Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Thực trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở huyện hương khê – tỉnh hà tĩnh và đề xuất một số biện pháp hỗ trợ của CTXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.38 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

1


LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản
xuất mang tính xã hội hoá ngày càng cao, các lĩnh vực của đời sống xã hội đều
rất phát triển như kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học- kỹ thuật…Sự phát triển
đó đều xuất phát từ việc thoả mãn nhu cầu của con người, hay nói cách khác con
người là trung tâm của sự phát triển xã hội. Trên thế giới hiện nay, phụ nữ chiếm
gần nửa dân số, là một lực lượng lao động to lớn, góp phần rất quan trọng vào
việc xây dựng gia đình và đất nước, thúc đẩy sự tiến bộ và phồn vinh trên trái
đất. Tuy nhiên, chưa ở nước nào phụ nữ thực sự được hoàn toàn bình đẳng, chị
em vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới và ở nhiều nơi phụ nữ vẫn còn
bị áp bức, bóc lột nặng nề.
Chính vì vậy, bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, triệt để là lý tưởng mà
nhân loại đã theo đuổi hàng nhiều thế kỷ. Đầu thế kỷ XIX, nhà tư tưởng xã hội
chủ nghĩa không tưởng Pháp S.Phuriê đã cho rằng: Trình độ giải phóng phụ nữ
là thước đo trình độ phát triển của xã hội. Luận điểm này tiếp tục được khẳng
định trong học thuyết Mác ngay từ khi nó ra đời và phát triển ở trình độ mới cao
hơn trong các giai đoạn tiếp theo. Những quan điểm trên đã cổ vũ cho nhiều
phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng giữa nam và nữ, trở thành một trong
những mục tiêu phấn đấu của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Phải nói rằng đây là một thực trạng đã và đang diễn ra mang tính toàn cầu,
trong đó Việt Nam không phải là ngoại lệ. Bộ văn hoá, thể thao và du lịch Việt
Nam đã chỉ ra một trong năm tồn tại yếu kém của ngành năm 2008, đó là: tình
trạng bạo lực gia đình, bạo lực đối với người già, phụ nữ và trẻ em gây nhức
nhối công luận ( theo báo thể thao hàng ngày số ra ngày 25/12/2008). Có thể nói
vấn đề đấu tranh giải phóng cho phụ nữ là một trong những vấn đề vô cùng quan
trọng không những đối với xẫ hội mà nó còn là vấn đề bức xúc trong gia đình


Việt Nam nói chung và gia đình ở huyện Hương Khê nói riêng
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có tốt thì xã hội mới ổn định và phát
triển. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì điều quan trọng nhất là
phải thấy được vị trí, vai trò của gia đình và có những biện pháp hữu hiệu để
2


ngăn chặn những yếu tố trực tiếp tác động đến sự bền vững của gia đình. Trong
đó bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một nội dung quan trọng mà chủ nghĩa xã
hội cần quan tâm nghiên cứu.
Đặc biệt ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề này
phải được quan tâm, nghiên cứu để đưa ra giải pháp khắc phục triệt để tận gốc rễ
sâu xa của nó. Phải đi vào nghiên cứu thực trạng ở từng cơ sở, địa phương, để
đưa ra giải pháp phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Hương Khê là một
huyện miền núi, hiện nay đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở đây
ngày càng được nâng cao nhưng mặt bằng dân trí vẫn còn thấp và phát triển
không đều. Nhiều quan niệm, tư tưởng phong kiến, nhất là tư tưởng “ trọng nam
khinh nữ” vẫn chưa được xoá bỏ. Họ vẫn phải chịu thiệt thòi cả về mặt vật chất
lẫn tinh thần, vẫn phải chịu sự bất bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội và trong gia đình. Đặc biệt là tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ
nữ đang gây nhiều bức xúc trong huyện Hương Khê.
Và công tác xã hội trong công tác phòng chống bạo lực gia đình đang là
một đòi hỏi cấp thiết trong xã hội hiện nay. Vai trò của nhân viên công tác xã hội
rất quan trọng và cần thiết,họ là những người giúp chị em phụ nữ giải gỡ, chia sẻ
những khó khan trong cuộc sống, đồng thời cũng là cầu nối giữa chị em đến với
xã hội, cộng đồng, gia đình.
Từ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn trên, em chọn đề tài: “Thực trạng bạo
lực gia đình đối với phụ nữ ở huyện Hương Khê – tỉnh Hà Tĩnh và đề xuất
một số biện pháp hỗ trợ của CTXH” làm đề tài nghiên cứu. Qua đó giải phóng
phụ nữ tiến tới bình đẳng nam nữ, xoá bỏ tình trạng bạo lực đối với phụ nữ trong

gia đình ở huyện Hương Khê, góp phần vào công cuộc phòng chống bạo lực gia
đình trong cả nước.

3


NỘI DUNG CHÍNH
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận về vấn đề bạo lực gia đình đối với phụ nữ
1.1. Khái niệm bình đẳng giới và bất bình đẳng giới
• Khái niệm bình đẳng giới”
Bình đẳng giới là khái niệm biểu đạt sự đối xử như nhau của xã hội giữa
nam và nữ ; là trạng thái xã hội trong đó phụ nữ và nam giới có vị trí như nhau,
có các cơ hội như nhau để phát triển đầy đủ tiềm năng của mình. Luật bình đẳng
giới (2007) có viết “Bình đẳng giới là việc nam nữ, có vị trí vai trò ngang nhau,
được tạo điều kiện và cơ hội như nhau để phát huy năng lực của mình cho sự
phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về để phát triển
đầy đủ về thành quả của sự phát triển đó”
• Khái niệm bất bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt giữa nam và nữ dựa trên cơ sở
giới tính làm dẫn đến: cơ hội khác nhau; sự tham gia khác nhau; tiếp cận và
kiểm soát các nguồn lực khác nhau; thụ hưởng khác nhau.
Những sự khác nhau này thể hiện trên cả lĩnh vực giáo dục, lao động – việc
làm, chính trị, chăm sóc sức khỏe và công việc gia đình.
1.2. Khái niệm cơ bản về bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình (BLGĐ) là hành vi cố ý của thành viên gây tổn hại hoặc
có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kunh tế đối với các thành viên
khác trong gia đình ( theo điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007)
1.3. Các dạng bạo lực gia đình.
- Bạo lực về tinh thần

