Lớp: K55- Xã hội học
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH
Giảng viên: Th sĩ: Lê Thái Thị Băng Tâm
Đề bài: Hãy chọn một vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu của Xã hội học Gia đình để
phân tích?
Bài làm:
Đề tài:
“Vai trò của người phụ nữ trong gia đình xưa và nay”.
(nghiên cứu về người phụ nữ với công việc nhà-bất bình đẳng)
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài…………………………………………………………………………………… 2
PHẦN NỘI DUNG
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 1
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề
tài………………………………………………… 4
1.1Các khái niệm…………………………………………………………………………………………
4
1.1.1 Bình đẳng giới…………………………………………………………………………………….4
1.1.2. Bất bình đẳng giới………………………………………………………………………………4
1.1.3. Gia đình……………………………………………………………………………………………4
1.1.4. khái niệm “phụ nữ”………………………………………………………………………………
5
1.1.5. khái niệm “vai trò”………………………………………………………………………………5
1.2. Lý thuyết áp dụng………………………………………………………………………………….5
Chương 2: Vai trò của người phụ nữ trong gia đình xưa,nay và sự bất bình đẳng trong sự
phân công lao động……………………………………………………………………………………8
2.1. Vai trò của người phụ nữ trong xã hội xưa và bất bình đẳng……………………………….8
2.2. Vai trò của người phụ nữ trong thời hiện đại và vấn đề bất bình đẳng trong phân công
lao động…………………………………………………………………………………………………13
Chương 3: Xu hướng của vấn đề trong tương lai…………………………………………………23
PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………………………………28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….29
PHẦN MỞ ĐẦU
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 2
1. Lý do chọn đề tài
Theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) năm 2002, hàng năm nền kinh tế toàn
cầu đã bỏ qua khoảng 11 tỉ USD Mỹ từ thu nhập của phụ nữ do họ làm những công việc
gia đình mà không được tính công. Thực tế, vô hình chung, công việc gia đình được coi
như là nhiệm vụ của riêng nguời phụ nữ, đó là những “ lao động không công”, không được
trả lương và cũng không được xã hội ghi nhận. Sự bất bình đẳng này tồn tại ở mức độ này
hay mức độ khác và không ngoại trừ một quốc gia nào.
Tại Việt Nam, sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã dẫn đến những
thay đổi căn bản trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hôi của đất nước, đồng thời thúc
đẩy sự đổi mới tư duy trên nhiều lĩnh vực. Điều này đã tạo ra sự chuyển đổi về cơ cấu xã
hội vã cùng với nó là sự thay đổi trong phân công lao động.
Theo kêt quả điều tra xã hội học của Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và
phụ nữ tiến hành năm 2002 thì trong gia đình hiện nay, người vợ là người làm chính các
công việc nhà. Tỷ lệ này đặc biệt cao trong các công việc như: Nấu ăn: 77.8%; mua thực
phẩm: 86.9%; giặt quần áo: 77.6%; chăm sóc con cái: 43.4%. Người đàn ông có tham gia
vào các công việc gia đình nhưng với tỷ lệ rất thấp, chỉ chiếm dưới 5%.
Hiện nay, mặc dù Luật Bình đẳng giới được Quốc hội khóa XI, thông qua ngày 29-
11-2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2007, quy định nguyên tắc bình đẳng giới
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình; biện pháp bảo đảm bình đẳng giới và
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới.
Hơn nữa, vấn đề về phụ nữ với công việc nội trợ đã được quan tâm nhiều, vấn đề
bất bình đẳng cũng đã tốn nhiều giấy mực, tuy nhiên về vấn đề phụ nữ với công việc nhà
và bất bình đẳng về công việc nhà hiện nay chưa được nhiều người quan tâm chú ý và nhìn
nhận đúng vấn đề. Mảng đề tài này khá mới, có cách nhìn mới mẻ trong việc phát hiện ra
“lỗ hổng” trong xã hội hiện nay khi thực hiện luật bình đẳng giới.
Và sau khi có ban hành luật bình đẳng giới thì người phụ nữ có còn độc quyền trong
các công việc nhà nữa hay không?Đó trở thành câu hỏi lớn mà các cả xã hội quan tâm và
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 3
những nhà xã hội học cần nghiên cứu, đặc biệt là những người quan tâm về gia đình và
giới.
Vậy,hiện nay người phụ nữ có đúng là đang được bình đẳng hay không, đó là một
câu hỏi lớn hiện nay?Và trong bài này, tôi xin đưa ra vấn đề này để bàn luận.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1.1Các khái niệm:
1.1.1 Bình đẳng giới: Là tình trạng (điều kiện sống, sinh hoạt, làm việc ….) mà trong đó
phụ nữ và nam giới được hưởng vị trí như nhau, họ có cơ hội bình đẳng để tiếp cận, sử
dụng các nguồn lực để mang lại lợi ích cho mình, phát hiện và phát triển tài năng của mỗi
giới nhằm cống hiến cho sự phát triển của quốc gia và được hưởng lợi từ sự phát triển đó.
(Khái niệm bình đẳng giới theo công ước CEDAW)
1.1.2. Bất bình đẳng giới là sự khác biệt giới gây thiệt hại hoặc làm cản trở sự tiến
bộ của nam hoặc nữ.
1.1.3. Gia đình là khái niệm được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên
cơ sở các quan hệ hôn nhân (quan hệ tính giao và quan hệ tình cảm) và quan hệ huyết
thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hang nội ngoại). Gia
đình có thể hiểu như một đơn vị xã hội vi mô, nó chịu sự chi phối của xã hội song có tính
ổn định, độc lập tương đối. Nó có quy luật phát triển riêng với tư cách là một thiết chế xã
hội đặc thù.Những thành viên gia đình được gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi
kinh tế, văn hóa, tình cảm một cách hợp pháp được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (Lê
Ngọc Văn-Nguyễn Linh Khiếu-Đỗ Thị Bình 2002:21).
1.1.4. khái niệm “phụ nữ”
Nữ giới là một khái niệm chung để chỉ một người, một nhóm người hay toàn bộ
những người trong xã hội mà một cách tự nhiên, mang những đặc điểm giới tính được xã
hội thừa nhận về khả năng mang thai và sinh nở khi cơ thể họ hoàn thiện và chức năng giới
tính hoạt động bình thường.
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 4
Phụ nữ chỉ một, một nhóm hay tất cả nữ giới đã trưởng thành, hoặc được cho là đã
trưởng thành về mặt xã hội.Nó cho thấy một cái nhìn ít nhất là trung lập, hoặc thể hiện
thiện cảm, sự trân trọng nhất định từ phía người sử dụng.Nó đề cập đến, hoặc hướng người
ta đến những mặt tốt, hoặc ít nhất là không xấu, đến những giá trị, những đóng góp, những
ảnh hưởng tích cực từ những nữ giới này.
1.1.5. khái niệm “vai trò”
Theo Robertsons vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và nghĩa
vụ được gắn liền với một vị thế xã hội nhất định. Khái niệm vai trò xã hội bắt nguồn từ
khái niệm vai diễn trên sân khấu.Vai diễn trên sân khấu đòi hỏi diễn viên phải nhập tâm,
bắt chước và học tập đóng vai của những nhân vật được đạo diễn phân đóng.
1.2. Lý thuyết áp dụng
Trong đề tài này tôi sử dụng lý thuyết tương tác biểu trưng để giải thích.
Tất cả các nhà tương tác biểu trưng đều nhất trí về vai trò trung tâm của con người là khả
năng tạo nên và sử dụng những biểu trưng. Theo Steven L.Nock (1987), một cách tiếp cận
đặc biệt thành công của các nhà tương tác biểu trưng là nghiên cứu về gia đình như một hệ
thống vai trò vì thế được gọi là thuyết vai trò.
Các nhà xã hội học thấy rằng nó (lý thuyết vai trò) rất có ý nghĩa nếu ta coi gia đình như
một màn kịch, trong đó các thành viên đóng vai trò nhất định. Như vậy, mỗi thành viên
phụ thuộc vào các thành viên khác trong khi đóng vai trò của mình.
