MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 2
I) Dư luận xã hội 2
1/ Khái niệm
2/ Vai trò của dư luận xã hội
II) Tính chất của dư luận xã hội 4
1/ Tính khuynh hướng
2/ Tính lợi ích
3/ Tính lan truyền
4/ Tính bền vững và tính dễ biến đổi
5/Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội
của dư luận xã hội
III) Tác động của dư luận xã hội tới ý thức pháp luật 9
KẾT THÚC 12
MỞ ĐẦU
Trong số các công cụ quản lí xã hội ở Việt Nam thì dư luận xã hội chưa
được coi trọng đúng mức. Chỉ những năm gần đây khi nền dân chủ của xã hội
mới được phát huy và mở rộng, vai trò của thông tin đại chúng được nâng cao thì
1
dư luận xã hội mới từng bước được coi trọng và phát huy được vai trò của mình
trong đời sống xã hội.
Dư luận xã hội xuất hiện mang theo những tính chất đặc trưng của nó đã có
tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong phạm vi bài viết
này, em xin đi sâu vào việc phân tích những tính chất của dư luận xã hội và tác
động của nó đối với ý thức pháp luật.
NỘI DUNG
I) Dư luận xã hội
1-Khái niệm:
Dư luận xã hội là hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội.
Dư luận xã hội đã xuất hiện và tồn tại từ lâu trong lịch sử cùng với sự vận động,
phát triển của bản thân xã hội loài người.
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá
của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời
sự, có liên quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và
được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.
2- Vai trò của dư luận xã hội:
Dư luận xã hội là một hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần của
con người, nó tồn tại trong các cộng đồng lớn nhỏ khác nhau của con người như
trong gia tộc, làng, xã, tỉnh, Dư luận có thể hình thành một cách tự phát nhưng
có thể được hình thành có chủ định từ sự chuẩn bị trước để phục vụ cho một chủ
chương, một ý tưởng hay một mưu đồ nào đó, vì vậy dư luận xã hội luôn có ảnh
hưởng rất lớn tới đời sống của mỗi con người, gia đình, cộng đồng, Trong tiến
trình phát triển của xã hội, sự tùy thuộc vào nhau của các cá nhân và cộng đồng
2
trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống ngày càng nhiều hơn. Và khi mà công
nghệ thông tin ngày càng phát triển thì dư luận xã hội không còn bị bó hẹp trong
cộng đồng nữa mà nó có tác động hết sức quan trọng đến việc định hướng chính
sách, tư tưởng, và điều chỉnh hành vi các nhà lãnh đạo, quản lí và các tầng lớp
dân cư khác nhau với phạm vi ngày càng mở rộng.
Dư luận xã hội không chỉ là khả năng phản ánh, phản ứng trước các hiện
tượng trong cuộc sống xã hội mà ở một khía cạnh khác nó cho thấy trình độ, khả
năng nhận thức, đánh giá và khả năng ứng xử của dân chúng, với vai trò là một
công cụ điều chỉnh, dư luận xã hội tác động lên các cách ứng xử của các thành
viên trong cộng đồng, nó chỉ ra những việc nên làm, những việc nên tránh góp
phần hình thành chuẩn mực trong quan hệ xã hội.
Dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, ý thức của con người, nó
góp phần giáo dục mọi người nhận thức đúng đắn về điều tốt, xấu, phải, trái,
thiện, ác, dư luận xã hội còn tác động đến việc hình thành nhân cách mỗi cá
nhân bởi sự đánh giá của dư luận đối với hành vi ứng xử của một thành viên nào
đó thường được dựa trên những chuẩn mực, khuân mẫu có sẵn càng được thừa
nhận rộng rãi trong cộng đồng xã hội.
Dư luận xã hội là một hiện tượng xuất hiện rất sớm trong xã hội và luôn giữ
vai trò quan trọng trong đời sống xã hội dù ở bất kì thời đại nào, xã hội nào. Mặc
dù chỉ tồn tại là những ý kiến, tư tưởng, quan điểm của các tập hợp chủ thể khác
nhau trong xã hội nhưng dư luận xã hội đã là một trong những phương tiện điều
chỉnh xã hội quan trọng, đồng thời là phương tiện định hướng giáo dục, tác động
về mặt nhận thức và hành vi của con người.
Ngày nay khi mà vai trò của quần chúng nhân dân được coi trọng, nền dân
chủ xã hội được mở rộng thì vai trò và hiệu lực của dư luận xã hội ngày càng
được nâng cao.