- Bạo lực về tình dục
- Bạo lực về kinh tế
1.4. Nguyên nhân và hậu quả của bạo lực gia đình
a) Nguyên nhân của bạo lực gia đình
- Nguyên nhân gốc rễ của bạo lực gia đình là bất bình đẳng giới. Sự bất bình đẳng
về quyền lợi giữa nam và nữ cùng các khuôn mẫu giới, định kiến đã làm bạo lực
xảy ra và tiếp tục duy trì. Bên cạnh đó, tư tưởng trọng nam khinh nữ khiến cho
4


một bộ phận nam giới tự cho phép mình được bạo lực với phụ nữ, còn người
phụ nữ thì chấp nhận và cam chịu hành vi bạo lực của chồng.
- Giáo dục: trẻ em chịu ảnh hưởng của trực tiếp từ chính gia đình mình về những
quan niệm, hành vi bạo lực của người cha và cam chịu của người mẹ.
- Việc thực thi pháp luật liên quan đến vấn đề bạo lực gia đình chưa hiệu quả.
- Dư luận xã hội, cộng đồng chưa có nhận thức đầy đủ và ở mức độ nào đó còn
chấp nhận bạo lực đối với phụ nữ.
Bạo lực gia đình có thể xuất phát từ các yếu tố sau:
+ Yếu tố nhận thức, quan điểm, văn hóa
+ Yếu tố kinh tế
+ Yếu tố luật pháp
+ Yếu tố chính trị
b) Hậu quả của bạo lực gia đình
Hậu quả đối với nạn nhân BLGĐ
- Về sức khỏe thể chất: Sức khỏe bị hủy hoại, thương tích đau đớn, có thể bị
khuyết tật suốt đời, thậm chí dẫn đến tử vong.
- Về sức khỏe tinh thần: Luôn ám ảnh bị bạo lực; chán nản, buồn rầu, lo lắng, sợ
hãi, mất tự tin, hoang mang, trầm cảm; cảm thấy cuộc sống nặng nề, căng thẳng
và tuyệt vọng.
- Về sức khỏe sinh sản: Mang thai ngoài ý muốn, thai nhi suy dinh dưỡng, sẩy

thai, đẻ non, lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV.
Hậu quả đối với người gây bạo lực gia đình
- Phá hỏng mối quan hệ vợ - chồng, cha mẹ - con cái, ông bà-cháu, cảm thấy cô
đơn ngay trong gia đình.
- Phải đóng tiền nộp phạt vi phạm hành chính khi gây ra bạo lực gia đình.
- Bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng với nạn nhân.
Hậu quả với trẻ em
- Với trẻ nhỏ dưới 5 tuổi: Khóc nhiều, suy dinh dưỡng, chậm lớn, chậm phát triển
trí tuệ, e ngại khi tiếp xúc với người lạ.
- Với trẻ trong độ tuổi trước vị thành niên: thiếu tập trung và không có khả năng
chơi tích cực; vụng về, lóng ngóng và hay gây rối; tránh va chạm và dễ chiều
theo ý người khác; mất hứng thú với các hoạt động xã hội và giảm năng lực xã
hội; lẩn tránh các mối quan hệ với các bạn cùng lứa tuổi.
- Với trẻ vị thành niên: học kém, bỏ học, phạm tội, uống rượu, hút thuốc lá và
nghiện ma túy; thiếu tin tưởng vào người lớn; bỏ đi khỏi nhà; có thể có các hành
5


vi bạo lực như người lớn; chán nản và có ý nghĩ tự tử; thậm chí tự tử.
Hậu quả đối với gia đình
- Li thân, li hôn. Tốn tiền chữa trị và phục hồi sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh
thần cho nạn nhân và người chứng kiến bạo lực gia đình.
- Giảm thời gian và năng suất lao động từ đó giảm thu nhập gia đình. Không có
khả

năng

làm

tròn


bổn

phận

với

gia

đình

nội,

ngoại.

Hậu quả đối với xã hội
- Giảm sự đóng góp của nạn nhân và người gây bạo lực gia đình đối với xã hội
tạo ra lực lượng lao động tương lai có sức khỏe thể chất và tinh thần yếu, thiếu
sáng tạo.
- Nếu không xử lý triệt để, xã hội sẽ chấp nhận và dung túng cho bạo lực gia
đình.
- Hạn chế hiệu quả công tác phòng chống HIV/AIDS và kiểm soát mất cân bằng
giới tính khi sinh.
1.4. Khái niệm CTXH
CTXH là hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện dựa trên nền tảng khoa
học chuyên ngành nhằm hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội (cá nhân, nhóm,
cộng đồng) giải quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh, vươn lên hòa nhập
xã hội theo hướng tích cực, bền vững.
Các phương pháp CTXH cơ bản:
+ CTXH với cá nhân: Là quá trình và là một phương pháp tác động đến cá

nhân có vấn đề xã hội (bị mất hoặc yếu về chức năng xã hội), giúp cá nhân tự
nhận ra vấn đề của bản thân, củng cố, khôi phục và phát huy năng lực của bản
thân để có thể tự giải quyết được vấn đề của mình trong tình huống, nghĩa là giải
quyết vấn đề cá nhân trong mối quan hệ tương tác với môi trường của cá nhân
đó.
+ CTXH nhóm: Là một phương pháp của CTXH nhằm tạo dựng và phát
huy sư tương tác, chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực giữa các thành viên, giúp củng
cố, tăng cường chức năng xã hội và khả năng giải quyết vấn đề, thỏa mãn nhu
cầu của nhóm. Thông qua sinh hoạt nhóm, mỗi cá nhân hòa nhập, phát huy tiềm
năng, thay đổi thái độ, hành vi và khả năng đương đầu với nan đề của cuộc
6


sống, tự lực và hợp tác giải quyết vấn đề đặt ra vì mục tiêu cải thiện hoàn cảnh
một cách tích cực
+ Tổ chức và phát triển cộng đồng: Phát triển cộng đồng là một tiến trình
làm chuyển biến từ cộng đồng nghèo, thiếu tự tin thành cộng đồng tự lực thông
qua việc giáo dục giúp người dân trong cộng đồng nhận thức rõ tình hình, vấn
đề hiện tại của họ, phát huy các khả năng và tài nguyên sẵn có của họ, tổ chức
các hoạt động chung tự giúp, bồi dưỡng và củng cố tổ chức, mở rộng các mối
liên kết tiến tới tự lực phát triển
1.5. Khái niệm nhân viên CTXH
Xuất phát từ nhiều cách quan niệm, cách hiểu về CTXH nên cũng có nhiều
cách gọi khác nhau về người làm CTXH. Sự đa dạng trong các hoạt động xã hộ
là cơ sở dẫn đến sự phong phú của việc nhận diện người làm CTXH. Từ khi
CTXH chuyên nghiệp ra đời, người ta mới thực sự chú ý đến khái niệm NVXH.
Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới, người làm CTXH được gọi với những tên
gọi khác nhau như: NVXH, cán sự xã hội, cán bộ xã hội, nhân viên
CTXH, cán bộ làm CTXH…Dù cách gọi tên như thế nào thì người làm
CTXH chuyên nghiệp phải là những người được đào tạo chuyên nghiệp và trong

quá trình thực hành tác nghiệp phải dựa trên nền tảng lý thuyết, hệ thống kiến
thức khoa học được trang bị và sử dụng phương pháp, kỹ năng chuyên nghiệp
của nghề nghiệp chuyên môn CTXH.
Ở Việt Nam, người làm CTXH được biết đến phổ biến muộn hơn (từ sau
năm 2000), nhưng tương đối thống nhất với tên gọi NVCTXH và gọi tắt là
NVXH (social worker).
NVXH là những người có trình độ chuyên môn, được trang bị kiến thức,
kỹ năng về CTXH chuyên nghiệp và sử dụng kiến thức, kỹ năng đó trong quá
trình tác nghiệp trợ giúp đối tượng (cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng) có vấn
đề xã hội giải quyết vấn đề gặp phải, vươn lên trong cuộc sống.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng bạo lực gia đình trên thế giới.
- Trong các điều tra dân số từ 48 nước trên thế giới, 10 -69% phụ nữ cho biết họ
7