Nhà xã hội học Ralph Turner (1970) cho rằng có hai quá trình cần hiểu:
Thứ nhất: là phải tìm hiểu xem các hoạt động được nhóm lại như thế nào để sao cho một
người làm việc này (làm một công việc nhất định) mà không phải là người khác.
Thứ hai: việc phân chia các nhiệm vụ như thế nào để các thành viên đóng đúng vai trò của
mình.
Các vai trò được chia thành nhiều cụm như thế nào
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 5
Tại sao trong mỗi gia đình, mỗi thành viên phải tự nhận trách nhiệm và nhiệm vụ
(đóng vai trò ) nhất định chứ không phải cái khác. Câu trả lời nằm trong vấn đề là: xã hội
đã ổn định và các vai trò trong gia đình: cha, mẹ, anh, chị em… nhưng chung hơn, việc
nhóm các vai phụ thuộc vào hai vấn đề:
Một là: mỗi thành viên phải tự tìm vai trò của mình (để có thể tồn tại)
Hai là: những đòi hỏi chức năng của gia đình.
Một vai trò có thể tồn tại được chính là vai trò đó cho phép cá nhân xác lập một
tính cách trong gia đình.Mọi người phải tìm thấy vai trò như vậy.Sự phấn đấu cho một vai
trò biểu hiện trong quyền lực gia đình.
Khi các thành viên được nhận định trong các vị trí nhất định các vị trí biểu hiện sự
thỏa hiệp của họ.Khuynh hướng của sự phát triển các vai trò thỏa hiệp để tránh đi sự phá
vỡ vai trò (bỏ bớt những ham muốn để thực hiện các vai trò).
Các vai trò trong gia đình là sự mặc cả và luôn luôn phát triển. Nội dung vai trò của
bố hay mẹ luôn được ấn định (được khoanh vùng) bởi hàng loạt sự mong đợi của xã hội.
và nội dung cụ thể của nó là kết quả của sự mặc cả hình thức và độ dài của tương tác. Các
vai trò ngoài gia đình được ấn định bởi sự mong đợi hình thức.Các vai trò nhiều khi đối lập
nhau. Ví dụ, một ông chủ có thể rất cực đoan, hiếu chiến, làm việc chăm chỉ. Những khi ở
nhà thì hoàn toàn ngược lại.Sự khác biệt giữa thế giới bên trong và bên ngoài được phân rõ
khi một người lạ đến gia đình mình. Trước mặt khách , họ phải hành động như thế nào để
bộc lộ vai trò bên ngoài hơn là vai trò gia đình của họ.
Trên thực tê thì bất kì hiện tượng nào buộc thành viên trong gia đìn thay đổi vai trò
của mình, nó sẽ làm ảnh hưởng đến các thành viên khác trong gia đình.Ví dụ như người
chồng mất việc.Điều này ảnh hưởng đến gia đình, vì nóa tạo ra sự đổi khác trong gia đình.
Sử dụng lý thuyết này trong vấn đề để giải thích vai trò của người phụ nữ trong gia
đình, không chỉ đóng góp, làm việc nhà mà còn làm kinh tế để bổ xung kinh tế cho gia
đình. Thuyết biểu trưng cho thấy vai trò của người phụ nữ được xã hội gán cho, được xã
hội mong đợi, gia đình, người thân mong đợi, vì thế vai trò của người phụ nữ ngày càng
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 6
được đề cao và người phụ nữ cố gắng làm theo đúng vai trò của mình mà xã hội đề ra, gia
đình mong muốn.
Và ở đây người phụ nữ không chỉ làm việc nhà mà còn phải làm các công việc bên
ngoài xã hội, họ đóng góp vào kinh tế gia đình không kém gì đấng mày râu, tuy nhiên về
tới nhà họ vẫn làm việc và không có người chồng giúp đỡ, mặc định công việc đó là công
việc của phụ nữ.
Một vai trò có thể tồn tại được chính là vai trò đó cho phép cá nhân xác lập một
tính cách trong gia đình. Mọi người phải nhìn thấy vai trò như vậy .sự phấn đấu cho một
vai trò biểu hiện trong quyền lực trong gia đình. Ở trong bài viết này thì người phụ nữ có
vai trò là người vợ, người mẹ, người con dâu,…
Từ đó xác định rõ vai trò của mình và thực hiện vai trò đó như đã thỏa thuận.
Gia đình Việt Nam truyền thống, vai trò của người phụ nữ không được đề cao
ngoài xã hội, dường như họ bị gắn cái thiên chức làm vợ, làm mẹ, chăm sóc cho gia đình.
Những tư tưởng nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống con người. Người phụ từng
trải qua hang nghìn năm đảm đang (đảm nhiệm, trách nhiệm) và chịu đựng, hy sinh.Nhưng
họ không được đề cao.Người phụ nữ truyền thống trong gia đình xưa phải có đủ “tam tòng,
tứ đức”.Họ nghiếm nhiên trở thành biểu trưng gắn liền với ngôi nhà, con cái, không có
quyền đưa ra ý kiến hay quyết định gì trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Nhưng ngày nay – xã hội công nghiệp hóa hiện đại hóa thì khác, nam nữ bình
đẳng, người phụ nữ trong gia đình hiện đại đã tự khẳng định mình, vai trò của mình trong
gia đình và xã hội ở khía cạnh khác không phải là bếp núc, con cái … mà ở nhiều lĩnh vực
trong xã hội…, họ đóng góp phát triển kinh tế trong gia đình và xã hội ( họ tham gia các
hoạt động chính trị, là các nữ doanh nhân)không những khẳng định vai trò trong gia đình
mà họ còn cho thấy tầm quan trọng trong xu thế phát triển và hội nhập của thế giới. Và
công việc của họ hiện tại có đơn thuần là công việc nhà như trước? hay ôm cả công việc
nhà và công việc xã hội? và như thế có phải là “bình đẳng”?
Chương 2: Vai trò của người phụ nữ trong gia đình xưa,nay và sự bất bình đẳng trong sự
phân công lao động.
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 7
2.1. Vai trò của người phụ nữ trong xã hội xưa và bất bình đẳng:
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã khẳng định vai trò và những đóng góp to lớn của phụ
nữ Việt Nam trên các lĩnh vực trong các thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước. Theo
những tài liệu khảo cổ học, ở Việt Nam đã tồn tại thời kỳ Mẫu quyền khá dài trong xã hội
nguyên thủy với vai trò quan trọng, quyết định của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Trong buổi bình minh của lịch sử và trong giai đoạn phát đạt của xã hội nguyên thủy,
dân tộc nào cũng trải qua một thời kỳ mẫu hệ và chế độ mẫu quyền.trong đó phụ nữ làm
chủ gia đình, dòng họ; phụ nữ có vai trò lớn lao trong sinh hoạt kinh tế, đời sống xã hội
cũng như trong đời sống văn hóa tinh thần.
Ở Việt Nam, mỗi người đều ghi nhớ chuyện Mẹ Âu Cơ và Bố Lạc Long Quân là
những người khai sáng ra lịch sử dân tộc. Mẹ đẻ ra trăm trứng trong cùng một bọc, nở
thành trăm chàng trai. Mẹ và Bố lại chia đều con đi ở miền núi và miền biển, thành nhân
dân miền núi và miền xuôi bây giờ. Công lao to lớn của Mẹ Âu Cơ đã được truyền tụng
hàng ngàn đời nay ở vùng đất Tổ (Phú Thọ) chứng tỏ mẹ là người “mang nặng đẻ đau” và
cũng là người khai sáng văn hóa dân tộc.
Theo cố Giáo sư Sử học Trần Quốc Vượng: Khi bước sang chế độ phụ quyền không
phải bất cứ đâu và lúc nào cũng đều mang hình thức cổ điển, hà khắc (người phụ nữ bị
truất hẳn vai trò và quyền hành xã hội, trở thành nô lệ gia đình như cách nói của Lê Nin -
điển hình là Hy Lạp), nhiều xã hội chuyển sang phụ quyền dưới một hình thức “êm dịu
hơn”. Theo đó, bước vào thời đại văn minh, phụ nữ nhiều nước vẫn được coi trọng và có
ảnh hưởng đối với nhiều công việc, Phụ nữ Việt Nam xưa ở trong trường hợp thứ hai này.