II) Tính chất của dư luận xã hội:
3
Khi nghiên cứu dư luận xã hội với tư cách là một hiện tượng thuộc lĩnh vực
tinh thần của đời sống xã hội, các nhà khoa học đã nghiên cứu và chỉ ra những
tính chất cơ bản của nó như sau:
1-Tính khuynh hướng:
Đối với mỗi sự kiện, hiện tượng, thái độ chung của dư luận xã hội có thể
khái quát theo các khuynh hướng nhất định. Đó có thể là tán thành, phản đối hay
lưỡng lự (chưa rõ thái độ). Cũng có thể phân chia dư luận xã hội theo các khuynh
hướng như tích cực hoặc tiêu cực, tiến bộ hoặc lạc hậu… Ở mỗi khuynh hướng.
thái độ tán thành hoặc phản đối lại có thể phân chia thành các mức độ cụ thể như
rất tán thành, tán thành, lưỡng lự, phản đối, rất phản đối. Tính khuynh hướng
biểu thị sự thống nhất hay xung đột của dư luận xã hội.
Chẳng hạn một ví dụ như sau: Ngày 15 tháng 9 năm 2007 theo nghị quyết
32/2007 NQ-CP của chính phủ bắt đầu có hiệu lực, theo đó bắt buộc phải đội mũ
bảo hiểm khi tham gia giao thông trên các tuyến quốc lộ. Trước khi nghị quyết
này có hiệu lực thì dư luận xã hội đã có nhiều ý kiến trái chiều nhau như “ tán
thành hay không tán thành” việc phải đội mũ. Có ý kiến cho rằng không nên đội
mũ bảo hiểm bởi vì hiện nay cơ sở hạ tầng phục vụ cho giao thông còn rất hạn
chế, nhiều tuyến đường hẹp, nếu cứ khi ra ngoài đường lại phải đội mũ thì rất bất
tiện, ý kiến khác lại cho rằng chỉ nên đội mũ khi tham gia giao thông trên đường
cao tốc còn trong nội thành hoặc thành phố thì không cần đội, hay có người lại
lên tiếng ủng hộ nhiệt tình nghị quyết này của chính phủ bởi họ nghĩ an toàn tính
mạng là trên hết dù khi tham gia giao thông ở bất cứ đâu. Như vậy chỉ với cùng
một vấn đề trong hàng ngàn hiện tượng trong đời sống xã hội nhưng dư luận xã
hội đã có rất nhiều cách nhìn khác nhau và kéo theo đó là các khuynh hướng
khác nhau của cả cộng đồng thông qua các thái độ đánh giá của chính bản thân
con người trong cộng đồng đó.
2-Tính lợi ích:
4
Đối tượng của dư luận xã hội phải được xem xét từ góc độ chúng có mối
quan hệ mật thiết với lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau trong xã hội. Tính
lợi ích của dư luận xã hội được nhìn nhận trên hai phương diện là lợi ích vật chất
và lợi ích tinh thần.
Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các hiện tượng diễn ra trong xã
hội có liên quan chặt chẽ đến hoạt động kinh tế và hoạt động kinh tế và sự ổn
định cuộc sống đông đảo người dân.
Lợi ích tinh thần được đề cập khi được đề cập khi các vấn đề, các sự kiện
đang diễn ra đụng chạm đến hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội, các phong
tục tập quán, khuôn mẫu hành vi ứng xử văn hóa của cộng đồng xã hội hoặc cả
dân tộc.
Lợi ích mới chỉ là điều kiện cần để thúc đẩy việc tạo ra dư luận xã hội. Điều
kiện đủ ở đây chính là sự nhận thức của các nhóm xã hội về lợi ích của mình và
mối quan hệ giữa chúng với các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội.
Ví dụ, khi dư luận xã hội lên tiếng về các vụ việc xảy ra đối với các vụ tham
nhũng của một số vị lãnh đạo cao cấp trong các cơ quan nhà nước với thái độ
đồng tình với các chủ trương của chính phủ trong việc giải quyết dứt khoát không
tránh né, dù đối tượng tham nhũng giữ những vị trí quan trọng, và trọng trách cao
đến đâu, điều ấy cũng có nghĩa rằng nhu cầu công bằng xã hội luôn được dư luận
xã hội ủng hộ. Hay mới đây nhất đó là việc nhà nước quyết định về việc tăng giá
điện và giá xăng được rất nhiều người chú ý đến vì nó động chạm đến lợi ích
kinh tế. Khi xăng và điện tăng lên kéo theo đó là sự ra tăng của các loại mặt hàng
sinh hoạt hàng ngày cuộc sống của người dân ít nhiều sẽ có sự thay đổi, chi tiêu
tăng lên và cuộc sống của những người nghèo sẽ gặp khó khăn hơn. Điều đó tất
yếu sẽ dẫn tới việc dư luận xã hội lên tiếng ủng hộ hay không ủng hộ quyết định
đó của nhà nước.
