Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

thực trạng chăm sóc sức khỏe tinh thần của học sinh trường thpt thuận thành số 1- bắc ninh và đề xuất một số biện pháp hỗ trợ của công tác xã hội.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.38 MB, 111 trang )

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài: “Thực trạng chăm sóc sức khỏe tinh thần của học sinh
trường THPT Thuận Thành Số 1- Bắc Ninh và đề xuất một số biện
pháp hỗ trợ của công tác xã hội.”
1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nội dung
1 SKTT Sức khỏe tinh thần
2 CSSKTT Chăm sóc sức khỏe tinh thần
3 CTXH Công tác xã hội
4 NVCTXH Nhân viên công tác xã hội
5 SKTTTE Sức khỏe tinh thần trẻ em
6 THPT Trung học phổ thông
7 TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
8 Đoàn TNCSHCM Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Những biểu hiện tổn thương về sức khỏe thể chất của học sinh.
Bảng 2.2.Biểu hiệntổn thương về sức khỏe tinh thần của các em học sinh.
Bảng 2.3. Nguyên nhân gây ảnh hưởng đến chăm sóc sức khỏe tinh thần cho
học sinh THPT Thuận Thành Số 1.
Bảng 2.4. Nguyên nhân từ việc học tập.
Bảng 2.5. Nguyên nhân từ gia đình.
Bảng 2.6. Nghề nghiệp của bố mẹ.
2
Bảng 2.7. Nguyên nhân liên quan đến các mối quan hệ xã hội.
Bảng 2.8. Nguyên nhân từ bản thân học sinh.
Bảng 2.9.Hậu quả của những vấn đề liên quan đến chăm sóc sức khỏe tinh
thần.
Bảng 2.10.Những mong muốn của các em học sinh.
Bảng 2.11. Những cách làm giảm căng thẳng, lo âu ở các em học sinh.
DANH MỤC BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 2.1 Nguyên nhân gây ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của các em
học sinh.
Biểu đồ 2.2.Nguyên nhân từ việc học tập.
Biểu đồ 2.3. Nguyên nhân liên quan đến bản thân học sinh.
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã khẳng định rằng sức khỏe con người bao
gồm sức khỏe thể chất, tinh thần, xã hội và không có bệnh tật trong đó sức khỏe
tinh thần đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của con người. Xã hội ngày
càng phát triển kéo theo nhiều thay đổi trong đời sống con người, bên cạnh
những mặt tích cực, hệ quả của nó làm phát sinh ngày càng nhiều những yếu tố
tâm lý xã hội gây stress làm ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của con người
3
như: Lo âu, trầm cảm, tâm thần phân liệt, hoang tưởng…Những vấn đề này gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và cuộc sống của con người, đặc biệt là
đối với trẻ em.Theo nghiên cứu của Rieger và cộng sự (1990) có khoảng 15%
dân số nói chung trong cuộc đời đã trải nghiệm các triệu chứng mang đặc trưng
của rối loạn lo âu và 2,3- 8,1% có rối loạn lo âu hiện hữu.
Học sinh phổ thông là những nhân cách đang phát triển và trưởng thành,
tâm lý luôn có nhiều biến động. Do đó các em rất dễ bị ảnh hưởng, tổn thương
bởi những yếu tố tâm lý- xã hội- nhà trường, gia đình và vì thế nguy cơ dẫn đến
những vấn đề về sức khỏe tinh thần là rất lớn. Theo thống kê trên thê giới, tỷ lệ
trẻ em có rối loạn tâm lý là 5,7- 17,7%. Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của
PGS.TS Nguyễn Công Khanh (4/2000) trên 503 học sinh cấp 2, cấp 3 thuộc khu
vực Hà Nội có ít nhất 17,47- 18,81 em học sinh có biểu hiện rối loạn lo âu.
Trong nhà trường luôn có một tỉ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tinh
thần, số liệu 19,46% học sinh trong độ tuổi 10-16 tuổi gặp trục trặc về vấn đề sức
khỏe tinh thần là con số đáng lo ngại . Những rối loạn cảm xúc sẽ làm giảm khả
năng học tập và phát triển của học sinh, phá vỡ nghiêm trọng sự phát triển về
mặt xã hội. Nếu không ngăn chặn, phát hiện và hỗ trợ kịp thời thì sẽ gây ra

những ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình phát triển tâm sinh lý, nhân cách
của các em.
Thực trạng sức khỏe tinh thần trẻ em, đặc biệt là thực trạng sức khỏe tinh
thần của học sinh lứa tuổi phổ thông đang làvấn đề đang lo ngại hiện nay, bởi lứa
tuổi học sinh THPT là lứa tuổi có những đặc điểm tâm sinh lý đặc biệt.Chính vì
vậy, để giúp cho các em có một sức khỏe tinh thần tốt, nguồn lực để các em
sống khỏe mạnh, nền tảng cho chất lượng cuộc sống, chúng ta cần quan tâm đến
vấn đề chăm sóc sức khỏe tinh thần của các em học sinh.
4
Và công tác xã hội học đường đang là một đòi hỏi cấp thiết trong xã hội
hiện nay. Vai trò của nhân viên CTXH rất quan trọng và cần thiết, họ là những
người giúp các em giải gỡ, chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống đồng thời
cũng là cầu nối giữa các em với nhà trường, gia đình.
Từ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn trên, tôi chọn đề tài: “Thực trạng
chăm sóc sức khỏe tinh thần của học sinh trường THPT Thuận Thành Số 1
và đề xuất một số biện pháp hỗ trợ cuả công tác xã hội”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trước đây có rất nhiều những đề tài, công trình nghiên cứu, những luận
văn và luận án về đề tài sức khỏe tâm thần trẻ em, những vấn đề nghiên cứu rất
đa dạng như: Những rối loạn tâm lý, tình trạng nghiện game ảnh hưởng đến sức
khỏe tâm thần, các yếu tố hành vi và những nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe
tâm thần và cuộc sống của các em.
Một số những công trình nghiên cứu ở Việt Nam và tác giả về vấn đề
sức khỏe tinh thần trẻ em:
Nghiên cứu của tác giả Hoàng Cẩm Tú và cộng sự trên hơn 1500 trẻ tại
hai phường Kim Liên và Trung Tự (2000) cho thấy có tới 1,9%-3% các em có
biểu hiện lo âu, trầm cảm.
Trong đề tài nghiên cứu “Xây dựng mô hình chăm sóc sức khỏe tinh thần
cho học sinh trung học phổ thông Đồng Nai” do BS Nguyễn Văn Thọ và cộng
sự thực hiện (1998- 2000) cho thấy 10- 21% có vấn đề sức khỏe tâm thần.[7;296]