Do đó, ở Việt Nam, nếu trong thời đại nguyên thủy, phụ nữ là người chủ yếu giữ việc hái
lượm, tham gia săn bắt, rồi làm nghề nông nguyên thủy, chăn nuôi, thủ công cùng với công
việc trong nhà, thì đến thời đại xã hội có giai cấp, người phụ nữ vẫn là người tham gia đầy
đủ vào tất cả các khâu lao động trong xã hội và gia đình. Trong khi đó ở nhiều nước trên
thế giới cổ đại, người phụ nữ chỉ còn tham gia các công việc gia đình.
Giáo sư Lê Thị Nhâm Tuyết đã viết: “Nếu ở hầu hết thời đại nguyên thuỷ, phụ nữ là
người đứng đầu cộng đồng thân tộc của họ, thì đến thời đại xã hội có giai cấp, trong khi ở
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 8
nơi này nơi khác, gia đình là do người đàn ông làm chủ nhưng ở Việt Nam, điều đó chỉ có
trên danh nghĩa, còn trong thực tế, người phụ nữ vẫn là người điều khiển hầu hết công việc
gia đình. Nếu ở hầu hết thời đại nguyên thuỷ, phụ nữ là người lãnh đạo và tham gia vào tất
cả các hoạt động xã hội, thì đến thời đại xã hội có giai cấp, trong khi ở nơi này nơi khác,
phụ nữ mất hẳn chức năng ấy, thì ở Việt Nam, đông đảo phụ nữ vẫn là những “công dân
chính trị” rất độc đáo.” Đây chính là tiền đề để người phụ nữ Việt Nam cổ đại vẫn tiếp tục
có những cống hiến lớn lao vào lịch sử dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực cội nguồn của nền nông nghiệp lúa
nước. Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển của nền văn minh lúa nước,
người phụ nữ luôn đóng vai trò trụ cột trong lao động sản xuất.
Tục thờ nữ thần của người Việt đã xuất hiện từ lâu đời và phát triển trải qua các thời
kỳ lịch sử trên cơ sở truyền thống coi trọng vai trò của người phụ nữ. Hình ảnh người phụ
nữ Việt Nam được xây dựng và lưu truyền từ huyền Mẹ Âu Cơ, Bố Lạc Long Quân đến
việc thờ các nữ thần nông nghiệp như bà Dâu (Chùa Dâu),bà Đậu (chùa Bà Đậu); thờ các
Mẫu Tam Phủ (Trời- Đất- Nước), Mẫu tứ phủ (Trời- Đất- Nước-Địa), Mẫu Tứ pháp (Mây-
Mưa-Sấm-Chớp) đến các nghi lễ thờ cúng “Mẹ Lúa” của nhiều dân tộc ở Việt Nam. Điều
đó đã phản ánh vai trò quan trọng của người phụ nữ trong nghề nông từ thời cổ đại và
xuyên suốt tiến trình lịch sử cho đến ngày nay.
Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cũng đã khẳng định: “Trên chặng đường chuyển hóa
từ mẫu hệ sang phụ hệ và cả mãi về sau này nữa – xã hội Việt Nam cổ truyền đã thừa
hưởng và vẫn bảo lưu một truyền thống vững chắc và tốt đẹp: đó là vai trò quan trọng của
người đàn bà, người mẹ, trong gia đình, ngoài xã hội”
Từ ngàn xưa, vai trò của người Mẹ, người phụ nữ được tôn trọng, đề cao trong xã hội
Việt Nam. Trong dân gian, chúng ta thấy nhân dân lao động Việt Nam vừa kính cha vừa
ơn mẹ - Chữ hiếu hai vai.
"Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 9
Người mẹ Việt Nam có tầm quyết định đối với sự phát triển của các con về nhiều
mặt (thể chất, tình cảm, đạo lý làm người…). Do đó lời cửa miệng dân gian nói: “Con dại
cái mang”, “Phúc đức tại mẫu”, “Cha sinh chẳng tày mẹ dưỡng”
Có khi trong xã hội Việt Nam cổ truyền người vợ được coi trọng hơn cả chồng
“Lệnh ông không bằng cồng bà”.
Từ đó thể hiện vai trò của người phụ nữ trong việc gia đình và việc xã hội, ảnh
hưởng của người phụ nữ đó chính là vai trò.
Đó là những công lao mà phụ nữ xưa đã làm và được ghi nhận, nhưng bên cạnh đó là
những bất công, bất bình đẳng mà người phụ nữ phải chịu:
Do nhận thức, thói quen suy nghĩ và các phong tục tập quán, sự bất bình đẳng giữa phụ
nữ và nam giới đã ăn sâu bám chắc trong đầu óc con người thành tư tưởng “trọng nam khinh
nữ”. Những phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ, đạo đức phong kiến “tam tòng, tứ đức” được
khuyến khích duy trì để trói buộc người phụ nữ, chà đạp lên tình cảm và nhân phẩm của chị
em… dần dần thành thói ứng xử thô bạo của người đàn ông đối với đàn bà. Tư tưởng này
dần dần trở thành quy tắc, thành thông lệ, không cần có luật pháp bảo vệ, nó vẫn có tác động
cưỡng chế, điều chỉnh hành vi ứng xử của người đàn ông đối với đàn bà.
Hôn nhân dưới chế độ phong kiến không dựa trên tình yêu mà dựa trên quyền lợi của
dòng họ, tất cả vì mục đích chính trị.Người phụ nữ trở thành vật đánh đổi, hy sinh cho những
mưu đồ của thế lực cầm quyền.Các thứ bậc cao trong xã hội đều giành cho hoàng gia, hoàng
tộc, quân đội của triều đình và một tầng lớp trí thức gồm toàn đàn ông, những người chỉ có
nhiệm vụ học hành để ra làm quan.Giai cấp thống trị, đã sử dụng các phương tiện khác nhau
để biến hệ tư tưởng Nho giáo thành công cụ duy trì quyền lực đối với phụ nữ. Hơn nữa dưới
chế độ phong kiến, quyền hành quốc gia tập trung vào tay vua. Trong gia đình thì tập trung
vào người đàn ông gia trưởng.Người phụ nữ được coi là tài sản của chồng, vì vậy luật nhà
Trần cho phép đàn ông nếu có vợ ngoại tình được coi vợ như nô tỳ và được phép cầm
bán.Phép nhà Hồ quy định, nếu binh sĩ ra trận mà nhút nhát thì vợ, con, điền sản phải xung
công. Triều đình phong kiến nhà Lý còn có tục bắt cung nữ chết theo vua hoặc hoàng hậu
bằng cách đưa họ lên hỏa thiêu
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 10
Tư tưởng và luật pháp của chế độ phong kiến cũng ra sức bảo vệ cho sự bất bình đẳng
nam nữ. Học thuyết Mác - Lênin chỉ rõ: Cùng với nguồn gốc kinh tế, sự thống trị của người
đàn ông đối với đàn bà còn bắt nguồn từ trong nhận thức, niềm tin và thói quen, phong tục
tập quán đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người. Sự quan tâm, lo lắng
về đời sống của bản thân người phụ nữ cũng là yếu tố bắt buộc họ phải chấp nhận và cam
chịu sự thống trị của người đàn ông, một khi đời sống kinh tế của họ còn chưa được điều chỉnh
thì tất yếu còn bất bình đẳng. Như vậy, nguồn gốc của bất bình đẳng là do các tác nhân xã hội
như phong tục tập quán, truyền thống, thói quen cùng với tư tưởng trọng nam khinh nữ và tàn
dư của xã hội cũ để lại.