3- Tính lan truyền:
5
Cơ sở của hành vi tập thể là hiệu ứng phản xạ quay vòng, trong đó khởi
điểm từ cá nhân hay nhóm xã hội nhỏ sẽ gây nên chuỗi các kích thích của các cá
nhân khác, nhóm xã hội khác. Để duy trì được chuỗi kích thích này luôn cần có
các nhân tố tác động lên cơ chế hoạt động tâm lí của cá nhân và nhóm xã hội. Đối
với dư luận xã hội các nhân tố tác động đó có thể được coi là các thông tin bằng
các hình ảnh, âm thanh sống động trực tiếp, có tính thời sự. Dưới tác động của
các luồng thông tin, các nhóm công chúng khác nhau sẽ cùng được lôi cuốn vào
quá trình bày tỏ quan tâm của thông tin, cùng chia sẻ trạng thái tâm lí của mình
với người xung quanh. Cá nhân trong xã hộicó thể theo dõi và ghi nhận được ảnh
hưởng của các luồng thông tin đến các hành động quan tâm của công chúng.
Ví dụ, đối với vụ việc làm ô nhiễm sông Thị Vải do công ti Vedan gây ra
vào thời gian gần đây, vụ việc này đã có thời kì gây xôn xao dư luận bởi hậu quả
do vụ việc ấy gây ra. Trước những “yêu sách” mà Vedan đưa ra nhằm mục đích
không chịu bồi thường cho người dân sống xung quanh sông Thị Vải, người dân
đã cùng nhau không sử dụng sản phẩm do Vedan sản xuất ra trên khắp các siêu
thị và đại lí cơ sở, ban đầu chỉ là những người dân địa phương nơi chịu hậu quả
về sau dưới tiếng nói dư luận dần dần đã lan truyền ra cả nước. Trước thái độ của
người dân và sức ép dư luận từ nhiều phía cuối cùng Vedan cũng chịu thỏa hiệp
chịu bồi thường. Điều đó cho thấy tính lan truyền mạnh mẽ trong dư luận xã hội
là rất quan trọng trong việc thể hiện lập trường, quan điểm và thái độ của người
dân.
4- Tính bền vững và tính dễ biến đổi:
Dư luận xã hội vừa có tính bền vững vừa có tính dễ biến đổi. Có những dư
luận xã hội chỉ qua một đêm đã biến đổi nhưng cũng có những dư luận xã hội qua
hàng thập niên vẫn không thay đổi. Tính bền vững tương đối của dư luận xã hội
phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với những sự kiện, hiện tượng hay các quá trình
quen thuộc, dư luận xã hội thường rất bền vững. Cái mới lúc đầu chỉ được số ít
6
thừa nhận và do đó dễ bị đa số phản đối. Nhưng ý kiến của đa số sẽ nhanh chóng,
dễ dàng thay đổi khi cái mới vươn lên khẳng định mình trong cuộc sống.
Tính biến đổi của dư luận xã hội thường được xem xét trên hai phương diện:
Biến đổi theo không gian và môi trường văn hóa: Sự phán xét, đánh giá của
dư luận xã hội về bất kì sự kiện, hiện tượng hay quá trình xã hội nào cũng phụ
thuộc vào hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang tồn tại trong nền văn hóa
của cộng đồng người. Với cùng sự việc, sự kiện xảy ra, dư luận xã hội của các
cộng đồng người khác nhau lại thể hiện sự phán xét, đánh giá khác nhau.
Ví dụ: như việc công nhận việc phẫu thuật chuyển đổi giới tính, đây được
coi là việc hết sức bình thường ở các nước phương Tây thậm trí là ở một số nước
châu Á như Thái Lan… Nhưng cũng là việc như vậy ở Việt Nam vẫn vấp phải
cái nhìn khinh miệt của dư luận xã hội, đa số người dân vẫn khó có thể chấp nhận
vấn đề này và họ luôn có cái nhìn không thiện cảm đối với những người chuyển
đổi giới tính.