“Một số nguyên nhân gây ra rối loạn lo âu ở học sinh THPT”, Tác giả
Nguyễn Thị Hằng Phương đã nghiên cứu đối tượng học sinh chuyên Quảng Bình
và chỉ ra rằng có khoảng 21,66% học sinh có vấn đề về rối loạn lo âu.[15]
“Chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh trường học tại Hà Nội”, Sở y tế
Hà Nội – Bệnh viện tâm thần Mai Hương và trường đại học của Úc tiến hành
5
trên khuôn khổ dự án cho thấy có 15.94 % em có rối nhiễu tâm lý trong tổng học
sinh các cấp. Trong số các ca tự sát có 10% ở độ tuổi 10- 16.
Nhìn chung, ở Việt Nam những công trình nghiên cứu riêng biệt về vấn đề
chăm sóc sức khỏe tinh thần trẻ em, đặc biệt là vấn đề chăm sóc sức khỏe tinh
thần học sinh THPT thì chưa nhiều. Những công trình nghiên cứu đó chỉ nghiên
cứu về những rối nhiễu tâm lý, rối loạn lo âu, một phần nhỏ của sức khỏe tinh
thần. Mặt khác, chưa có bất kỳ một nghiên cứu nào về vấn đề chăm sóc sức khỏe
tinh thần của học sinh trườngTHPT Thuận Thành Số 1 – Huyện Thuận Thành –
Tỉnh Bắc Ninh và sự trợ giúp của công tác xã hội. Nên tôi chọn nghiên cứu đề
tài: “Thực trạng chăm sóc sức khỏe tinh thần của học sinh trường THPT
Thuận Thành Số 1- Bắc Ninh và đề xuất một số biện pháp hỗ trợ của công tác
xã hội”.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng chăm sóc sức khỏe tinh thần của học
sinh trường THPT Thuận Thành Số 1và đề xuất một số biện pháp của công tác
xã hội với việc chăm sóc sức khỏe tinh thần của học sinh THPT Thuận Thành Số
1- Bắc Ninh.
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh trường THPT Thuận Thành Số 1 lứa
tuổi từ 15-18 tuổi, giáo viên trong trường và phụ huynh của học sinh.
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh trường THPT Thuận Thành Số 1- Bắc
Ninh
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng chăm sóc sức khỏe tinh thần
của học sinh trường THPT Thuận Thành Số 1 - BN và vai trò của công tác xã hội

đối với việc chăm sóc sức khỏe tinh thần trong học đường, từ đó đề xuất những
biện pháp nhằm nâng cao sức khỏe tinh thần của học sinh trường THPT Thuận
Thành Số 1.
6
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
+ Nghiên cứu những biểu hiện tổn thương về sức khỏe tinh thần của các
em học sinh.
+ Tìm hiểu nguyên nhân, hậu quả, những mong muốn, biện pháp làm giảm
những vấn đề sức khỏe tinh thần của các em học sinh trường THPT Thuận
Thành Số 1, thực trạng chăm sóc sức khỏe tinh thần cho các em tại trường.
+ Đề xuất một số biện pháp hỗ trợ của công tác xã hội đối với việc chăm
sóc sức khỏe tinh thần của các em học sinh.
5. Giả thuyết nghiên cứu.
Thực trạng vấn đề chăm sóc sức khỏe tinh thần của học sinh trường THPT
Thuận Thành Số 1 còn nhiều hạn chế từ phía nhà trường, gia đình và bản thân
các em học sinh. Phần lớn học sinh tại trường Thuận Thành Số 1 có nhiều những
biểu hiện về vấn đề sức khỏe tinh thần.
Nếu gia đình và nhà trường có nhận thức đúng đắn về vấn đề chăm sóc
sức khỏe tinh thần của các em học sinh, tìm hiểu được nguyên nhân, hậu quả,
biện pháp, cùng với những mong muốn của các em thì chúng ta sẽ có những biện
pháp để can thiệp, hỗ trợ và phòng ngừa kịp thời giúp các em có một sức khỏe
tinh thần tốt để học tập có hiệu quả hơn.
6. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
6.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Tôi tiến hành đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan đến vấn đề
chăm sóc sức khỏe tinh thần của học sinh THPT.
- Hệ thống hóa lý luận của vấn đề nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý luận cho
việc nghiên cứu thực tiễn.
- Xây dựng hệ thống khái niệm công cụ, phương pháp nghiên cứu nhằm tiến

hành nghiên cứu đề tài.
7
6.2 Nhóm nghiên cứu thực tiễn.
6.2.1 Phương pháp quan sát:
Quan sát điều kiện học tập của các em trong nhà trường.
Đối tượng quan sát: Cơ sở vật chất dành cho học sinh tại trường như: Nhà
đa năng, sân thể dục, vui chơi…thái độ đối xử của cán bộ nhân viên nhà trường
đối với các em.
Mục đích quan sát nhằm tìm hiểu thực trạng chăm sóc sức khỏe tinh thần
của học sinh trường THPT Thuận Thành Số 1.
6.2.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Tiến hành phát 160 phiếu điều tra học sinh trường THPT Thuận Thành Số
1với mục đích điều tra thực trạng chăm sóc SKTT của học sinh trong trường,160
em học sinh thuộc ba khối lớp 10, 11và 12.
Phiếu điều tra được trình bày dưới dạng thăm dò ý kiến, đề nghị các em trả
lời những câu hỏi có trong bảng hỏi. Phiếu điều tra gồm các dạng câu hỏi như:
Câu hỏi đóng, câu hỏi mở, trả lời nhanh bằng cách đánh dấu đáp án.
Trong đó, các câu hỏi được xây dựng để nhận biết các yếu tố ảnh hưởng
đe dọa tổn thương đến SKTT của học sinh từ phía nhà trường, gia đình, bạn bè
hay ngay chính bản thân của các em học sinh. Những đề xuất, kiến nghị và
nguyện vọng với nhà trường, gia đình nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả về
SKTT của các em học sinh trong trường.
6.2.3 Phương pháp phỏng vấn sâu:
Tiến hành gặp gỡ, trao đổi ý kiến với một số giáo viên, phụ huynh, học
sinh của trường về vấn đề chăm sóc sức khỏe tinh thần. Phỏng vấn phụ huynh,
tìm hiểu quan điểm của họ về vấn đề chăm sóc SKTT, ghi nhận những đóng góp,
tâm tư nguyện vọng của phụ huynh đối với nhà trường để con em họ được học
tập và sinh hoạt trong môi trường giáo dục thuận lợi để phát triển. Phỏng vấn
8
hiệu trưởng, hiệu phó, cán bộ nhân viên trong trường ( cán bộ y tế, văn thư ) để