Quan niệm thiên lệch về giới nữ được hình thành và ảnh hưởng tới tận bây giờ và làm hạn
chế việc nhận thức đầy đủ khách quan về năng lực của người phụ nữ.Biểu hiện định kiến
giới thể hiện rộng khắp ở mọi cấp độ khác nhau tạo ra quan niệm, nhìn nhận thiên lệch về
năng lực của phụ nữ và nam giới.Chẳng hạn, rất nhiều quan niệm về giới chỉ ra rằng phụ nữ
là người hẹp hòi, ích kỷ làm việc kém hiệu quả so với nam giới, không hăng hái trong công
việc, thiếu khả năng quyết đoán. Những định kiến về năng lực của phụ nữ đã trở thành
những trở ngại đối với phụ nữ trong việc tiếp cận các cơ hội đào tạo, hoặc khi tìm việc làm,
hay tham gia quản lý và cơ hội phát triển chuyên môn. Bên cạnh đó có những khác biệt về
giới tính, người phụ nữ còn phải thực hiện chức năng làm mẹ. Do đó, nam giới thường quan
niệm rằng, thiên chức của phụ nữ là gia đình và con cái, cho nên, mọi việc trong gia đình
phải là việc của phụ nữ, đàn ông chỉ làm việc lớn chứ không chia sẻ công việc hàng ngày với
phụ nữ. Trong khi đó, đánh giá bằng công sức thì người ta vẫn đánh giá cái nhìn thiên lệch.
Ví dụ: Nếu người phụ nữ chỉ làm việc nhà, chăm sóc con cái còn người chồng lo kinh tế
gia đình thì người chồng mới là quan trọng. Vấn đề này là sự thể hiện rất tế nhị từ biểu hiện
định kiến về năng lực của người phụ nữ, vì người phụ nữ không giỏi kiếm tiền thì phải gánh
lấy trách nhiệm chăm lo tất cả mọi việc trong gia đình, song những việc làm này không tạo
ra thu nhập cho nên việc mà người phụ nữ làm “không quan trọng”. Tuy nhiên, trên thực tế
có thể thấy rằng việc gánh vác công việc gia đình, chăm lo con cái của người phụ nữ có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với gia đình, thành công của người đàn ông ở trường hợp này
đã hàm chứa công sức của người vợ.
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 11
Ở phạm vi rộng hơn, người phụ nữ cũng bị gán cho về năng lực hạn chế đến việc sắp xếp
và phân công công việc. Chẳng hạn định kiến cho rằng đối với công việc phụ nữ không thể
quyết đoán bằng nam giới cho nên “phụ nữ chỉ tham gia lãnh đạo ở cấp nhất định nào
đó”.Trên thực tế, không phải như vậy, người phụ nữ vẫn có thể làm được nhiều việc đòi hỏi
tính quyết đoán cao, có khả năng phân tích sâu sắc và nhạy bén các tình huống cần giải
quyết.Vậy, muốn xoá bỏ quan niệm về sự phân công công việc, trước hết, cần có một cái
nhìn mới hơn về năng lực của phụ nữ.
Từ đó thấy được vai trò, quyền lợi của người phụ nữ phong kiến rất hạn chế bị gò bó và
buộc theo những hủ tục, phong kiến lạc hậu, mà vẫn mang tiếng không làm gì.
Như vậy trong xã hội thời phong kiến người phụ nữ không có nhiều quyền mà chỉ có vai
trò là đảm nhiệm các công việc nội trợ, chăm sóc con cái và vẫn bị coi là “vợ tôi chẳng làm
gì” trong khi đó người vợ phải làm không biết bao nhiêu công việc không tên mà không
được ghi nhận, như chăm sóc con, chuẩn bị cơm nước, đi chợ, dệt vải,… mà còn chưa kể
đến một số người còn phải làm các công việc khác như đồng áng, chăn nuôi…
Định kiến hẹp hòi của xã hội đã bao trùm lên nguời phụ nữ, gán cho họ vai trò nội trợ
như là một biểu trưng chung cho giới mình, khiến họ không thể tách rời khỏi gia đình, khỏi
vai trò nội trợ để tham gia các hoạt động xã hội. Phụ nữ thường đảm nhận vai trò kép, họ
vừa lao động sản xuất lại vừa làm công việc gia đình nhưng vẫn chưa được nhìn nhận,
đánh giá đúng bởi quan niệm xã hội.
Bình đẳng cho phụ nữ là một đòi hỏi cấp thiết và thiết thực nhằm đem lại sự giải phóng
cho phụ nữ, tạo cho họ có nhiều cơ hội cùng nam giới tham gia hoạt động xã hội, có được
vị trí và chỗ đứng cả ở ngoài xã hội và bên trong gia đình.
Sự phân công lao động hợp lý các công việc trong gia đình không những là chìa khoá để
đảm bảo cho sự ổn định bền chặt, êm ấm của gia đình, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn
diện của cả nam và nữ về mặt xã hội mà còn giúp cải thiện dần địa vị của mỗi giới đặc biệt
là địa vị của nguời phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.
Để đảm bảo cuộc sống cho các thành viên của mình, gia đình phải tiến hành một loạt
các hoạt động sống , các thành viên trong gia đình cung phải đảm nhiệm các vai trò nhất
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 12
định. Các vai trò này được cấu trúc hóa trên cơ sở những thiết chế của gia đình và sự kì
vọng của xã hội.Trung tâm của cấu trúc này là vai trò sản xuất kinh doanh của người phụ
nữ nhiều hơn người chồng và các thành viên khác trong gia đình.Vai trò truyền thống của
phụ nữ trong gia đình đã thay đổi. Trong trường hợp người chồng đã thực sự thay thế vai
trò truyền thống của người phụ nữ là đảm đang công việc nội trợ gia đình .VD : NC năm
2005-2006 của viện khoa học xã hội Việt Nam cho rằng: phụ nữ tham gia vào tất cả các
loại hình sản xuất tạo thu nhập như nông, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp
và tất cả các khâu cuả 1 chu trình sản xuất. Tuy nhiên những lĩnh vực mà phụ nữ tập trung
chủ yếu vào các hoat động gieo trồng, chăm sóc, chế biến và bán sản phẩm,chăn nuôi gia
súc, gia cầm, dịch vụ đời sống.(lê Thái Thi Băng Tâm, 2008:161).
Theo một nghiên cứu của trung tâm NCKH về gia đình và phụ nữ năm 1996 tại đồng
bằng Bắc Bộ phụ nữ có xu hướng tham gia vào hoạt động sản xuất ở địa phương nhiều hơn
Nam giới ( Lê Ngọc Hùng và nhóm tác giả ,2004)
Còn hiện nay theo kết quả nghiên cứu xã hội học ở các địa phương ven biển hiện
nay(Lê Tiêu La và Lê Ngọc Hùng,1998)cho biết, ở các hộ ngư dân công việc chăm sóc,
nuôi dạy con cái như kiểm tra đôn đốc việc học hành của con cái,mua sắm đồ dùng học
tập, liên hệ với nhà trường … đều do người phụ nữ thực hiện.
Vậy còn hiện nay, sau khi đã thực hiện luật bình đẳng giới, vai trò của người phụ nữ có
khác đi?Có bình đẳng hơn không?
2.2. Vai trò của người phụ nữ trong thời hiện đại và vấn đề bất bình đẳng trong phân
công lao động:
Gia đình được coi là tế bào của xã hội thì người phụ nữ được coi là hạt nhân của tế bào
này.Đồng thời, gia đình là nơi thể hiện thực chất sự bình đẳng và nâng cao địa vị của người
phụ nữ.Nói đến giải phóng phụ nữ, người ta dường như quên mất rằng, gánh nặng gia đình
còn đang đè nặng lên vai các bà, các người vợ.
Người phụ nữ chịu sự tác động của của môi trường xã hội và ngược lại, người phụ
nữ cũng tác động tới sự vận động của xã hội. Sự tác động của xã hội đối với phụ nữ bao
gồm cả hai mặt: tích cực và tiêu cực. Người phụ nữ của thời hiện đại càng không thể tách
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 13
rời với thực tế gia đình và xã hội.Bởi chính tại hai môi trường này, người phụ nữ mới thể
hiện, thực hiện được những chức năng của mình.Điều cần làm là làm sao để gia đình và xã
hội tạo được những điều kiện thuận lợi nhất cho phụ nữ phát huy được khả năng của mình.