đã trải qua một số bạo lực thân thể bởi một người bạn tình của họ trong đời.
- Trong 4 phụ nữ thì có 1 phụ nữ bị bạo lực tình dục bởi bạn tình của họ trong đời
- Bạo lực gia đình đối với phụ nữ bị là nguyên nhân thức 10 trong các nguyên
nhân hàng đầu gây ra cái chết cho phụ nữ từ độ tuổi 15-44 tuổi trong năm 1998
2.2. Thực trạng bạo lực gia đình tại Việt Nam
- Khảo sát tại 8 tỉnh ở 8 vùng trên cả nước, do Ủy ban các vấn đề xã hội phối hợp
với một số viện nghiên cứu tiến hành trong 6 tháng đầu năm 2006, cho thấy:
hàng năm 2,3% gia đình có hành vi bạo lực về thể chất ( đánh đập), 25% gia
đình có hành vi bạo lực tinh thần, 30% cặp vợ chồng có hiện tượng ép buộc tình
dục,
- Theo số liệu của Bộ Công an, cứ 2-3 ngày thì có 1 người chết liên quan đến bạo
lực gia đình. Bộ Y tế cho biết, năm 2005, ở đồng bằng sông Cửu Long có 1011
người tự tử, ở Tây Nguyên có 715 người tự tử vì bạo lực gia đình.
- Theo số liệu từ” Kết quả nghiên cứu Quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ

nữ tại Việt Nam” năm 2010 cho thấy khi kết hợp ba loại bạo lực chính là thể
chất, tình dục và tinh thần do chồng gây ra thì đã có hơn nửa phụ nữ (58%) trả
lờ từng bị ít nhất một trong ba loại bạo lực này trong đời. Tỷ lệ này trong 12
tháng trước thời gian khảo sát là 27%. Có sự liên hệ chặt chẽ giữa ba loại bạo
lực và đánh giá đan xen giữa các loại bạo lực đã chỉ ra rằng luôn có một phụ nữ
vừa bị bạo lực tình dục hoặc thể xác, vừa bị lạm dụng tinh thần.
II. THỰC TRẠNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH
1. Vài nét chung về địa bàn nghiên cứu của đề tài.
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
- Hương Khê là một huyện miền núi, nằm phía Tây Nam tỉnh Hà Tĩnh; Phía
Bắc giáp các huyện Can Lộc, Vũ Quang; phía Nam giáp huyện Tuyên Hoá, tỉnh
Quảng Bình; Phía Đông giáp các huyện Kỳ anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà; Phía
Tây giáp nước bạn Lào (với gần 60km đường biên giới). Diện tích tự nhiên
127.809,09 ha, trong đó đất lâm nghiệp 93.077,86 ha (chiếm 72,8% tổng diện
tích), đất nông nghiệp 13.933,82 ha (chiếm 10,9% diện tích tự nhiên).
8


- Khí hậu có 2 mùa rõ rệt, mùa nắng từ tháng 3 đến tháng 8, mùa mưa từ 9
đến tháng 2 năm sau; lượng mưa bình quân từ 2000-2400mm/năm.
- Toàn huyện có 21 xã và 1 Thị trấn huyện lỵ; dân số gần 11 vạn người,
trong đó có 51.400 lao động (lao động nông nghiệp 36.800 người); đồng bào
theo đạo thiên chúa giáo chiếm 27%; có 4 bản dân tộc, với 200 hộ, 790 nhân
khẩu. Ngoài các đặc điểm nêu trên Hương Khê còn có một số tiềm năng lợi thế:
Về quỹ đất để phát triển sản xuất Nông
- Lâm nghiệp dồi dào; cây ăn quả phong phú, có giá trị kinh tế cao như:
Bưởi Phúc Trạch; cam Khe mây, ... có giá trị kinh tế xuất khẩu cao.
1.2. Tình hình kinh tế xã hội
- Nền kinh tế Hương khê chủ yếu là nông nghiệp lúa nước, ngoài ra có các loại

cây lương thực như: Ngô(bắp),Chè, Cam, Chanh, Bưởi.Về cây công nghiệp có:
Thông, Cao su, Keo lá tràm, Gió (Trầm Hương). Về chăn nuôi có: Trâu, bò, lợn,
gà. Khai thác lâm sản: Các loại gỗ quý như Lim, Dối, Táu...tất nhiên hiện nay đã
rơi vào tình trạng cạn kiệt do nạn khai thác tràn lan.
- Đặc sản của Hương Khê có bưởi Phúc Trạch, chè xanh Hương Trà, sắn Động
Cửa (xã Hương Thủy), cá chép (sông Ngàn Sâu), cá tràu (tức cá quả) Đập Trạng
(xã Hương Thủy), cá mương (xã Hương Thủy) cá mát, mật ong rừng, mật mía,
ruốc, gỗ quý,...
- Là một huyện miền núi nền kinh tế còn nhiều khó khăn, cuộc sống người dân
còn nghèo, khả năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin còn
hạn chế, mặt bằng dân trí con thấp và phát triển không đều. Vì vậy còn nhiều hủ
tục lạc hậu đặc biệt là tư tưởng phân biệt nam nữ.
- Bên cạnh đó, văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân được cải thiện, công tác xóa đói giảm nghèo đạt kết quả quan trọng;
các vấn đề bức xúc của xã hội được tập trung giải quyết.
- Giáo dục và đào tạo được củng cố và phát triển toàn diện, các ngành học phát
triển nhanh về quy mô trường lớp, học sinh; cuộc vận động “hai không” với 4
nội dung được triển khai thực hiện nghiêm túc góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục; đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
- Chương trình xóa đói giảm nghèo, xóa nhà tạm được đẩy mạnh và đạt kết quả
9


cao.
- Ngoài ra tình hình an ninh chính trị tiếp tục được giữ vững, trật tự an toàn xã hội
được bảo đảm, phục vụ tích cực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
huyện. Kết quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh được thể hiện toàn diện
trên các mặt; công tác nắm tình hình, công tác tham mưu, đẩy mạnh thực hiện có
hiệu quả chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, ma túy…Quan hệ đối
ngoại, hợp tác quốc tế tiếp tục được củng cố, tăng cường và mở rộng.