tìm hiểu về vấn đề chăm sóc SKTT của học sinh trong trường.
6.2.4 Phương pháp phân tích và thống kê toán học.
7. Đóng góp khoa học của đề tài.
Về mặt lý luận:
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về chăm sóc sức khỏe tinh thần của
học sinh THPT.
Nghiên cứu thực trạng về sức khỏe tinh thần của học sinh trường THPT
Thuận Thành Số 1 dựa trên những lý luận về sức khỏe tinh thần trẻ em, tiếp thu
và phát huy cũng như triển khai vào thực tiễn.
Về mặt thực tiễn:
Cung cấp thực trạng vấn đề chăm sóc sức khỏe tinh thần của học sinh
THPT Thuận Thành Số 1- Bắc Ninh. Đánh giá hiệu quả, từ đó đề xuất biện pháp
hỗ trợ và đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao việc chăm sóc sức khỏe tinh thần của
học sinh.
Những nghiên cứu về thực trạng sẽ góp phần xây dựng những kế hoạch
và giải pháp nhằm nâng cao sức khỏe tinh thần cho trẻ em tại địa phương nói
riêng và trẻ em Việt Nam nói chung. Ngoài ra, những đóng góp của đề tài sẽ là
nguồn tư liệu hữu ích cho những nghiên cứu sau này tại địa phương.
8. Kết cấu của đề tài.
Đề tài gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung: Gồm 3 chương
+ Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
+ Chương 2: Thực trạng chăm sóc sức khỏe tinh thần của học sinh trường THPT
Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh.
9
+ Chương 3: Đề xuất một số biện pháp hỗ trợ của công tác xã hội đối với vấn đề
chăm sóc sức khỏe tinh thần của học sinh trường THPT Thuận Thành số 1 – Bắc
Ninh.
Phần kết luận và Khuyến nghị

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.
1.1. Cơ sở lý luận về vấn đề chăm sóc sức khỏe tinh thần trẻ em.
1.1.1. Khái niệm về sức khỏe.
Sức khỏe có nhiều định nghĩa khác nhau theo nhiều tổ chức khác nhau nhưng
trong đề tài này tôi sử dụng định nghĩa của Tổ chức y tế thế giới, cơ quan của
Liên Hợp Quốc, đặt tiêu chuẩn và cung cấp chương trình kiểm soát bệnh tật đã
định nghĩa sức khỏe là: “Tình trạng hoàn toàn thoải mái cả về thể chất, tinh thần
và các quan hệ xã hội chứ không phải đơn giản là tình trạng không có bệnh hay
ốm yếu.”[25].
1.1.2. Khái niệm sức khỏe tinh thần.
10
Nói về sức khỏe tinh thần (SKTT), nhiều người có thể hiểu khái niệm một
cách đại khái nhưng hiểu thuật ngữ SKTT như một phạm trù khoa học, thì chỉ có
những chuyên gia, nhà khoa học mới hiểu được đầy đủ về khái niệm vì SKTT là
một vấn đề rất phức tạp. Hiện nay, Tổ chức Sức Khỏe Thế Giới (World Health
Organization – viết tắt là WHO) cũng thừa nhận rằng cho đến nay vẫn chưa có
một định nghĩa chính thức nào về sức khỏe tinh thần. Theo giáo sư – viện sĩ (GS-
VS) Phạm Minh Hạc, nên phân tích cặp phạm trù “Thể chất – Tinh thần”, để
hiểu sâu sắc hơn về sức khỏe tinh thần. Thuật ngữ “tinh thần” là một bộ phận
vấn đề cơ bản trong triết học mà các nhà bác học từ xã xưa đã có nhiều công
trình nghiên cứu. Vấn đề quan hệ giữa tâm lý, tinh thần và cơ thể là một vấn đề
phức tạp nhất trong tâm lý học. Lý giải phạm trù này rất có ý nghĩa đối với vấn
đề sức khỏe tinh thần và đồng thời cần xem xét con người mà chúng ta nghiên
cứu ở cấp độ nào: Con người - cá thể, con người- cá nhân, con người nhân cách.
Sức khỏe tinh thần tiếng Anh là “Mental health, “Mental” trong từ điển Anh –
Việt[17] là: “Thuộc về tâm thần, tinh thần, tâm lý, trí tuệ; điên, mất trí”.Trong
các tài liệu tâm lý học bằng tiếng Anh không dùng chữ “spyche” tương đương
với chữ “tâm lý” trong tiếng Trung Quốc, Việt, Nga thường cùng là “mind”.
“Mind” trong từ điển có rất nhiều ý nghĩa, nghĩa thứ nhất là: “Khả năng hiểu biết
suy nghĩ: Tâm lý, trí tuệ”, nhiều nhà tâm lý thường dịch là “Tâm trí”. Chữ “Tâm

lý – cơ thể” trong tiếng Anh thường được viết là “Mind – body”. [24;37]. Người
ta thường nói, thân thể ở trong tâm trí hoặc một tâm hồn đẹp trong một thân thể
khỏe mạnh hoặc sự thống nhất giữa tinh thần và thể chất Chữ “Tinh thần” có
thể hiểu là tâm lý, tâm trạng, tâm thế, xúc cảm – tình cảm. Như vậy hiểu khái
niệm sức khỏe tinh thần một cách đơn giản đó là tâm trạng thoải mái, thanh thản,
vui vẻ “ăn ngon, ngủ yên”
Sức khỏe tinh thần là: “Tình trạng khỏe mạnh về nhận thức và xúc cảm,
không bệnh tật gì về tâm lý, biểu hiện khả năng của con người ham sống giữ
11
được sự cân bằng giữa các hoạt động và các cố gắng hồi phục”. GS.VS Phạm
Minh Hạch cho rằng, chúng ta nên sử dụng thuật ngữ “sức khỏe tinh thần” để
tương đương với thuật ngữ “Mental health” của thế giới. [25]
Sức mạnh của con người tập trung ở sức mạnh tinh thần, từ đó khi nói đến
sức khỏe con người trước hết phải kể đến sức khỏe tinh thần – sức khỏe trí tuệ,
đức độ tài năng và sáng tạo
Con người có sức khỏe tinh thần có nghĩa là: Sức khỏe ấy có thể tạo ra những
giá trị nhất định – linh hoạt để vượt qua những thách thức, thể hiện khác nhau
trong các hoàn cảnh khác nhau. Theo tác giả người Mỹ( Myers, Sweeny,
Witmer) sức khỏe tinh thần của con người thể hiện trong lĩnh vực tâm linh, làm
việc, nghỉ ngơi hoặc quan hệ bạn bè, yêu đương và định hướng cá nhân , thể hiện
trong các công việc như: Coi trọng giá trị, khả năng kiểm soát, kiểm tra, niềm
tin, xúc cảm; khả năng đương đầu trước những khó khăn, giải quyết vấn đề, tính
khôi hài, sự sáng tạo, ăn uống, luyện tập, khả năng điều khiển tình trạng căng
thẳng (stress), bản sắc giới, bản sắc văn hóa để có những kỹ năng giải quyết các
tình huống xảy ra trong xã hội, giữ một tinh thần khỏe mạnh.
Để có những biện pháp chăm sóc sức khỏe tinh thần tốt, giữ được một tinh
thần khỏe mạnh, lối sống lành mạnh chúng ta cần phải nghiên cứu ngược lại vấn
đề đó là tình trạng sức khỏe tinh thần không tốt, không khỏe mạnh trong đó có
các bệnh tâm thần.
Theo Tổ chức WHO (2002), sức khỏe tinh thần con người có thể ở một