Đó là: người phụ nữ có công việc ổn định để đảm bảo cuộc sống, có cơ hội học tập nâng
cao kiến thức, trình độ chuyên môn, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động xã
hội, các đoàn thể, câu lạc bộ, có thời gian hưởng thụ văn hóa, văn nghệ, chăm sóc sức
khỏe, làm đẹp cho bản thân
Hiện nay, những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại đã phần nào hỗ trợ người phụ
nữ trong công việc nội trợ, giảm bớt sức lao động của người phụ nữ trong gia đình. Song,
phụ nữ vẫn là người làm chính công việc nhà, từ việc bếp núc tới việc dạy dỗ con cái,
chăm lo đời sống tinh thần cho các thành viên trong gia đình. Cộng với thời gian làm việc
ngoài xã hội, quỹ thời gian dành cho việc hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần, việc học
tập nâng cao trình độ kiến thức của phụ nữ là rất hiếm hoi, thậm chí ở một số đối tượng
phụ nữ như công nhân, buôn bán, quỹ thời gian này gần như không có. Bên cạnh đó, nguy
cơ bạo lực gia đình đang là mối đe dọa cho một số không nhỏ phụ nữ.Trong khi đó, ở đâu
bạo lực gia đình xuất hiện, ở đó đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ bị tổn thương.
Để người phụ nữ đảm đương được vai trò của mình, đồng thời phát huy được hết
khả năng bản thân để phát triển trong thời hiện đại, yếu tố tự thân của mỗi phụ nữ là rất
quan trọng. Chỉ khi nào tính tích cực, chủ động của người phụ nữ được khơi dậy, phụ nữ
mới vừa có thể đảm đương tốt công việc ngoài xã hội, vừa duy trì được mối quan hệ gia
đình bền chặt, một tổ ấm hạnh phúc.
Xã hội càng hiện đại, con người cũng ngày càng hiện đại hơn, vai trò của phụ nữ và
nam giới cũng thay đổi nhiều. Trước mắt, về cơ bản, nam giới vẫn đóng vai trò trụ cột, tuy
nhiên, đã và đang xuất hiện những lĩnh vực mới, những công việc nhẹ nhàng thích hợp với
nữ giới mà lương cao đáp ứng nhu cầu cần thiết cho cuộc sống của họ . Ngày nay, ít thấy
hình ảnh người phụ nữ chỉ biết thêu thùa, đan lát, đảm đương việc nhà mà họ đã tham gia
ngày một nhiều các công việc ngoài xã hội và góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế
của đất nước nói chung và kinh tế gia đình nói riêng.
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 14
Trong xã hội hiện đại ngày , phụ nữ ngày một trở nên quan trọng, nhưng trong gia
đình thì họ ngày càng trở nên kém quan trọng hơn, họ cũng đang mất dần đi vai trò của
người mẹ và người vợ truyền thống. Và thực tế, song hành cùng sự tiến nhanh của phụ nữ
trong xã hội hiện đại thì cũng chính họ đang gây nên sự xáo trộn trong xã hội một cách
gián tiếp là nguyên nhân dẫn đến sự thụt lùi của xã hội trong tương lai.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc giữ gìn và phát huy
các giá trị truyền thống của gia đình là điều rất cần được coi trọng; trong đó phụ nữ giữ vai
trò chủ đạo.Ảnh hưởng của người phụ nữ tác động đến hầu hết các lĩnh vực trong cuộc
sống gia đình.
Người xưa có câu: “ Đàn ông xây nhà, Đàn bà xây tổ ấm” quả không sai. Vai trò
của người phụ nữ hiện đại trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc, ấm no, tiến bộ là hết
sức nặng nề.Để tạo dựng một gia đình hòa thuận, mọi thành viên trong gia đình đều phải
có trách nhiệm đóng góp công sức nhưng người phụ nữ phải là người khéo léo sắp xếp để
làm sao tất cả mọi người trong gia đình đều thấy được trách nhiệm của mình đối với gia
đình.
Ngày nay, cuộc sống của mỗi gia đình ngày càng được cải thiện. Nhịp sống, và sự
giao lưu văn hoá rộng mở, tác động thường xuyên, nhiều chiều …Vấn đề đặt ra là phải
tiếp thu, lưu giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống như thế nào? Đây là vấn đề
đòi hỏi người phụ nữ phải có vai trò rất lớn trong việc hình thành những giá trị văn hoá
mới; là người chọn lọc, phát triển và nhân lên những giá trị văn hoá tốt đẹp cho các thành
viên trong gia đình.
Với thiên chức của mình, phụ nữ là người khéo léo sắp xếp, tổ chức cuộc sống gia
đình, chăm sóc và giáo dục con cái trong gia đình. Người phụ nữ giữ vai trò trọng yếu
trong việc điều hòa các mối quan hệ gia đình, phải biết sắp xếp một cách hợp lý, trọn vẹn
và chia sẻ với chồng, bảo ban con cái, chăm sóc cho cha mẹ chồng cũng như xử sự tế nhị
với gia đình bên chồng để giữ gìn hạnh phúc bền lâu.Họ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc
và sự ổn định của gia đình. Là người vợ hiền, họ luôn hiểu chồng, sẵn sàng chia sẻ những
ngọt bùi cũng như những đắng cay cùng chồng, khiến người chồng luôn cảm thấy yên tâm
trong cuộc sống, từ đó họ có thể đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Không chỉ chăm sóc giúp
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 15
đỡ chồng trong gia đình, người vợ còn đưa ra những lời khuyên thiết thực giúp chồng
trong công việc, đóng góp vào thành công trong sự nghiệp của chồng. Là những người mẹ
hết lòng vì con cái, họ thực sự là những tấm gương cho con cái noi theo. Người mẹ ngày
nay còn là một người bạn lớn luôn ở bên con để hướng dẫn, động viên kịp thời.Bất cứ ai
trong chúng ta đều có thể tìm thấy ở những người phụ nữ, người vợ, người mẹ sự yên tĩnh
trong tâm hồn và sự cân bằng bình yên trong cuộc sống.Chính họ đã tiếp sức cho chúng ta
vượt qua những khó khăn để sống một cuộc sống hữu ích.
Trong thời đại mới, bên cạnh vai trò quan trọng trong gia đình, người phụ nữ còn
tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội. Ngày càng có nhiều người trở thành chính trị
gia, nhà khoa học nổi tiếng, nhà quản lý năng động … Trong nhiều lĩnh vực, sự có mặc của
người phụ nữ là không thể thiếu như ngành dệt, may mặc, du lịch, công nghệ dịch vụ …
Theo Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh hành động
của Hội nghị thế giới lần thứ 4 về phụ nữ tại Bắc Kinh, vai trò, vị trí của phụ nữ Việt Nam
đã được cải thiện rõ rệt.
Hiện nay, phụ nữ Việt Nam góp một phần rất lớn vào quá trình phát triển của đất
nước, thể hiện ở số nữ chiếm tỉ lệ cao trong lực lượng lao động. Với hơn 50% dân số và
gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các
lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Chỉ
cần điểm qua một vài con số: Hiện có tới 33,1% đại biểu nữ trong Quốc hội (khóa XII) -
cao nhất ở châu Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế
giới; số phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp trên 20%.
Hơn 90% phụ nữ biết đọc, biết viết. Tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sĩ
33,95%; tiến sĩ 25,69%. Ngay trong giới báo chí, tỷ lệ các nhà báo nữ cũng ước tính tới
gần 30%.Phụ nữ chiếm ưu thế trong một số ngành như giáo dục, y tế, và dịch vụ.Trong
công tác chuyên môn, phụ nữ chiếm số đông trong các bộ môn văn học, ngôn ngữ, y dược,
khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và kinh tế.Nếu tính tổng số giờ làm việc của nữ giới
(kể cả ở nhà và bên ngoài) cao hơn rất nhiều so với nam giới.
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 16
Có tới 71% phụ nữ từ 13 tuổi trở lên là những người có thu nhập. Số hộ nghèo do
phụ nữ làm chủ đã giảm từ 37% năm 1998 xuống còn 8% năm 2004 Đây là những con
số sinh động, là bằng chứng chứng minh hiệu quả của những chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước đã tạo điều kiện cho phụ nữ Việt Nam phát triển.