- Như vậy, ta có thể thấy Hương Khê là một tỉnh miền núi có nền kinh tế tăng
trưởng khá nhanh, mặc dù những yếu tố vật chất tạo điều kiện cho sự phát triển
phần lớn vẫn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Trung ương, nhưng cũng góp phần
dần đưa Hương Khê thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn và rút ngắn khoảng
cách với những huyện phát triển hơn, tạo lập các yếu tố cơ bản làm tiền đề phát
triển trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, ở Hương Khê mặt bằng dân trí vẫn còn thấp và phát triển không đều. Vì
vậy còn nhiều hủ tục lạc hậu đặc biệt là tư tưởng phân biệt nam nữ.
- Vì vậy, mặc dù đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử với những cuộc cách mạng
to lớn thì phụ nữ Hương Khê, nhất là ở vùng sâu vùng xa, vẫn chịu thiệt thòi về
mọi mặt, vẫn phải chịu sự bất bình đẳng nam nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội trong gia đình. Đặc biệt là tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ đang
gây nhiều bức xúc trong toàn huyện.
2. Thực trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn huyện Hương
Khê - tỉnh Hà Tĩnh
2.1. Thực trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn
Một trong những vấn đề bức xúc hiện nay là tình trạng một bộ phận phụ nữ
trẻ em trở thành nạn nhân của các hành vi ngược đãi, do chính người chồng gây
ra. Cũng như các vấn đề các vấn đề xã hội khác, nó chịu tác động của những
thay đổi về môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội. Mặc dù đã có sự ngăn chặn khá
kiên quyết của pháp luật, chính quyền, các đoàn thể nhưng thực tế tại cộng đồng
dân cư, không phải cặp vợ chồng nào cũng có thể sống một cách hoàn toàn êm
ấp hạnh phúc. Bạo lực gia đình khi lén lút, lúc công khai, đã và đang phá vỡ
10


hạnh phúc của một số gia đình, nhất là các cặp vợ chồng trẻ. Vì vậy chúng ta cần
phải đấu tranh nhằm ngăn chặn, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn các hành vi bạo lực
gia đình đối với phụ nữ. Thực trạng bạo lực gia đình của toàn huyện ngày càng
gia tăng với con số đáng lo ngại.

Thực trạng ngày càng phổ biến khắp các cơ sở địa phương trong toàn
huyện, chiếm tỉ lệ lớn trong các vụ án về hôn nhân gia đình. Theo thống kê của
tòa án nhân dân trong 50 vụ ly hôn năm 2009 thì có đến 45 vụ ly hôn do bạo lực
gia đình gây ra với các nguyên nhân: rượu chè, ngoại tình, cờ bạc…
Bạo lực gia đình không chỉ xảy ra ở vùng sâu, vùng xa với những gia đình
trình độ học vấn thấp mà còn ở thị trấn, những gia đình có học vấn cao, có địa vị
xã hội. Ngay tại địa bàn thị trấn của huyện năm 2010 có 10 vụ án hôn nhân gia
đình thì có đến 7 vụ án do bạo lực gia đình gây ra. Đây chưa phải là con số phản
ánh thực tế vì còn nhiều trường hợp các nạn nhân che giấu, âm thầm chịu đựng;
một số bị đánh đập quá mức thì chỉ đến tâm sự với cán bộ cơ sở, không muốn
công khai.
Theo nghiên cứu mới nhất của huyện: các cuộc thảo luận nhóm, phỏng vấn
sâu cho thấy phần lớn người dân đều không có nhận thức rõ ràng về bạo lực gia
đình, khái niệm bạo lực gia đình chưa nghe nói đến hoặc ở mức độ rất mơ hồ.
Theo kết quả khảo sát phiếu điều tra hộ gia đình, có tới 63,3% số người được
hỏi chưa bao giờ nghe nói tới bạo lực gia đình và 36,7% đã được nghe nói
nhưng hiểu biết rất mơ hồ.
Thông thường, người phụ nữ khi bị đánh đập, chửi bới sẽ cam chịu, chờ đợi
sự tỉnh ngộ của đức ông chồng, không muốn làm to chuyện vì quan niệm xấu
chàng hổ ai…Chỉ có những trường hợp nào nghiêm trọng đến tính mạng thì lúc
đó, chị em mới nói ra nỗi khổ nhục mình phải chịu.
Theo như lời kể của lãnh đạo huyện Hương Khê; một năm có 6, 7 vụ đánh
vợ nghiêm trọng còn đấm tát thì nhiều. Có ông nhốt vợ trong buồng khóa cửa
không cho ra ngoài, có trường hợp vợ bi đánh nhưng không nói ra đến khi bị
phát hiện thì mới nói.
Chẳng hạn như trường hợp của chị Phan Thị H xã Hương Xuân là một
người hiền lành chăm chỉ hết lòng vì chồng con. Chồng chị là anh Nguyễn Văn
11



P lại là người hay uống rượu và rất hay say xỉn, mỗi lần như thế anh thường hay
mắng chửi đánh đập vợ mình. Mặc dù vậy chị H vẫn cắn răng chịu đựng, thế
nhưng chị càng nhịn thì chồng chị càng lấn tới và gần đây chị đã bị chồng chị
đánh trọng thương phải vào viện điều trị dù thế nhưng vì thương con nên chị
không thể ly hôn.
Cách mạng tháng tám đã thành công được 65 năm, ở khắp nơi, người ta hô
hào về bình đẳng giới, trong từng điều kiện cụ thể, cuộc đấu tranh đòi quyền
bình đẳng nam nữ được tiến hành mạnh mẽ trên các lĩnh vực luật pháp, gia đình
và xã hội. Điều đó đã làm biến đổi về căn bản vị trí, quyền lợi của người phụ nữ
so với trước đây. Tuy nhiên cuộc đấu tranh cũng có khó khăn của nó, đặc biệt
Hương Khê là một huyện miền núi có trình độ dân trí thấp, ảnh hưởng nặng nề
của tàn dư, hủ tục lạc hậu. Vì những lý do đó, chúng ta có thể giải thích được vì
sao Hương Khê vẫn tồn tại tư tưởng “trọng nam khinh nữ ”, thậm chí ở nơi vùng
sâu, vùng xa có xu hướng phục hồi và phát triển. Chính tư tưởng này đã tạo ra
một thứ bạo lực vô cùng ghê gớm, nó khiến cho họ không bị đánh đập về thể
xác thì cũng bị đầy đọa về tinh thần, không bị mắng chửi nhưng vẫn phải lao
động cực nhọc và phục tùng như một nô lệ. Ngày nay, trong khi có nhiều người
chồng đã yêu thương, chia sẻ với vợ gánh nặng gia đình, thì vẫn còn không ít
những người chồng thờ ơ trút toàn bộ trách nhiệm gia đình lên đầu vợ. Từ việc
lao động, kiếm sống, đến việc quản lý, thu vén các công việc trong gia đình như
cơm nước, giặt giũ, chăm sóc người già, giáo dục con cái…Trong khi người vợ
tất bật từ sang đến tối thì những ông vua này lại nhởn nhơ, nhàn nhã bên các
chiếu bạc hoặc giải sầu với rượu. Điều đáng lưu ý là ở nhiều làng xã, những
chồng kiểu này vẫn được ủng hộ, thậm chí cả chính giới phụ nữ. Như trường
hợp của bà Trần Thị V, 50 tuổi khi được hỏi về bạo lực gia đình đã luôn miệng
nói về sự hiền lành của người chồng và khẳng định mình chưa hề bị đánh bao
giờ, cuộc sống vợ chồng bà êm ấm, bà vẫn được quyết định việc quan trọng
trong nhà. Nhưng bà lúc nào cũng phàn nàn về một sức ép vô hình đã buộc bà
phải lao động cật lực suốt đời.
12