trong hai trạng thái: Hoặc là sức khỏe tinh thần bình thường khi con người có sự
phát triển tâm lý cân bằng theo chuẩn mực chung đối với từng điều kiện, từng
môi trường sống và hoạt động sống khác nhau. Hoặc trạng thái tinh thần bị tổn
thương, phát triển tâm lý lệch lạc, không phù hợp với chuẩn mực chung, có
những rối loạn ở các mức độ khác nhau trong suy nghĩ, cảm xúc, hành vi và ứng
xử.
12
Một số chuyên gia ở Việt Nam có những nhận định về sức khỏe tinh thần.
[8];[7] “về thuật ngữ, lĩnh vực sức khỏe tinh thần trong tiếng Việt, người ta còn
gọi là sức khỏe tâm thần, muốn thống nhất vào đây cả “tâm” và “trí”. Theokhoa
học hiện đại chỉ ra rằng: Điều khiển cảm xúc, tư duy và hành vi là hệ thần
kinh còn thế giới bên ngoài và bên trong con người chia làm 2 phạm trù: Vật
chất và tinh thần, cho nên có thể gọi phần sức khỏe chúng ta đang bàn đến là sức
khỏe tinh thần .
TS. Bác sỹ Hoàng Cẩm Tú, giám đốc Trung tâm tham vấn tâm lý – giáo dục
sức khỏe tâm thần trẻ em và vị thành niên, nguyên chủ nhiệm Khoa Tâm Thần
bệnh học, bệnh viện Nhi Quốc Gia có nêu một số khái niệm liên quan đến sức
khỏe tinh thần.[21]
- Sức khỏe toàn diện có 3 thành phần: Sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh
thần (SKTT) và sức khỏe xã hội. Ba thành phần này quan hệ mật thiết với nhai
và có tác động qua lại lẫn nhau. Cơ thể bị tổn thương (tổn thương thể chất hoặc
bệnh thực thể) sẽ gây ra tâm trạng lo âu, bi quan, buồn phiền, cáu gắt, giảm hứng
thú…) tức là gây tổn hại đến sức khỏe tinh thần. Ngược lại khi trạng thái tâm lý
không thoải mái, sợ hãi, buồn phiền hoặc bị rối loạn tâm thần nặng … có thể kéo
theo những rối loạn cơ thể (rối loạn thực vật – nội tạng, giảm miễn dịch…) Như
vậy, trong sức khỏe của mỗi cá nhân đều có mặt sức khỏe tâm thần như một
thành phần chính yếu.[7;298]
-Sức khỏe tinh thần (SKTT): Là một trạng thái không chỉ không rối loạn
hay dị tật tinh thần, mà còn là trạng thái tinh thần hoàn toàn thoải mái trong cuộc
sống, cân bằng về tâm lý, có tâm trạng hợp hoàn cảnh, cân bằng về cảm xúc, hòa

hợp về các mối quan hệ gia đình xã hội, có cảm xúc tình cảm và hành vi ứng xử
phù hợp với nhu cầu của xã hội.
- Sức khỏe xã hội là trạng thái thể hiện khả năng hòa nhập của một cá thể
vào môi trường xã hội (gia đình, nhà trường, xã hội) và khả năng tác động nhằm
13
cải biến môi trường đó. Không hòa nhập được hoặc khó hòa nhập thể hiện sức
khỏe xã hội yếu, nếu hòa nhập dễ dàng, phát huy được khả năng đóng góp tích
cực để phát triển xã hội thì sức khỏe xã hội tốt. Nếu trạng thái xã hội ổn định,
kinh tế, chính trị, văn hóa ít xung đột, biến động giảm stress thì tạo ra sự thoải
mái, thuận lợi cho sự phát triển tiềm năng của từng cá thể. Ngược lại nếu xã hội
nhiều biến động, stress thì sức khỏe tinh thần của con người bị tổn thương.[21]
- Sức khỏe tinh thần và sức khỏe xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau
nên nhiều rối loạn tâm lý xã hội như nghiện hút, rượu, thuốc lá, rối loạn hành vi,
sự chống đối của thanh thiếu niên, các rối loạn liên quan đến stress. Các rối loạn
tâm lý, xã hội có liên quan đến tình hình kinh tế - xã hội, ổn định chính trị và an
toàn xã hội. Vì vậy hiện nay, chính phủ nhiều nước trên thế giới quan tâm đặc
biệt đến sức khỏe tinh thần và có những chính sách quốc gia đặc biệt về vấn đề
sức khỏe tinh thần.
Theo TS. Nguyễn Thị Thanh Bình trường Đại Học Sư Phạm TP.HCM đã viết
trong bài tham luận( 2007): “Sức khỏe tinh thần là sự hòa hợp giữa trạng thái
khỏe mạnh về thể chất và tình cảm, là trạng thái tâm lý ổn định và vui vẻ của con
người”.
Theo Anderson,(1994): “Sức khỏe tinh thần là khả năng đương đầu và thích
ứng với những căng thẳng của cuộc sống theo một cách có thể chấp nhận được”.
Đánh giá về vấn đề chăm sóc sức khỏe tinh thần ở Việt Nam hiện nay, PGS.TS.
Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho biết: “Hiện nay, công tác chăm sóc sức khỏe tinh thần ở
nước ta chủ yếu do các bác sỹ tâm thần đảm nhiệm. Nhưng thực tế thì việc thâm
nhập của các bác sỹ vào các hệ thống trường học là vô cùng khó khăn và đội ngũ
cán bộ tâm thần cũng đang rất thiếu. Thực tế ở Việt Nam thì các bác sỹ chỉ can
thiệp khi đã có bệnh và chưa có biện pháp phòng ngừa.[4]