Quyền của phụ nữ về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp luật quy định
phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai, nhà ở, và
tài sản. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia đã hoàn thành báo cáo về tình hình
thực hiện Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Đặc
biệt, hệ thống các ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ đã được thành lập ở 45 bộ, ngành và toàn
bộ 64 tỉnh, thành phố. Mạng lưới cán bộ tư vấn về giới hoạt động hiệu quả, hệ thống pháp
luật bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ được tăng cường, Luật Bình đẳng giới chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2007.
Trong bài phát biểu tại buổi toạ đàm “Vai trò của Phụ Nữ Việt Nam Trong Thế Kỷ
XXI” do Quỹ Phát triển Phụ Nữ Liên Hợp Quốc UNIFEM và Hội phụ nữ Việt Nam tổ
chức dưới sự hỗ trợ của các tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, Chủ tịch Hội phụ Nữ
Việt Nam Hà Thị Khiết đã tôn vinh người phụ nữ Việt Nam: “Trong thành tựu chung của
đất nước, có sự đóng góp tích cực của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Là một lực lượng
lao động xã hội đông đảo, phụ nữ Việt Nam đã tỏ rõ vai trò, khả năng, sức sáng tạo của
mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thích ứng với sự hội nhập và phát triển theo xu
thế chung của nhân loại”
Như vậy có thể nói, trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, phụ nữ Việt
Nam tiếp tục phát huy và khẳng định vai trò, vị trí của mình đối với sự phát triển của xã
hội. Khi nền kinh tế của chúng ta càng phát triển, phụ nữ càng có nhiều cơ hội hơn. Nó phá
vỡ sự phân công lao động cứng nhắc theo giới, cho phép phụ nữ tham gia vào nền kinh tế
thị trường và khiến nam giới phải chia sẻ trách nhiệm chăm sóc gia đình. Nó có thể giảm
nhẹ gánh nặng việc nhà cho phụ nữ, tạo cho họ nhiều thời gian nhàn rỗi hơn để tham gia
vào các hoạt động khác. Đồng thời nó còn tạo ra nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ trên thị
trường lao động v.v… Chính nhờ Đảng có sự lựa chọn đường lối đúng đắn cho sự phát
triển của đất nước mà vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam không ngừng được
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 17
nâng cao.Tuy nhiên, đó cũng chỉ mới là những bước khởi đầu thuận lợi.Hiện thời chúng ta
vẫn còn nhiều hạn chế cần phải được khắc phục trong vấn đề bình đẳng giới, nhất là về mặt
tư tưởng, quan điểm của con người trong xã hội, kể cả nam giới và nữ giới. Không chỉ có
nam giới chưa nhận thức hoặc có thái độ không chấp nhận vai trò, vị trí của phụ nữ mà
ngay chính bản thân nhiều phụ nữ cũng hiểu biết mơ hồ từ đó có những thái độ lệch lạc và
không thể có cách giải quyết đúng đắn các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống có liên quan
đến vai trò, vị trí về giới của mình. Bà Rose Marie Greve, Giám đốc Tổ chức Lao động
quốc tế (ILO) trong buổi tọa đàm “Vai trò của Phụ nữ Việt Nam trong thế kỷ XXI” nói
trên, đã từng nhận định: “Đã đạt được rất nhiều thành tựu, nhưng phía trước chúng ta vẫn
còn nhiều việc phải làm. Bất bình đẳng giới vẫn còn là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến đói nghèo và là một trong những cản trở cho sự phát triển bền vững.Người
phụ nữ cần phải được bộc lộ hết khả năng của mình cũng như thực thi và hưởng các quyền
của mình.Thiếu bình đẳng về giới gây cản trở cho phát triển và ảnh hưởng tiêu cực đến tất
cả các thành viên trong gia đình và xã hội.
Khi ở vào thời kỳ mới, để khẳng định và phát huy vai trò của mình, phụ nữ Việt
Nam có nhiều mặt thuận lợi do sự phát triển kinh tế mang lại, nhưng đồng thời với nó là
những thử thách họ cần phải vượt qua.
Để lí giải cho vai trò của người phụ nữ thay đổi nhu thế nào từ xưa đến nay tôi sử
dụng lí thuyết vai trò (lí thuyết tương tác biểu trưng)để giải thích cho đề tài của mình .theo
đè tai cho thấy người phụ nữ có vai trò khá quan trong trong hoạt động sống của gia đình
mình . ở đây, người phụ nữ có vai trò vừa làm vợ, làm mẹ ,…thì khi đó họ đã xác định
được vị trí mà họ nắm giữ ,với chức năng chính mà mình thực hiện. Khi đó các thành viên
có xu hướng thực hiện vai trò của mình và có xu hướng thỏa hiệp để thực hiện vai trò của
mình .
Việc nhóm vai trò gia đình còn phụ thuộc vào bản thân chính gia đình đó,(người phụ
nữ thực hiện chức năng của một người vợ như sinh đẻ, làm nội trợ….)
Trong gia đình sự phân công lao đông là khá phổ biến chồng làm việc này vợ làm việc
kia.
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 18
Ví dụ: khi vợ sinh đẻ thi người chông phải ra ngoài kiếm tiền về trang trải cuộc sống
gia đinh.
Hay
Người chồng trong xã hội phong kiến trong gia đình nhà nho chỉ chú trọng tới học
hành đèn sách thi cử làm sao cho đậu để làm quan, còn người phụ nữ lúc đó thì phải lo
toan công việc gia đình ,từ việc đòng áng đến việc chăm sóc con cái…
Trước đây việc nặng trong gia đình thi do người đàn ông gánh vác(kiếm tiền) nhưng
hiện nay việc kiếm tiền thì cả hai vợ chồng đều phải lo. Ca hai vợ chồng đều phải đi làm
để nuôi sống gia đình mình.
Vai trò của người phụ nữ được khẳng định qua thời gian:
Trong thời kì gia đình,từ vị trí không được tham gia bàn bạc vào các công việc lớn thì
đến ngày nay thì người phụ nữ có quyền bình đẳng hơn xưa là tham gia trực tiếp và bàn
bạc công việc gia đình cũng như ngoài cộng đồng xã hội.
Người phụ nữ ngày có xu hướng quyết định các công việc trong gia đình (tuỳ từng gia
đình)
Vấn đề nay là do phụ nữ được bình đẳng trong học tập nên nên có vị trí, uy tín trong
xã hội hơn trước nên phần thưởng trong gia đình là mà họ nhận được chính là sự công
bằng .
Vai trò của nguời phụ nữ ngày càng phát triển
Tuy nhiên nhiều phụ nữ hiện nay quá quan tâm đến công việc xã hội mà quên đi bổn
phận làm vợ làm mẹ của mình
Trước kia trong gia đình người đàn ông làm chủ nhiều hơn so với hiện nay còn hiện
nay người phụ nữ làm chủ nhiều hơn và ở thành thị, phụ nữ tham gia vào các hoạt động
kinh tế nhiều hơn ở nông thôn.
Tóm lại lí thuyết vai trò( thuyết tương tác biểu trưng)đã phần nào lí giải được xã hội
Việt Nam truyền thống và “ Lấy thực tế của sự biến đổi các giá trị gia đình từ gia đình
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 19
trong xã hội Việt Nam truyền thống đến gia đình Việt Nam ngày nay và đặc biệt có cái
nhìn về người phụ nữ trong xã hội xưa và nay
Như vậy người phụ nữ trong thời hiện đại đã có một số thay đổi nhất là sau khi ban
hành và thực hiện luật bình đẳng giới. Người phụ nữ lại càng được khẳng định bản thân
trong tất cả các ngành, các phương diện. Tuy nhiên, để xét một cách trung thực thì ta vẫn
thấy một thực tế:
Công việc nhà người phụ nữ hầu như vẫn đảm nhiệm hết.