Thực trạng bạo lực gia đình được nêu trên rất nguy hiểm, vì nó vắt cạn kiệt
tâm hồn, trí tuệ của người phụ nữ, nó sẽ mãi đẩy người phụ nữ vào sự cách biệt
với nam giới trong lao động, trong hưởng thụ những giá trị văn hóa. Thực trạng
này, vô hình chung đã tạo cho người chồng một thói quen gia trưởng, ích kỷ và
hưởng thụ.
2.2. Công tác phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn
Phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ Hương Khê nói riêng luôn xứng
đáng với các danh hiệu mà đảng và Bác Hồ trao tặng trong các giai đoạn lịch sử
của đất nước. Đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh thay mặt Ban chấp hành Trung ương đảng trao tặng phụ nữ
Việt Nam danh hiệu: “Năng động, sáng tạo, trung thực, đảm đang”.
Phụ nữ Hương Khê với 49,8% dân số, là lực lượng chủ yếu trong lao động
nông nghiệp và nhiều nghành như: tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông sản, thực
phẩm, y tế…Trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, phụ nữ Hương Khê
đã phát huy truyền thống vẻ vang của người phụ nữ Việt Nam: “ Anh hùng, bất
khuất, trung hậu, đảm đang” .
Khẳng định vai trò của người phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng,
Đảng, Chính phủ, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã tặng
thưởng huân chương, bằng khen cho các tập thể và cá nhân có thành tích xuất
sắc.
Bên cạnh những thành tích trên, phụ nữ Hương Khê vẫn phải đối diện với
rất nhiều khó khăn, trong đó phải kể đến tình trạng bất bình đẳng giới và bạo lực
gia đình xảy ra ở nhiều nơi. Đứng trước tình hình này, Huyện cũng đề ra và thực
hiện công tác phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Công tác này đã đạt
được những kết quả sau:
Các cấp ủy Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo trong việc tuyên truyền, giáo
dục để nâng cao sự hiểu biết và ý thức trách nhiệm vì bình đẳng giới trong gia

đình. Thường xuyên chỉ đạo các hoạt động của chính quyền các cấp Hội phụ nữ,
tạo điều kiện để hội thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Các chính
13


quyền cơ sở, cơ quan chức năng luôn làm tốt công tác phổ biến pháp luật, chính
sách có liên quan đến phụ nữ. Bên cạnh đó, các đoàn thể nhân dân và các tổ
chức xã hội cũng thường xuyên phối hợp với phụ nữ tổ chức bồi dưỡng, tuyên
truyền vận động các tầng lớp phụ nữ thực hiện phong trào hành động vì sự tiến
bộ của phụ nữ.
Đặc biệt đã xây dựng mới mới, cải tạo nâng cấp, hoàn thiện hệ thống mở
rộng mạng lưới cơ sở, trợ giúp nạn nhân từ mạng lưới đến cơ sở.
Hội Liên hiệp phụ nữ: trong những năm qua hội đã chỉ đạo các cấp hội coi
trong việc giáo dục truyền thống gia đình Việt Nam, hằng năm tổ chức cho cán
bộ, hội viên đăng ký và bình xét gia đình bốn chuẩn mực thực hiện hiệu quả sáu
nhiệm vụ trọng tâm của các phong trào: “tích cực học tập, lao động sáng tạo,
xây dựng gia đình hạnh phúc”; “giỏi việc nước đảm việc nhà”; “toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư”. Vận động chị em thực hiện
tốt vai trò trách nhiệm của người phụ nữ trong gia đình, nhằm tránh những mâu
thuẫn, xô xát xảy ra, ảnh hưởng tới sức khỏa của chị em, tới mỗi gia đình và
cộng đồng…
3. Nguyên nhân, hậu quả của tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ
trên địa bàn huyện Hương Khê – tỉnh Hà Tĩnh
3.1. Nguyên nhân
Có thể nói, khó khăn lớn nhất đối với việc tìm hiểu những nguyên nhân của
bạo lực gia đình là ở chỗ, bạo lực gia đình là hệ quả của sự tổng hợp một loạt
các yếu tố, các chiều tác động khác nhau, từ điều kiện kinh tế - xã hội khách
quan đến nhận thức chủ quan của con người, từ những nhân tố về văn hóa, gia
đình đến những nhân tố về đạo đức và định hướng giá trị. Bởi vậy, qua nghiên
cứu tài liệu và tổng kết thực tiễn, thì việc phân định các nguyên nhân dưới đây

chỉ mang tính chất tương đối.
Nguyên nhân về kinh tế xã hội
- Đấu tranh bình đẳng nói chung, trong đó đấu tranh chống bạo lực trong gia đình
đối với phụ nữ là một mục tiêu lớn không chỉ riêng Hương Khê mà còn mục tiêu
chung của Việt Nam, bình đẳng trên nhiều mặt, trong đó có bình đẳng về kinh tế
14


xã hội.
- Mục tiêu này phù hợp với quan điểm về nền văn minh và phát triển bền vững
hiện nay trên thế giới. Từ nhận thức này thì đã có nhiều quốc gia đã có những nỗ
lực lớn để lồng ghép vấn đề giới vào các chính sách và chương trình kinh tế - xã
hội.
- Nhờ vậy sự tham gia của phụ nữ vào thị trường lao động và mức độ tự chủ trong
hoạt động kinh tế của phụ nữ ngày càng tăng. Mặc dù có nhiều thuận lợi như
vậy song không vì thế mà con đường tiến tới bình đẳng, không còn bạo lực gia
đình đối với phụ nữ huyện Hương Khê lại ngắn và đơn giản.
- Như vậy, chính sức mạnh kinh tế làm yếu tố nền tảng của đời sống xã hội, lực
lượng nào chiếm lĩnh và chi phối nhiều hơn trong lĩnh vực kinh tế thì làm chủ,
và do vậy để duy trì chế độ nam quyền, phụ quyền thì bất bình đẳng cũng bắt
đầu xuất hiện giữa nam và nữ trong gia đình và cả ngoài xã hội.
- Đa số chị em phụ nữ thường có thu nhập thấp hơn chồng, phụ thuộc kinh tế vào
người chồng. Chính vì vậy tiếng nói của chị em có ít trọng lượng, và thường
không có vai trò quyết định. Đây cũng chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến bất
bình đẳng nói chung.
- Hiện nay nền kinh tế thị trường ngoài những mặt tích cực, nó còn gây ra những
bất lợi lớn cho phụ nữ khi bước vào nền kinh tế thị trường là do vấn đề việc làm,
do trình độ học thức thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu mới dẫn đến thất nghiệp,
tỷ lệ chung là 8,4% trong đó phụ nữ chiếm hơn một nửa. Phụ nữ Hương Khê đa
phần là buôn bán nhỏ, nội trợ và làm nông nghiệp là chính, do vậy thời gian lao