14
Quan niệm về sức khỏe tinh thần trẻ em ngày nay được xem là một thể liên
tục từ phát triển tâm lý bình thường về các mặt đến bất thường bệnh lý, từ nhẹ
đến nặng, có tính chất nhất thời hay kéo dài bao gồm các trạng thái:
- SKTT tốt: Đạt các mốc phát triển tâm lý trong giai đoạn lứa tuổi mình
mà không có biểu hiện tâm lý nào lệch lạc.
- SKTT bị tổn thương: Không chỉ bó hẹp ở một tỷ lệ nhỏ của các rối loạn
tâm thần (10- 20 %) như những bệnh nhân tâm thần nặng, mãn tính hoặc khuyết
tật về tâm thần, mà còn bao gồm các trạng thái không thoải mái tâm lý do căng
thẳng bởi các stress tâm lý từ môi trường sống, gia đình, trường học, cộng đồng
xã hội…như rối loạn ngủ, biếng ăn, mệt mỏi, học giảm sút, mất hứng thú, ngại
giao tiếp, lo sợ dẫn đến hành vi chống đối.
Như vậy sức khỏe tinh thần của một người được đánh giá là tốt bao gồm:
+ Có cảm giác sống thực sự thoải mái, tin vào giá trị của bản thân và phẩm
chất, giá trị của người khác.
+ Có khả năng kiểm soát được cảm xúc tình cảm, nhận thức hành vi, ứng
xử để vượt qua mọi thử thách của cuộc sống.
+ Có khả năng tạo dựng cuộc sống, phát triển và duy trì các mối quan hệ
xã hội, có thể tự hàn gắn sau những rối loạn tâm lý, stress [8]
Hiện nay xã hội ngày càng phát triển, áp lực cuộc sống khiến cho con
người muốn được giải tỏa nhiều những vấn đề trong xã hội mà bản thân không
đáp ứng được. Sự giao lưu văn hóa ngày càng rộng rãi khiến cho một số quan
niệm, tập quán thay đổi. Điều đó càng đòi hỏi vấn đề chăm sóc sức khỏe tinh
thần trở nên cần thiết hơn trong xã hội hiện nay.
Công tác nghiên cứu giúp chúng ta có thể xác định chính xác những biểu
hiện tổn thương sức khỏe tinh thần và tìm các biểu hiện đó, xác định những
nguyên nhân, những bất thường về SKTT.
15
Những cuộc khảo sát nghiên cứu cho thấy những con số đáng lo ngại về
tình trạng SKTT trẻ em Việt Nam và trên thế giới. Tiến hành ở Biên Hòa năm

2000 có 10- 24 % tỷ lệ trẻ em bị tổn thương SKTT. Điều tra của Viện Nhi Quốc
Gia tại Hà Nội con số là 20- 30 %. Những con số này đặt ra cho chúng ta những
thách thức cần phải có những biện pháp bảo vệ và chăm sóc SKTT trẻ em hợp lý
và kịp thời.[3;67].[7;296]
1.1.3. Khái niệm chăm sóc sức khỏe tinh thần trẻ em.
Nói đến chăm sóc sức khỏe tinh thần trẻ em thì chưa có một định nghĩa
nào rõ ràng cụ thể và chi tiết cho vấn đề này.
Tuy nhiên theo quan điểm của cá nhân tôi cho rằng: Chăm sóc sức khỏe
tinh thần trẻ em có nghĩa là cung cấp những kỹ năng, những biện pháp chăm sóc
sức khỏe cho trẻ, giúp đỡ, can thiệp kịp thời, cũng như đẩy mạnh công tác phòng
ngừa để giúp cho trẻ có thể đương đầu với những rối loạn, lo âu, stresss trong
cuộc sống , học tập và các vấn đề của xã hội để các em có thể vượt qua những
thử thách, có một cuộc sống tinh thần lành mạnh và tích cực.
Để vấn đề chăm sóc sức khỏe tinh thần trẻ em đạt hiệu quả cao nhất cần
có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội định
hướng, quan tâm đúng mức… tạo cho trẻ môi trường sống vui vẻ, lành mạnh để
có thể phát triển đầy đủ về mặt thể chất và tinh thần. Trẻ em là tương lai của đất
nước cần có những chăm sóc kịp thời về sức khỏe tinh thần cho trẻ hơn nữa.
Muốn hiểu về công tác chăm sóc sức khỏe tinh thần trẻ em chúng ta phải tìm
hiểu đặc điểm tâm sinh lý của các em.
1.1.4. Khái niệm Công tác xã hội
CTXH là hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện dựa trên nền tảng khoa
học chuyên ngành nhằm hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội (cá nhân, nhóm, cộng
đồng) giải quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh, vươn lên hòa nhập xã hội
theo hướng tích cực, bền vững. [11;tr.46].
16
Các phương pháp CTXH cơ bản:
+ CTXH với cá nhân: Là quá trình và là một phương pháp tác động đến cá
nhân có vấn đề xã hội (bị mất hoặc yếu về chức năng xã hội), giúp cá nhân tự
nhận ra vấn đề của bản thân, củng cố, khôi phục và phát huy năng lực của bản