Ngày nay, phụ nữ tham gia vào việc tạo thu nhập ở nhiều lĩnh vực như nam giới
nhưng xã hội vẫn mong đợi họ phải làm tốt cả công việc nội trợ trong gia đình, chăm sóc
con cái, chăm lo việc họ hàng, trong khi nam giới chỉ cần đi làm kiếm thu nhập là đủ. Điều
này lại không được coi là quá sức đối với phụ nữ hay bất bình đẳng trong khi họ được coi
là "phái yếu". Bởi mong muốn làm tốt cả hai vai trò, trong khi quỹ thời gian có hạn, phụ
nữ phải gồng mình để học tập, lao động và phấn đấu nếu muốn có vị trí ngang bằng với
nam giới; hoặc, đây là quyết định của phần đa phụ nữ, hy sinh phát triển nghề nghiệp để có
thời gian chăm sóc gia đình. Để phát triển nghề nghiệp được tốt, ai cũng cần phải cập nhật
kiến thức, trao dồi kỹ năng thường xuyên. Thời gian nghỉ ngơi, giải trí mỗi ngày (chứ
không phải là theo đợt như mùng 8/3) cũng rất cần thiết để tinh thần và thể chất được nạp
thêm năng lượng để có thể tiếp tục đương đầu những thách thức mới.
Trong khi đương nhiên coi khoảng thời gian nghỉ ngơi này là phù hợp đối với nam
giới, quan niệm xã hội lại không cho phép phụ nữ được hưởng quyền đó vì mong đợi họ
cống hiến tiếp cho các công việc gia đình. Rõ ràng, quan niệm của xã hội về một người
phụ nữ tốt và hạnh phúc đã tước đoạt đi quyền phát triển nghề nghiệp, thể chất và trí tuệ
của họ.
Điều đáng chú ý là có nhiều nghiên cứu của Tổ chức lao động quốc tế, Liên Hợp
Quốc đã chứng minh rằng công việc nhà chiếm rất nhiều thời gian (trung bình 6 tiếng),
công sức và tinh thần của phụ nữ vì các công việc thường tẻ nhạt, lặp lại, và ở những tư thế
không có lợi cho phát triển thể chất. Ví dụ: công việc gánh nước, lấy củi, nhặt cỏ làm ảnh
hưởng đến phát triển cột sống. Tuy nhiên, xã hội lại không đánh giá cao những công việc
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 20
nhà vì chúng không tạo ra thu nhập. Bởi vậy, khi nam giới đóng góp cho thu nhập của gia
đình nhiều hơn phụ nữ, họ được coi là chăm lo cho gia đình, đã "hy sinh", đã thương yêu
vợ con
Theo nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ thì thời
gian làm việc của người vợ ít nhất là ba giờ trở lên mỗi ngày, chiếm 64.5%, trong khi đó tỷ
lệ này ở người chồng là 14%. Chúng ta hãy thử làm một phép tính đơn giản, nếu mỗi ngày
người phụ nữ bỏ ra từ 3 đến 10 tiếng cho công việc gia đình thì trong suốt cuộc đời họ sẽ
mất 2/3 quãng đời vào những công việc “không tên” đó.
Bằng tất cả những số liệu trên đây, chúng ta có thể thấy rõ bất bình đẳng giới trong
phân công lao động gia đình giữa nam giới và phụ nữ, giữa người vợ và người chồng vẫn
đang tồn tại đậm nét ở các gia đình Việt Nam. Sự bất bình đẳng giới này khôg phải lúc nào
cũng dễ nhận thấy bởi lẽ hàng ngàn đời này mọi người đều nhìn nhận việc tề gia nội chợ
được gắn liền với người phụ nữ, đó là nghĩa vụ, trách nhiệm của người phụ nữ đối với gia
đình. Chính sự nhìn nhận này đã làm cho nỗi vất vả, cơ cực của phụ nữ ngày nay đang bị
nhân đôi. Người phụ nữ cùng tham gia lao động xã hội như nam giới nhưng lại là người
“nghệ sĩ độc diễn” trên sân khấu gia đình.
Thật nực cười cho các ông chồng hết giờ làm việc tại nhiệm sở lại chúi đầu vào đọc sách
báo, cà phê hay nhậu nhẹt… mà luôn kêu ca vợ mình thiếu: Công - Dung - Ngôn - Hạnh!
Đó là chưa xét đến mặt thể lực phụ nữ cần được ưu tiên hơn.Xét thấy gắn phụ nữ
với việc tề gia nội chợ chỉ là sự áp đặt. Nó là sản phẩm của phái mạnh đối với phái yếu,
của bề trên với bề dưới, của “Chồng chúa - vợ tôi”, của thống trị và bị trị… Và theo đó
người phụ nữ đang làm công việc của một “Nô tỳ”!.
Chúng ta nên hiểu việc gia đình không phải của riêng ai thì mọi hoạt động của ngưòi phụ
nữ trong gia đình mới có ý nghĩa.Để tiến tới bình đẳng trong gia đình cần phá đi những rào
cản tư tưởng phong kiến xưa cũ, phải làm thay đổi cách nghĩ của cả hai giới trong công
việc gia đình.Cả hai giới phải có nhận thức đúng đắn về chức năng, vai trò giới mình để từ
đó có sự chia sẻ hợp lý trong công việc gia đình. Tính tự giác cũng như tình cảm của con
người trong gia đình là cơ sở để hoàn thành mọi công việc. Nếu mọi người tự quên đi nét
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 21
tâm lý quen thuộc “Việc gia đình là của phụ nữ” thì chẳng cần hô hào, đấu tranh vì bình
đẳng, người phụ nữ vẫn được “cởi trói” khỏi gia đình.
Như vậy nói là bình đẳng, tuy nhiên phần nhiều công việc nhà vẫn do người phụ nữ
đảm nhiệm và chỉ có 5% người đàn ông đảm nhiệm công việc nhà. Hơn nữa trước đây họ
chỉ phải làm công việc nhà là chủ yếu mà không phải làm thêm các công việc bên ngoài,
còn hiện nay, họ không những phải làm công việc gia đình mà còn đảm nhiệm them công
việc xã hội nữa và vai trò xã hội của người phụ nữ không thua kém gì đấng mày râu: Tính
chung ở Việt Nam vào năm 2009, có 27,5% tổng số phụ nữ làm việc trong khu vực được
trả lương, trong khi tỉ lệ này ở nam giới là 38,9% (Ngân hàng thế giới et al. 2011).
Sự khác biệt về thời gian lao động giữa nam và nữ cũng phản ánh một thiệt thòi
đáng kể của phụ nữ Việt Nam. Như bình luận trong báo cáo Ngân hàng Thế giới và một số
cơ quan khác (2006), phụ nữ và nam giới Việt Nam ngày nay có đóng góp tương tương
nhau trong việc tạo ra thu nhập, nhưng lại không có sự chia sẻ ngang nhau trong thực hiện
các công việc nhà. Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008, phụ nữ tham gia
công việc gia đình nhiều hơn nam giới 0,7 giờ mỗi ngày (2,2 giờ so với 1,5 giờ) (Ngân
hàng Thế giới et al. 2011:58). Kết quả Điều tra mức sống dân cư 1997-1998 và 2004 cũng
cho thấy rằng ở tất cả các nhóm tuổi, phụ nữ đều dành thời gian gấp đôi so với nam giới
cho các công việc nhà.Phụ nữ chiếm phần lớn số người phải làm việc mỗi tuần từ 51 tiếng
trở lên (Desai 2001; World Bank 2006). Theo một đánh giá về bất bình đẳng giới ở Việt
Nam năm 2004, phụ nữ thường pahir làm việc trung bình 13 tiếng một ngày, trong khi nam
giới chi làm 9 tiếng (chính phủ,2005).
Trong nhiều trường hợp , ở cả nông thôn và thành thị , phụ nữ thường phải gáng
gấp đôi trách nhiện bởi họ không chỉ kiếm sống, mà còn phải thực hiện đầy đủ các bổn
phận truyền thống trong vai trò người mẹ, người vợ (Dalton et al.2002). Theo thống kê,
trong hơn một nửa gia đình Việt Nam, phụ nữ được mong đợi là người duy nhất chịu trách
nhiệm chăm sóc trẻ em , chăm sóc người già, người tàn tật, hoặc người ốm (VASS 2006).
Phụ nữ luôn phải chịu gánh nặng công việc lớn hơn nam giới trong bất kì thời điểm nào
trong cuộc đời của họ (Desai 2001).Điều này dẫn đến hệ quả là phụ nữ có rất ít thời gian
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 22
dành cho các hoạt động xã hội và tiếp tục học lên cao, do đó họ rất hieemd khi có cơ hội
tham gia vào quá trình ra quyết định tại cộng đồng của mình.