động quá cao chiếm 14 – 15 tiếng/ngày, trong khi người chồng chỉ khoảng 8 –
10 tiếng/ngày. Điều này khiến cho phụ nữ có rất ít thời gian nghỉ ngơi, học tập
và hưởng thụ văn hóa, hạn chế sự nhận thức về các hình thức bao lực gia đình.
Nguyên nhân trình độ nhận thức
- Một trong những nguyên nhân hết sức quan trọng dẫn đến tình trạng bạo lực gia
đình hiện nay là do trình độ nhận thức còn hạn chế.
- Bạo lực gia đình còn chịu ảnh hưởng của nhiều tư tưởng trong xã hội, là sự
không bằng nhau về địa vị - quyền lực trong mối quan hệ giữa hai giới nam nữ.
Vẫn còn tồn tại.
- Những quan niệm không đúng về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình,
15


tư tưởng trọng nam khinh nữ, chưa phải đã hết trong một bộ phận thuộc các tầng
lớp xã hội khác nhau. Nếu trong xã hội phong kiến bạo lực tinh thần là chủ yếu,
thì ngày nay dường như lại thể hiện nhiều ở dạng bạo lực thể xác. Không hiếm
trường hợp sinh con một bề là con gái đã bị mẹ chồng, chị em chồng hắt hủi, coi
thường và ép đẻ bằng được con trai mới thôi.
- Với phụ nữ, tư tưởng trọng nam còn thể hiện sự tự ti, mặc cảm về thân phận,
cam chịu trước nam giới.
- Như vậy, có thể nói, thói quen phong tục tập quán như một bộ luật không thành
văn hướng dẫn, điều chỉnh hành vi của con người và xã hội. Ở Hương Khê định
kiến về trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào đầu óc con người và hiện nay vẫn có
ảnh hưởng khá phổ biến, đặc biệt trong gia đình.
Tâm lí tự ti mặc cảm của bản thân phụ nữ
- Thực tế nhiều phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, trên cương vị
người vợ người mẹ đã không có một phản ứng gì ngoài việc chịu đựng những
trận đòn. Họ không dám đấu tranh với chồng, lại càng không dám chủ động việc
ly dị vì sợ sẽ mất của cải, danh dự và cả con cái. Một trong những nguyên nhân
lớn nhất đó là tình mẫu tử. Mặc dù bị đánh đập nhưng phần lớn những người vợ

thường không muốn phá vỡ gia đình vì họ không chịu nổi cảnh ly tán và phải
sống xa con mình, chính vì điều này làm cho họ trở thành người mẹ vừa mạnh
mẽ vừa yếu đuối và thái độ nhu nhược của phụ nữ càng kích thích cho bạo lực
gia đình phát triển.
- Nhìn chung tất cả những nguyên nhân trên làm cho tình trạng bạo lực đối
với phụ nữ trong gia đình ở Hương Khê ngày càng tăng và quá trình phòng
chống bạo lực gia đình ở đây diễn ra còn chậm, tất cả những nguyên nhân đó chỉ
mang tính chất tương đối, hy vọng đây là những căn cứ quan trọng để chúng ta
vạch ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu để góp phần tiến tới giải
phóng phụ nữ, chống bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ.
3.2. Hậu quả
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ đang có xu hướng gia tăng trên địa bàn
Hương Khê và hậu quả của nó để lại rất lớn
- Ảnh hưởng đến cơ hội phát triển của phụ nữ
16


- Ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ em
- Ảnh hưởng đến mối quan hệ vợ chồng và sự bền vững gia đình
- Ảnh hưởng đến sự phát triển tiến bộ xã hội
- Bạo lực gia đình đã tác động đến người phụ nữ trên mọi khía cạnh của
cuộc sống, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần. Trên
thực tế, bạo lực gia đình không chỉ gây ra những đau đớn về thể xác và tinh thần
mà còn cướp đi sinh mạng của bao nhiêu người. Theo nghiên cứu quốc gia về
bạo lực gia đình đối với phụ nữ năm 2010: Hơn 60% phụ nữ đã từng bị chồng
bạo lực cho rằng họ đã bị ảnh hưởng tới sức khỏe ví dụ như: Bị những vết cào
cấu, trầy da, bầm tím (chiếm 88,9%), bị rách màng nhĩ, tổn thương ở mắt (chiếm
12,9%) và 7,3 % bị thương tích do các vết cắt sâu hoặc các vết thương dài và
sâu. Những hình thức bạo lực thô bạo như: kéo tóc, bóp cổ... tuy không để lại
những vết thương sâu như những hành vi khác nhưng gây ảnh hưởng mạnh tới

sức khỏe tâm thần của người bị bạo lực gây mắc các bệnh như tim mạch, mất
hoặc suy giảm trí nhớ, giảm khả năng tập trung.
- Bên cạnh đó, phụ nữ bị bạo lực thường xuyên còn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến khả năng sinh sản. Theo nhiều nghiên cứu cho thấy phụ nữ thường
xuyên bị bạo lực có nguy cơ xảy thai, thai chết lưu cao hơn so với phụ nữ không
bị bạo lực. Thậm chí, phụ nữ bị bạo lực tình dục họ không ý thức được nguy cơ
lây nhiễm HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khi sống trong môi
trường bạo lực. Có những phụ nữ ý thức được nguy cơ lây nhiễm bệnh tật nhưng
họ không có khả năng thuyết phục thực hiện tình dục an toàn do vậy nguy cơ
nhiễm HIV, các bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ tăng cao
- Bạo lực gia đình gây ra những ảnh hưởng về sức khỏe, tâm lý, tình cảm từ
đó tác động tiêu cực đến lực lượng lao động và các hoạt động kinh tế vì nhiều
trường hợp phụ nữ phải nghỉ công việc của mình do xấu hổ, chấn thương và đau
ốm. - Trẻ em lớn lên trong gia đình có bạo lực cũng chịu những tác động tiêu
cực do bạo lực gia đình gây ra, ví dụ như buồn bã, rối loạn tâm lý, thiếu động cơ
học tập, tách mình ra khỏi bạn bè, ít nói, nếu tình trạng đó kéo dài có thể dẫn
đến mắc bệnh trầm cảm. Nhiều trường hợp người mẹ quá mệt mỏi, sức khỏe
17


giảm sút không đủ điều kiện chăm sóc cho con, hay bị đuổi khỏi nhà khiến
những đứa trẻ không được chăm sóc đầy đủ cũng làm cho chúng bị suy dinh
dưỡng, vệ sinh kém, cơ thể yếu là điều kiện để vi khẩn xâm nhập và mắc nhiều
loại bệnh nguy hiểm, gây ảnh hưởng tới sức khỏe.
- Nghiêm trọng hơn, khi trẻ em trực tiếp chứng kiến cảnh bảo lực ngay
trong gia đình, chúng có thể sao chép những hành vi của bố, mẹ từ đó hình thành
nên những thói xấu, thậm trí cha mẹ không thể giáo dục con cái khi chúng
trưởng thành.
- Bạo lực gia đình ở những phạm vi, mức độ khác nhau không chỉ gây hậu
quả nặng nề về sức khỏe, tâm lý của phụ nữ và những thành viên trong gia đình,