thân để có thể tự giải quyết được vấn đề của mình trong tình huống, nghĩa là giải
quyết vấn đề cá nhân trong mối quan hệ tương tác với môi trường của cá nhân
đó. [11;138]
+ CTXH nhóm: Là một phương pháp của CTXH nhằm tạo dựng và phát
huy sư tương tác, chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực giữa các thành viên, giúp củng
cố, tăng cường chức năng xã hội và khả năng giải quyết vấn đề, thỏa mãn nhu
cầu của nhóm. Thông qua sinh hoạt nhóm, mỗi cá nhân hòa nhập, phát huy tiềm
năng, thay đổi thái độ, hành vi và khả năng đương đầu với nan đề của cuộc
sống, tự lực và hợp tác giải quyết vấn đề đặt ra vì mục tiêu cải thiện hoàn cảnh
một cách tích cực. [11;182]
+ Tổ chức và phát triển cộng đồng: Phát triển cộng đồng là một tiến trình
làm chuyển biến từ cộng đồng nghèo, thiếu tự tin thành cộng đồng tự lực thông
qua việc giáo dục giúp người dân trong cộng đồng nhận thức rõ tình hình, vấn đề
hiện tại của họ, phát huy các khả năng và tài nguyên sẵn có của họ, tổ chức các
hoạt động chung tự giúp, bồi dưỡng và củng cố tổ chức, mở rộng các mối liên
kết tiến tới tự lực phát triển.
1.1.5. Khái niệm nhân viên công tác xã hội.
Xuất phát từ nhiều cách quan niệm, cách hiểu về CTXH nên cũng có nhiều
cách gọi khác nhau về người làm CTXH. Sự đa dạng trong các hoạt động xã hộ
là cơ sở dẫn đến sự phong phú của việc nhận diện người làm CTXH. Từ khi
CTXH chuyên nghiệp ra đời, người ta mới thực sự chú ý đến khái niệm NVXH.
Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới, người làm CTXH được gọi với
những tên gọi khác nhau như: NVXH, cán sự xã hội, cán bộ xã hội, nhân viên
17
CTXH, cán bộ làm CTXH…Dù cách gọi tên như thế nào thì người làm CTXH
chuyên nghiệp phải là những người được đào tạo chuyên nghiệp và trong quá
trình thực hành tác nghiệp phải dựa trên nền tảng lý thuyết, hệ thống kiến thức
khoa học được trang bị và sử dụng phương pháp, kỹ năng chuyên nghiệp của
nghề nghiệp chuyên môn CTXH.
Ở Việt Nam, người làm CTXH được biết đến phổ biến muộn hơn (từ sau

năm 2000), nhưng tương đối thống nhất với tên gọi NVCTXH và gọi tắt là
NVXH (social worker).
NVXH là những người có trình độ chuyên môn, được trang bị kiến thức,
kỹ năng về CTXH chuyên nghiệp và sử dụng kiến thức, kỹ năng đó trong quá
trình tác nghiệp trợ giúp đối tượng (cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng) có vấn
đề xã hội giải quyết vấn đề gặp phải, vươn lên trong cuộc sống.[11;102]
1.1.6. Một số học thuyết nền tảng trong lĩnh vực sức khỏe tinh thần trẻ em.
- Thuyết phân tâm của S. Freud [10;45]
Sigmund Freud là cha đẻ của phân tâm cổ điển, nhấn mạnh nhiều đến các
ham muốn, tính dục quan tâm đến việc khám phá động lực, các khuynh hướng
cơ bản, nguồn động cơ khởi đầu của hành vi con người.
Thông qua quá trình làm việc lâm sàng với những bệnh nhân phải trải qua
những bệnh về tâm thần, Freud cho rằng những trải nghiệm thời thơ ấu và những
khát vọng, mong muốn vô thức có ảnh hưởng đến hành vi. Dựa trên quan sát,
ông đã phát triển một thuyết miêu tả sự phát triển theo từng giai đoạn về mặt tâm
sinh lý. Theo Freud, những mâu thuẫn nảy sinh trong mỗi giai đoạn có thể ảnh
hưởng đến nhân cách và hành vi.
Nội dung cơ bản trong thuyết của Freud trong lĩnh vực SKTT:
+ Bản năng, bản ngã và siêu ngã.
+ Xung đột nội tâm.
+ Sự phát triển tâm lý qua các giai đoạn.
+ Cơ chế phòng vệ.
+ Liên tưởng tự do.
18
+Sự chuyển dịch.
- Thuyết tâm lý – xã hội của E.erickson.[10;tr.46]
Mô hình của E.erickson tập trung vào các giai đoạn phát triển tâm lý xã
hội, song song với các giai đoạn phát triển tâm lý tính dục của Freud. Mỗi giai
đoạn biểu hiện một khủng hoảng, một giải pháp làm cá thể đó đứng trên quỹ đạo
phát triển đặc trưng trong giai đoạn.

Ý nghĩa của thuyết về sự phát triển của trẻ em:
+ Cho cái nhìn tổng quát về sự phát triển về cái tôi và những khả
năng tương tác xã hội của trẻ trong suốt thời thơ ấu.
+ Xác định những thời kỳ, giai đoạn chính mà trẻ học được về bản
thân và cách tương tác với người khác.
+ Chỉ ra những nhân tố môi trường cần thiết cho trẻ để phát triển
phù hợp.
+ Cung cấp một cách để phân tích lý do tại sao trẻ em không phát
triển được ở mỗi giai đoạn.
Các giai đoạn khủng hoảng trong thuyết về sự phát triển của trẻ em:
+ Trẻ nhỏ - Khủng hoảng về tin tưởng – không tin tưởng.
+ Trẻ đã biết đi biết nói – Khủng hoảng về phụ thuộc tự lập.
+Trẻ tuổi đi học – Khủng hoảng về năng lực – sự thấp kém.
+ Thanh thiếu niên - Khủng hoảng hòa nhập cái tôi – không có thời
thơ ấu.
Các tổn hại xảy ra cho trẻ em theo thuyết:
+ Tổn hại xảy ra nếu các em không thể hoàn thành nhiêm vụ ở mỗi
giai đoạn khủng hoảng một cách tích cực.
+ Tổn hại xẩy ra khi các em không tiến lên được các giai đoạn tiếp
theo.
+ Tổn hại nếu các em tiến đến giai đoạn tiếp theo với những giải
pháp tiêu cực, điều này dẫn đến các giai đoạn sau cũng bị giải quyết như
vậy.
- Thuyết gắn bó [10;48]
19
Học thuyết gắn bó xuất phát từ Bowlly (1982) ông là người quan tâm đến
mặt tập tính học trên hành vi con người. Bowlly cho rằng khi đặt trong môi
trường có sự giúp đỡ trẻ có khả năng đáp ứng để duy trì sự tiếp xúc gần gũi, trẻ
được an toàn, ăn uống, cuối cùng là sống còn. Vì thế mục đích được xác định là
duy trì sự gắn bó, gần gũi với người chăm sóc. Hành vi của trẻ được tổ chức