Chương 3: Xu hướng của vấn đề trong tương lai:
Luật Bình đẳng giới có hiệu lực đã 5 năm, song đến nay, dù đã có nhiều tiến bộ
nhưng giữa nam và nữ vẫn chưa thực sự được bình đẳng.
Nghiên cứu mới nhất của Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ phụ nữ cho thấy, phụ nữ mới chỉ
được hưởng 80% thu nhập so với sức lao động bỏ ra… Rào cản là nhận thức về bình đẳng
giới vẫn chưa thông ở cả hai giới.
Công nhận không phải là châm chước
Trong một lần về Đồng Nai tập huấn công tác bình đẳng giới cho cán bộ phụ nữ,
thạc sĩ Bùi Thị Thu Trang, chuyên gia tâm lý của Trường Cán bộ phụ nữ TP.Hồ Chí Minh
chia sẻ: “Lâu nay, vấn đề thực hiện bình đẳng giới được cổ vũ khá nhiều. Song vấn đề này
chưa được hiểu thật chính xác ở cả hai giới.Một số phụ nữ cho rằng, bình đẳng giới chính
là nam giới làm được gì thì phụ nữ cũng có thể làm được điều đó. Chẳng hạn như: hôm
nay vợ nấu cơm, lau nhà thì mai chồng cũng phải lau nhà, nấu cơm. Hoặc không ít nam
giới cho rằng đã bình đẳng thì các bà cũng phải làm mọi việc như đàn ông, kể cả những
việc nặng Nghĩa là đàn ông làm ngày bao nhiêu giờ thì phụ nữ cũng phải chừng ấy,
không có quyền viện lý do “phụ nữ chân yếu tay mềm” để được châm chước”.Bà Trang
cho rằng, cách hiểu đó hoàn toàn sai với bản chất của việc cổ vũ cho thực hiện bình đẳng
giới.
Có thể nói quan niệm nam nữ ngang nhau về mọi mặt là một quan niệm lý tưởng, là
cách hiểu sòng phẳng về bình đẳng giới.Sẽ không thể có bình đẳng giới thực sự khi không
đề cập đến sự khác biệt nhất định về tâm lý giới tính và các đặc điểm cố hữu về mặt sinh
học của từng giới.Bởi với sự khác biệt này mà nam và nữ - mỗi giới đều có những khả
năng làm được những việc khác nhau. Lấy một dẫn chứng đơn giản là duy chỉ có phụ nữ
mới có khả năng mang thai và sinh nở, vậy thì làm sao có thể phân công lao động đối với
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 23
những phụ nữ trong suốt thai kỳ và cả thời gian nuôi con nhỏ giống hệt đồng nghiệp nam
giới?
Còn chuyên gia tư vấn Trần Thị Hòa (Sở Lao động - thương binh và xã hội tỉnh)
cho rằng: “Trong thực tế còn có một cách hiểu dễ dẫn tới sự bình đẳng giả - tức là sự bình
đẳng dựa vào việc chiếu cố, châm chước, quan điểm “cơ cấu nữ giới cho đủ thành phần”
đối với phụ nữ. Đó thực chất là một hình thức xem nhẹ năng lực của nữ giới. Bình đẳng
giới trong lao động, việc làm cần được hiểu là ngang nhau về mọi chủ trương. Nếu một
phụ nữ tài đức ngang bằng đồng nghiệp nam giới thì người ấy phải có cơ hội thăng tiến
giống như đồng nghiệp khác giới của mình.Nếu tài đức họ hơn hẳn đồng nghiệp nam giới
thì người ấy nhất thiết phải được ưu tiên lựa chọn.Điều đó cũng có nghĩa một phụ nữ tài
đức chưa ngang bằng đồng nghiệp nam giới thì không nên lựa chọn người ấy bằng cách
dựa vào yếu tố giới tính để chiếu cố và châm chước. Chính quan niệm chiếu cố, châm
chước, cơ cấu nữ cho đủ thành phần trong trường hợp này lại là bất bình đẳng giới.
Cần bắt đầu từ nhận thức
Hiểu về bình đẳng giới dựa trên những khác biệt tâm sinh lý của mỗi giới để đánh giá
đúng vai trò, vị trí của từng giới, đó mới chính là nền tảng để thực hiện đúng về bình đẳng
giới.
Bác sĩ Nguyễn Lê Đa Hà, Giám đốc Bệnh viện nhi đồng Đồng Nai cho rằng: “Ngày
nay, phụ nữ tham gia tạo thu nhập cho gia đình như nam giới, nhưng xã hội và người
chồng vẫn mong đợi phụ nữ phải làm tốt cả công việc nội trợ trong gia đình, chăm sóc con
cái, cha mẹ, chăm lo cả việc họ hàng… trong khi nam giới chỉ cần đi làm đem thu nhập về
là đủ. Điều này lại không được coi là bất bình đẳng, là quá sức đối với phụ nữ.Bởi muốn
làm tốt cả hai vai trò, trong khi quỹ thời gian của họ cũng chỉ như nam giới thì phụ nữ phải
gồng mình để học tập, lao động, để phấn đấu nếu muốn có vị trí ngang bằng với nam giới”.
Một thực tế, vợ chồng cùng làm việc, nếu cần một người phải hy sinh công việc để
chăm lo gia đình thì phần lớn vẫn là phụ nữ. Nghiên cứu của Ủy ban quốc gia Vì sự tiến
bộ phụ nữ cho thấy, việc nhà chiếm khá nhiều thời gian trong ngày của một phụ nữ, trung
bình 6 tiếng. Tuy nhiên, những đóng góp của phụ nữ vào công việc nội trợ thường không
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 24
được nam giới đánh giá cao vì chúng không tạo ra thu nhập, kể cả khi người vợ hy sinh
công việc xã hội để chăm lo gia đình.
Để bình đằng giới thực sự đi vào cuộc sống, trước hết cần có sự nhận thức đúng ở cả hai
giới, đặc biệt là nam giới.
Người phụ nữ trong xã hội xưa thì phải ở trong nhà lo việc gia đình, người phụ nữ
ngày nay thì không chỉ quán xuyến việc nhà mà còn làm cả các công việc trong xã hội, và
rất ít có được sự phụ giúp của người chồng.vì thế vấn đề bất bình đẳng ngày càng đáng
được quan tâm.
Các xu hướng có thế xảy ra trong tương lai thì có hai xu hướng:
Một là: người phụ nữ vẫn phải làm công việc nhà và cán đáng công việc ngoài xã
hội mà được coi rằng đó là công việc tất nhiên.
Hai là người phụ nữ vẫn làm công việc nhà, vẫn làm công việc ngoài xã hội. Tuy
nhiên có sự cân bằng hơn, công việc gia đình cả hai vợ cồng cùng làm, không chỉ riêng
một mình vợ làm. Người chồng cùng vợ của mình san sẻ các công việc nhà như giặt rũ,
phơi phóng, chăm con cái, mua đố, đi chợ, nấu ăn,…
Đó là hai xu hướng sẽ xảy ra trong xã hôi tương lai, và theo hướng nào mạnh
hơn ,nhiều hơn là do quan niệm, định kiến xã hội của cả hai giới, hay của toàn xã hội đối
với người phụ nữ và công việc nhà.
Hiện nay đang có xu hướng một số người chồng cũng bắt đầu làm việc nhà nhiều
hơn.
Chúng ta nên hiểu việc gia đình không phải của riêng ai thì mọi hoạt động của
ngưòi phụ nữ trong gia đình mới có ý nghĩa.Để tiến tới bình đẳng trong gia đình cần phá đi
những rào cản tư tưởng phong kiến xưa cũ, phải làm thay đổi cách nghĩ của cả hai giới
trong công việc gia đình.Cả hai giới phải có nhận thức đúng đắn về chức năng, vai trò giới
mình để từ đó có sự chia sẻ hợp lý trong công việc gia đình. Tính tự giác cũng như tình
cảm của con người trong gia đình là cơ sở để hoàn thành mọi công việc. Nếu mọi người tự
Nguyễn Thị Quy-K55 XHH 25