đặc biệt là trẻ em mà còn là những hành vi vi phạm pháp luật.
III. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP HỖ TRỢ CỦA CTXH TRONG BẠO
LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HƯƠNG
KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH
1. Một số giải pháp chung về phòng chống BLGĐ đối với phụ nữ huyện
Hương Khê hiện nay
- Nâng cao hiệu quả của thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực
gia đình nhằm thay đổi nhận thức, hành vi trong ứng xử về gia đình và bạo lực
gia đình, góp phần tiến tới xoá bỏ bạo lực gia đình và nâng cao nhận thức về
truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam. Chính vì vậy, công tác
thông tin - giáo dục - truyền thông về bạo lực gia đình qua tivi, đài, báo, tạp chí,
các tờ rơi, tờ gấp, loa truyền thanh, tuyên truyền của cán bộ Đảng, chính quyền,
các ban ngành, đoàn thể, các cộng tác viên dân số, qua các buổi hội họp cần tới
được tất cả các nhóm công dân, nhất là các gia đình nghèo.
- Truyền thông cũng cần chỉ ra nguyên nhân cơ bản của bạo lực gia đình là
sự bất bình đẳng giới, là tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, phân biệt địa vị, vai trò
của phụ nữ và nam giới trong gia đình, vận động nam giới nói riêng và toàn xã
hội nói chung hiểu biết về quyền của phụ nữ, đồng thời phải nâng cao kiến thức,
nhận thức cho chị em để họ hiểu được quyền của mình để có ý thức tự bảo vệ,
nâng cao địa vị, vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội.
18


- Giáo dục pháp luật, các qui định của pháp luật về bảo đảm tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em. Để pháp luật đi vào cuộc
sống phải tuyên truyền, phổ biến, giáo dục những kiến thức pháp luật cơ bản cho
người dân, như Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự”. Xây
dựng quan hệ vợ chồng là quan hệ hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, “vợ chồng
tôn trọng và gìn giữ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau... Cấm các hành vi

ngược đãi, hành vi xúc phạm danh dự, uy tín của nhau”. Điều 21 Luật Hôn nhân
và gia đình quy định các biện pháp ngăn chặn và xử lý những hành vi bạo lực
gia đình của chồng đối với vợ con hoặc ngược lại.
- Phát triển kinh tế phải kết hợp với phát triển văn hóa, giáo dục để nâng
cao trình độ dân trí nói chung, nhất là trình độ dân trí cho chị em phụ nữ khu
vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trong chương trình
phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo của mỗi địa phương, cần có chính sách ưu
tiên các gia đình nghèo, khó khăn, tạo điều kiện cho chị em có công ăn việc làm,
có thu nhập để khẳng định vị thế của mình trong gia đình và xã hội. Đưa tiêu chí
không có bạo lực gia đình là một tiêu chí quan trọng để xem xét việc công nhận
gia đình văn hoá.
- Xây dựng các thiết chế gia đình bền vững được xem là giải pháp nội lực
để phòng tránh bạo lực gia đình. Yêu cầu này đòi hỏi vai trò của các tổ chức
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cùng bàn bạc; tùy theo đặc
điểm, truyền thống văn hóa của từng địa phương phải xây dựng được các quy
chế, quy ước nhằm hạn chế những khác biệt, mâu thuẫn có thể bùng nổ thành
xung đột, cùng với các gia đình có ý thức xây đắp các chuẩn mực: no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững. Đối với mỗi hộ gia đình thì vợ
chồng phải biết cách ứng xử tế nhị, tôn trọng giúp đỡ nhau như kinh nghiệm ông
cha ta đã đúc kết chồng giận thì vợ bớt lời hay lời nói không mất tiền mua, lựa
lời mà nói cho vừa lòng nhau, tạo không khí hoà thuận, cùng có trách nhiệm
chăm sóc nuôi dạy con cái. Ngăn chặn các tệ nạn xã hội là giải pháp phòng,
19


chống bạo lực gia đình có hiệu quả nhất. Vì vậy đấu tranh phòng, chống tệ nạn
xã hội không chỉ tạo nên sự ổn định xã hội mà còn góp phần vào việc phòng,
chống bạo lực gia đình một cách có hiệu quả.
2. Đề xuất một số biện pháp hỗ trợ của CTXH trong bạo lực gia đình đối
với phụ nữ trên địa bàn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh

2.1. Vai trò của công tác xã hội và nhân viên công tác xã hội
Vai trò của công tác xã hội:
Từ khi ra đời với tư cách là một nghề nghiệp chuyên môn, CTXH có vị trí,
chức năng quan trọng đặc biệt trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, trợ giúp
đối tượng có hoàn cảnh khó khăn bằng các hoạt động chuyên nghiệp dựa trên
nền tảng lý thuyết và phương pháp khoa học. Qua quá trình hoạt động thực tiễn,
đúc rút kinh nghiệm có thể khái quát các chức năng chủ yếu của CTXH bao
gồm:
+ CTXH trực tiếp giải quyết các vấn đề xã hội, hỗ trợ giải quyết các vấn
đề gặp phải của cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng bằng phương pháp tác
nghiệp chuyên nghiệp.
+ CTXH huy động, liên kết và phát huy nguồn lực trợ giúp đối tượng có
hoàn cảnh khó khăn.
+ CTXH nghiên cứu, dự báo và phòng ngừa nhằm hạn chế sự phát sinh, gia
tăng các vấn đề xã hội và đối tượng có vấn đề xã hội
Đối với việc phòng chống BLGĐ, công tác xã hội đóng vai trò quan trọng
làm cầu nối hài hòa giữa sức khỏe thể chất và tinh thần. Nhu cầu chăm sóc sức
khỏe đang ngày càng tăng, vị trí và vai trò của ngành công tác xã hội đang ngày
được chú trọng và nâng cao hơn.
Vai trò của nhân viên công tác xã hội
-

Tham gia sàng lọc, phân loại và tiếp nhận đối tượng là nạn nhân của BLGĐ

-

Thực hiện đánh giá tâm lý, tình trạng sức khỏe, nhân thân và các nhu cầu của
đối tượng là nạn nhân của BLGĐ

-


Đề xuất kế hoạch và trực tiếp thực hiện kế hoạch chăm sóc khẩn cấp cho đối
20


tượng, nhóm đối tượng trong địa bàn mình phụ trách.
-

Tham gia cung cấp, thực hiện các dịch vụ CTXH trên cơ sở sử dụng các lý
thuyết, phương pháp, kỹ năng thực hành CTXH như: tham vấn, hòa giải, truyền
thông phòng ngừa BLGĐ trong địa bàn phụ trách.

-

Kết nối và chuyển gửi đối tượng là nạn nhân BLGĐ tới các dịch vụ trợ giúp tại
địa phương và tuyến cao hơn.

-

Tham gia phục hồi, theo dõi và tiếp tục hỗ trợ nạn nhân BLGĐ khi họ trở về địa
phương.

-

Tham gia rà soát, giám sát, đánh giá các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ và phục hồi
đối tượng các trường hợp cụ thể và đề xuất kế hoạch chỉnh sửa nếu cần thiết.