xung quanh mục tiêu này và được thiết kế nhằm gia tăng khả năng có thể xảy ra
để có mối quan hệ với người chăm sóc là mối quan hệ khỏe mạnh. Hệ thống gắn
bó được hoạt hóa bởi sự khó chịu dưới các dạng các nhu cầu bên trong như đói
hay các yếu tố gây stress bên ngoài như sự nguy hiểm.
Hai kiểu chăm sóc tạo nguy cơ cho trẻ gắn bó lẩn tránh:
+ Bố mẹ không kiên nhẫn với con, hay thể hiện những tình cảm khó chịu
với con và không thích thú khi ở bên chúng. Ainsworth cho rằng những bà mẹ
này có tính cứng nhắc và chỉ quan tâm đến bản thân mình và có vể không chấp
nhận con mình.
+ Kiểu chăm sóc thứ hai là quá nhiệt tình với con, vô tình tạo nên áp lực.
Vì thế cần có sự chăm sóc phù hợp để trẻ có thể phát triển khỏe mạnh.
1.1.7. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em giai đoạn đầu thanh niên (15-18 tuổi)
Sự phát triển về mặt sinh lý:
Ở giai đoạn này sự phát triển về mặt tâm lý bước vào giai đoạn ổn định, chấm
dứt thời kỳ dữ dội, mất cân bằng ở lứa tuổi thiếu niên. Cơ thể của cả nam và nữ
đề gần đạt đến mức tuổi trưởng thành cụ thể:
Nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Các tố chất thể
lực như sức mạnh, sức bền, sự dẻo dai được tăng cường. Sức mạnh cơ bắp được
tăng rất nhanh. Ví dụ lực cơ em trai 16 tuổi vượt lên gấp 2 lần với lực cơ của em
lúc 12 tuổi.
Về hệ thần kinh: Cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh phức tạp hơn lứa tuổi
trước mặc dù trọng lượng não tăng không đáng kể, các dây thần kinh liên hợp
20
tăng nhanh làm cho chức năng của não phát triển. Do đó, tư duy ngôn ngữ và
phẩm chất ý chí có điều kiện phát triển.
Về mặt giới tính: Đa số các em đã qua thời kỳ dậy thì phần lớn dấu hiệu giới
tính phụ đã phát triển rõ rệt làm cho cơ thể các em được thay đổi rõ ràng. Chấm
dứt giai đoạn khủng hoảng của thời kỳ phát dục chuyển sang thời kỳ ổn định, cân
bằng hơn.
Quá trình dậy thì: Ở các em có thể có có thể không giống nhau, có những

trường hợp phát dục sớm nhưng kéo dài làm cho các em vẫn giữ nguyên hình
dáng thể chất lứa tuổi thiếu niên.
Sự phát triển về mặt xã hội:
Tuổi đầu thanh niên có vị trí hoàn toàn mới mẻ so với lứa tuổi thiếu niên kể
cả trong gia đình, nhà trường và xã hội. Do đó, sự tác động của môi trường đến
các em cũng khác so với những lứa tuổi trước.
Ở gia đình, giai đoạn này có nhiều quyền lợi và trách nhiệm của người lớn,
cha mẹ bắt đầu trao đổi với các em về một số vấn đề trong gia đình và các em
cũng quan tâm đến những sinh hoạt trong gia đình.
Ngày nay vị trí giáo dục của gia đình đối với lứa tuổi này cũng khác xưa.
Nhân cách của các em hình thành dưới nhiều yếu tố khác nhau.Hiện nay sự phát
triển của phương tiện thông tin đại chúng mà hiểu biết của các em ngày càng
tăng lên.Vì thế các em dễ thấy được những hạn chế của cha mẹ, thầy cô về khả
năng hiểu. Do đó uy tín của cha mẹ thường bị lung lay, hoài nghi hơn.
Giai đoạn này không chịu được sự bảo trợ phiền toái của cha mẹ nhưng các
em cần sự hỗ trợ khi lựa chọn nghề nghiệp, giá trị đạo đức. Tóm lại, trong gia
đình cương vị của các em trong lứa tuổi này được nâng cao rõ rệt các em thấy
trách nhiệm của mình với gia đình.
Ở nhà trường, các em ở lứa tuổi này có ý thức rằng mình đang đứng trước
ngưỡng cửa cuộc đời, nên có ý thức tự giác học tập và sinh hoạt tăng lên. Nhà
21
trường có một vị trí đặc biệt đối với sự hình thành và phát triển tâm lý ở lứa tuổi
này. Chính vì thế hoạt đông học tập mang lại ý nghĩ sống trực tiếp .
Ngoài xã hội thì hoạt động giao tiếp xã hội của lứa tuổi này được đẩy mạnh
và hứng thú xã hội ngày càng được đẩy mạnh. Xã hội có vai trò thay đổi cơ bản
các em ở lứa tuổi đầu thanh niên: Vai trò độc lập với trách nhiệm gia đình, ý
thức lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
Quyền lợi xã hội, các em có khả năng tham gia công tác xã hội như: Thông
tin, tuyên truyền
Tuổi đầu thanh niên có hình dang người lớn nhưng chưa phải người lớn vẫn

phụ thuộc vào cha mẹ vật chất, các em vẫn đến trường dưới sự hướng dẫn của
người lớn. Vị trí của các em ở lứa tuổi này có tính chất không xác định.
Nhìn chung, cơ thể tuổi đầu thanh niên phát triển đã có thể sánh với người
lớn vì vậy cần người lớn phải có yêu cầu nhất định, thái độ nghiêm túc, tôn trọng
các em phải quan tâm, giúp đỡ các em trong cuộc sống.
- Đặc điểm tâm lý cơ bản nhất tuổi đầu thanh niên:
Sự phát triển các quá trình nhận thức:
Tính chủ định với các quá trình nhận thức ở giai đoạn này tăng lên, đến cuối
giai đoạn này các em hoàn làm chủ được nhận thức của mình.
Thời điểm này có độ nhạy cảm về tri giác nhìn và nghe. Quan sát trở nên có
mục đích và toàn diện hơn. Tuy nhiên do thiếu kỹ năng quan sát nên còn hơi vội
vàng rút ra kết luận khi chưa đủ dẫn chứng cần thiết.
Về mặt trí nhớ có logic, ghi nhớ có chủ định phát triển mạnh, giữ vai trò chủ
đạo trong hoạt động nhận thức. Các em biết đưa ra ý kiến của mình, sắp xếp tài
liệu học tập theo trình tự logic, vận dụng liên tưởng để ghi nhớ một cách khoa
học. Một số em còn ghi nhớ đại khái, chung chung…
Ở giai đoạn này các em có khả năng tư duy lý luận, chặt chẽ hơn, có căn cứ
hơn. Những tư duy đó giúp các em thực hiện thao tác tư duy toán học phức tạp,
22
phân tích nội dung cơ bản của khái niệm là điều kiện cơ bản hình thành thế giới
quan. Tuy nhiên, hoạt động tư duy còn hạn chế do các em thiếu tính độc lập và
sáng ta, chưa chú ý phát huy hết khả năng của bản thân mình, còn kết luận vội
vàng theo cảm tính.Tưởng tượng và sáng tạo đều phát triển song tính sáng tạo
phát triển hơn nhưng xa rời thực tiễn.
Sự phát triển nhu cầu:
Nhu cầu giao tiếp: Quan hệ bạn bè chiếm vị trí lớn hẳn so với quan hệ với
người lớn tuổi và ít tuổi hơn mình. Điều này thể hiện lòng khát khao có vị trí
bình đẳng trong cuộc sống, thay dần quan hệ dựa dẫm, phụ thuộc cha mẹ bằng
quan hệ bình đẳng.
Trong hoàn cảnh giao tiếp tự do, sở thích các em hướng đến bạn bè nhiều

hơn là cha mẹ. Nhưng khi bàn đến những giá trị đạo đức sâu sắc, những định
hướng nghề nghiệp thì ảnh hưởng của cha mẹ rất lớn. Sự mở rộng của quan hệ
bạn bè, sự phức tạp hóa hoạt động riêng khiến cho số lượng nhóm tăng lên rõ rệt
và có thể xung đột nhóm nếu cá nhân lựa chọn vai trò khác nhau ở nhóm.
Nhu cầu xác định vị trí xã hội:
Đây là sự biểu hiện của nhu cầu tự khẳng định, các em đòi hỏi quyền lợi,
nghĩa vụ xã hội của mình.
Các em quan tâm nhiều hơn đến tình hình kinh tế, chính trị xã hội trên thế
giới và trong nước, có sự đánh giá và trao đổi lẫn nhau và tỏ thái độ về các vấn
đề đó.
Sẵn sàng tham gia các hoạt động xã hội phù hợp với hứng thú và sở trường
của mình. Tâm lý chung là muốn tham gia vào những công việc lớn để thử sức
của mình, thậm chí là những công việc khó khăn, nguy hiểm.
Với mong muốn xác định vị trí xã hội của mình, các em cần cố gắng không
ngừng để nhận được sự tôn trọng và tin tưởng của người lớn.
Đời sống tình cảm:
23
Đời sống tình cảm xúc cảm của lứa tuổi này rất phong phú và đa dạng. Điều
đó được quy định bởi những mối quan hệ giao tiếp ngày cành được mở rộng
phạm vi và đặc biệt phát triển về chất lượng. Trong đó nổi bật nhất là mức độ
bình đẳng, độc lập trong giao tiếp với người lớn và bạn bè cùng trang lứa.
Tình bạn ở giai đoạn này đã có cơ sở, lý trí, sự bền vững hơn lứa tuổi thiếu niên.
Việc chọn bạn xem xét một cách có căn cứ, sự đồng cảm, lối sống. Nhu cầu về
tình bạn tăng lên.
Đối với cha mẹ các em thường thể hiện tình cảm tự lập. Các em cho rằng
người lớn thường đánh giá không đúng đắn, nghiêm túc nhứng điều mà các em
suy nghĩ các việc các em làm nên thường có xu hướng xa lánh mà tìm sự đồng
cảm ở bạn bè cùng lứa tuổi.
Có sự phân hóa tình cảm ở mức độ cao, có ý thức rõ rệt về ranh giới, phạm vi,
nội dung của mỗi loại tình cảm. Một loại tình cảm đặc trưng ở giai đoạn này

chính là tình yêu nam nữ. Dễ quan sát được những biểu hiện của sự phải lòng
nhau, thậm chí xuất hiện những mối tình đầu đầy lãng mạn. Nhưng biểu hiện của
loại tình cảm này rất phức tạp, không đồng đều. Điều này không chỉ phụ thuộc
vào yếu tố phát dục mà còn phụ thuộc vào kế hoạch đường đời, điều kiện giáo
dục của gia đình, nhà trường và xã hội.
Sự phát triển nhân cách:
Sự phát triển của tự ý thức:
Đây là đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách lứa tuổi đầu thanh niên,
nó có ý nghĩa to lớn với sự phát triển tâm lý lứa tuổi. Quá trình này rất phong
phú và phức tạp. Lứa tuổi này quá trình phát triển tự ý thức diễn ra mạnh mẽ và
sôi nổi có tính chất đặc thù riêng. Đặc điểm quan trọng của tự ý thức đó là tự ý
thức xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống và hoạt động địa vị mới mẻ, nhưng quan
hệ mới với thế giới mới xung quanh cuộc sống buộc các em phải tự ý thức những
đặc điểm nhân cách của mình.
24
Các em không chỉ nhận thức được cái tôi của mình trong hiện tại mà còn
nhận thức được vị trí của mình trong tương lai
Từ sự ý thức phát triển mà sự tự đánh giá ở lứa tuổi này khá phát triển, các
em đánh giá sâu sắc mặt mạnh, mặt yếu của vấn đề. Tuy nhiên sự đánh giá của
các em dễ có xu hướng cường điệu hóa. Vì vậy, cần đến sự giúp đỡ các em một
cách khéo léo để hình thành một biểu tượng khách quan về nhân cách của mình.
Sự hình thành thế giới quan:
Lứa tuổi đầu thanh niên là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới quan
hệ thống quan điểm về trật tự xã hội, nguyên tắc ứng xử và định hướng giá trị
con người.
Ở tuổi này, sự phát triển điều kiện về mặt trí tuệ, nhân cách, xã hội để xây
dựng một hệ thống quan điểm đã được hình thành. Các em cô gắng xây dựng
quan điểm trong lĩnh vưc khoa học với vấn đề xã hội. Chính nội dung các môn
học ở trường giúp các em xây dựng được thế giới quan tích cực về tự nhiên và xã
hội.

Tuy nhiên một số em chưa được giáo dục đầy đủ về thế giới quan. Thế giới
quan của các em còn chịu tác động của nhiều yếu tố tiêu cực như say mê văn
hóa không lành mạnh, đánh giá cao cuộc sống hưởng thụ
Hình thành kế hoạch cuộc đời và lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai:
Ở lứa tuổi này tính chất hình thành cuộc đời trở nên cấp bách hơn. Trong kế
hoạch đó các em không chỉ xác định cho mình mục tiêu hướng đến tương lai mà
còn tìm kiếm biện pháp để thực hiện mục tiêu ấy. Sự lựa chọn nghề nghiệp là
vấn đề quan trọng trong kế hoạch tương lai của các em. Sự lựa chọn nghề là khó
nhưng phần lớn các em hiểu được mình không thể phụ thuộc vào gia đình. Đa số
các em chưa thấy được tiềm năng của bản thân ít hiểu biết về nghề hấp dẫn nên
đề cao vai trò lao động trí óc hơn là lao động nghề Do đó, tâm thế không thi đỗ
làm các em rơi vào tình trạng bi quan, chán nản.
25

×