-

Tham gia thu thập dữ liệu, tổng hợp và báo cáo số liệu, hiệu quả của việc trong

phạm vi được giao.

-

Thực hiện biện hộ luật pháp, chính sách liên quan đến BLGĐ, bảo vệ quyền lợi
của nạn nhân BLGĐ.
2.2. Một số biện pháp của công tác xã hội trong phòng chống bạo lực gia
đình đới với phụ nữ ở địa bàn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
Trước thực trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn huyện Hương
Khê chưa tốt, cần đến sự hỗ trợ của CTXH thì gia đình, cộng đồng, bản thân
người phụ nữ cần phải có những biện pháp sau để hỗ trợ cho nhân viên CTXH
trong việc can thiệp, giúp đỡ và phòng ngừa những vấn đề liên quan đến phòng
chống BLGĐ
Đối với thực trạng phòng chống BLGĐ đối với phụ nữ còn nhiều bất cập
như vậy thì không thể thiếu sự đóng góp to lớn của CTXH, cần phải có những
biện pháp như sau:

-

Tổ chức các buổi truyền thông nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng cho chị em
phụ nữ.

-

Mở phòng tham vấn trên địa bàn huyện Hương Khê.
Biện pháp của công tác xã hội là mở phòng tham tâm lý cho cá nhân các
chị em phụ nữ có vấn đề tâm lý, có vấn đề sức khỏe…dựa trên nhu cầu và mong
21



muốn của tất cả các chị em phụ nữ.
Phối hợp với địa phương, kết nối trợ giúp của các ban ngành, lãnh đạo.
Phòng tham vấn tâm lý với vai trò của nhân viên CTXH là cầu nối hài hòa về
sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần cho chị em phụ nữ để các họ có cuộc
sống hiệu quả hơn. Phòng tham vấn tâm lý hoạt động theo nguyên tắc đảm bảo
bí mật cho thân chủ, những tâm sự của các chị em đều được giữ kín.
Nhân viên công tác xã hội sẽ tham vấn cho họ, giúp họ tự tin hơn, giải
quyết những khó khăn của bản thân. Những hoạt động ngăn ngừa và chữa trị sẽ
giúp các chị em mau chóng vượt qua những khó khăn về mặt tâm lý để sống và
làm việc hiệu quả hơn.
Mô hình phòng tham vấn tâm lý là rất hiệu quả trong việc hỗ trợ tư vấn
tâm lý cho cá nhân chị em phụ nữ trên địa bàn. Đảm bảo mong muốn của họ mà
không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động hằng ngày.
-

Trang bị cho chị em phụ nữ những kiến thức về phòng chống BLGĐ

-

Tổ chức những buổi hoạt động ngoại khóa, picnic, những buổi đi chơi có sự
tham gia của nhiều thành viên trên địa bàn.

-

Xây dựng các nhóm nhỏ ở các xã để chị em có thể chia sẻ, hỗ trợ nhau trong
công việc cũng như cuộc sống.

-

Tổ chức các hội thi, các hoạt động giải trí, văn nghệ thể thao trên địa bàn huyện

để chị em tham gia

-

Thành lập chương trình phát thaanh, đường dây nóng, gửi chia sẻ qua email,
thư…tại địa bàn huyện.

-

Nâng cao vai trò của địa phương, gia đình và các tổ chức xã hội.

-

Nâng cao ý thức của bản thân chị em phụ nữ. Liên kết nguồn lực từ nhiều ban
ngành: văn hóa, y tế,…

-

Tổ chức những hoạt động tình nguyện, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó
khan để gắn kết mọi người.

-

Cán bộ xã hội can thiệp để đảm bảo từng thành viên của gia đình, và toàn thể
gia đình có thể sống cùng nhau một cách an toàn và hòa thuận; giải quyết các
22


bất hòa và xử lý các vấn đề. Cán bộ xã hội làm việc trong những trung tâm, nhà
tạm lánh hỗ trợ các phụ nữ bị bạo hành. Các cán bộ xã hội cũng có thể hỗ trợ

những gia đình nghèo và thu nhập thấp tiếp cận các dịch vụ, thực hiện các
quyền về phúc lợi.

23


KẾT LUẬN
Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ là lý tưởng mà nhân loại đã
và đang phấn đấu. Ngày nay, thế giới đã có nhiều thay đổi vượt bậc, nhưng vấn
đề giới – vấn đề bình đẳng nam nữ ở hầu hết các nước trên thế giới, kể cả các
nước có trình độ phát triển cao về kinh tế - xã hội vẫn chưa giải quyết được một
cách triệt để. Sự bất bình đẳng giới, xét về mặt lý thuyết có thể nghiêng về phía
nam hoặc nữ, nhưng trên thực tế những thiệt thòi vẫn thuộc về phụ nữ. Phụ nữ
thường đối mặt với sự phân biệt đối xử và hàng loạt rào cản về kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội…Vì vậy, đấu tranh vì bình đẳng giới đã và đang trở thành một
phong trào rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới cả về phương diên lý thuyết lẫn
phương diện thực tiễn. Ở Việt Nam đã có những chủ trương chính sách bình
đẳng, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng. Tuy vậy, tình trạng bạo lực
gia đình đối với phụ nữ ngày càng phổ biến và tăng nhanh, trình độ học vấn của
người dân thấp điều kiện kinh tế khó khăn…Do vây nhận thức của người dân về
bạo lực giới còn thấp. Đây là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng
bạo lực trong gia đình. Trước thực tế này đòi hỏi các cấp lãnh đạo phải luôn
quan tâm, đầu tư thích đáng cho vấn đề này để giải thích đúng đắn và sâu sắc
các vấn đề của cuộc dấu tranh chống bạo lực gia đình – nam nữ bình đẳng, coi
đây là mục tiêu lâu dài, Vì vậy tăng cường công tác tuyên truyền, vận động sâu
rộng trong xã hội về bình đẳng giới, về trách nhiệm mỗi giới trong việc phấn
đấu xây dựng một xã hội công bằng, tiến bộ; đồng thời tăng cường trách nhiệm
của các ngành, các cấp trong việc thực hiện đầy đủ yêu cầu của Chính phủ về
những nội dung đã ghi trong kế hoạch hành động vì quốc gia vì tiến bộ phụ nữ
Việt Nam là trách nhiệm của tất cả mọi người. Tất cả những nỗ lực này đều

nhằm mục đích tiến tới xây dựng đất nước Việt Nam không chỉ giàu mạnh, mà
còn là một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu hưỡng dẫn thực hành Công tác xã hội với phòng chống bạo lực gia đình-

Bộ lao động thương binh và xã hội
2. Hội liên hiệp phụ nữ huyện Hương Khê, báo cáo kết quả công tác hội và phong

trào phụ nữ huyện Hương Khê năm 2010 – phương hướng nhiệm vụ công tác
2011
3. Đặng Thị Hoa – Phạm Thị Kim Oanh, Vấn đề bạo lực gia đình, ở vùng dân tộc

thiểu số miền núi phía bắc Việt Nam, tạp chí dân tọc học số 4/2008, tr 9-21,2008
4.

25


×