Biến đổi theo thời gian: Cùng với sự phát triển của xã hội, nhiều giá trị
văn hóa, chuẩn mực xã hội, phong tục tập quán có thể bị biến đổi ngay trong cách
nhìn nhận, đánh giá của dư luận xã hội. Phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể, dư luận xã
hội còn biến đổi theo đối tượng của các phán xét, đánh giá khi công chúng phát
hiện thêm các mối liên quan giữa đối tượng ban đầu với các sự kiện, hiện tượng,
quá trình diễn ra kèm theo nó. Mặt khác, xuất phát từ các phán xét, đánh giá bằng
lời dư luận xã hội có thể chuyển hóa thành các hành động mang tính tự phát hoặc
có tổ chức để thể hiện thái độ đồng tình hay phản đối của mình.
Ví dụ như việc có thai trước khi kết hôn ở nước ta, nếu như đặt trong thời
gian 10 năm về trước vấn đề nay bị dư luận xã hội lên án gay gắt thậm chí là có
nơi không thể chấp nhận được đặc biệt là cách nhìn về nhân cách của con người.
Ở một số địa phương khi vụ việc như vậy bị phát hiện thì người phụ nữ còn bị
đuổi ra khỏi nơi mình sinh sống. Ngày nay, với sự giao thoa giữa các nền văn hóa
và cái nhìn thoáng hơn của dư luận xã hội vấn đề này đã không còn nhận sự trì
7
triết nặng nề như trước nữa, mặc dù không phải là nhận được sự chấp nhận của
tất cả mọi người trong cộng đồng nhưng nó cũng phần nào làm thay đổi thái độ
của mội người trước một vấn đề nhạy cảm như vậy.
Dư luận xã hội về những vấn đề của đời sống xã hội có thể ở trạng thái tiềm
ẩn, không bộc lộ bằng lời (dư luận của đa số im lặng). Trong xã hội thiếu dân
chủ, dư luận xã hội đích thực thường tồn tại dưới dạng tiềm ẩn.
5- Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã
hội
Sự phản ánh thực tế- xã hội của dư luận xã hội có thể đúng (đúng nhiều hoặc
đúng ít) cò thể sai (sai nhiều hoặc sai ít). Dù có đúng đến mấy thì dư luận xã hội
vẫn có những hạn chế, do đó, không nên tuyệt đối hóa khả năng nhận thức của dư
luận xã hội. Dù có sai đến mấy, trong dư luận xã hội vẫn có những hạt nhân hợp
lí không thể coi thường được. Chân lý của dư luận xã hội không phụ thuộc vào
tính chất phổ biến của nó. Không phải lúc nào dư luận của đa số cũng đúng hơn
dư luận của thiếu số. Cái mới lúc đầu thường có một số người nhận thấy, do đó
dễ bị đa số phản đối. đối với những vấn đề trừu tượng, phức tạp, dư luận của giới
trí thức, của những người có trình độ học vấn cao thường chín chắn hơn so với
những người có trình độ học vấn thấp.
Như ví dụ về vấn đề đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Ban đầu đa
số dư luận xã hội không đồng tình bởi sự phiền phức khi đội mũ bảo hiểm như là
vướng, nóng….khi vừa triển khai đã vấp phải sự phản đối buộc các cơ quan phải
cưỡng chế thực hiện. Nhưng về sau khi nhận ra lợi ích của nó người dân đã tuân
thủ chấp hành và đã nhận được sự phản ứng tích cực của dư luận xã hội.
Tóm lại, những đặc trưng trên của dư luận xã hội đã làm cho nó khác với
những vấn đề xã hội khác, để tạo thành dư luận xã hội không thể nào thiếu một
trong các đặc trưng trên. Đồng thời cho chúng ta nhận thức đúng đắn về vai trò
của dư luận xã hội.
8
III) Tác dụng của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật
Trong xã hội hiện nay thì dư luận xã hội là một trong những công cụ điều
chỉnh quan hệ xã hội quan trọng, nó có quan hệ tác động qua lại đối với các công
cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác, trong đó có ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật, là một hiện tượng mang tính giai cấp, xuất hiện cùng lúc
với sự xuất hiện của pháp luật. Các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau đều có sự
thể hiện ý thức pháp luật khác nhau, trong đó ý thức pháp luật giữ vai trò chủ đạo
là ý thức pháp luật của giai cấp cầm quyền. Nhưng trước khi có pháp luật những
yếu tố tham gia điều chỉnh và định hướng ý thức, hành vi xã hội của con người
lại là đạo đức, phong tục tập quán, truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng… Đặc biệt
là dư luận xã hội.
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại xã
hội từ góc nhìn pháp luật, là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về
bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức
xã hội công dân, về tính hợp pháp hay không hợp pháp về hành vi con người. Ý
thức pháp luật có cấu trúc tương đối phức tạp, có thể được nhìn nhận từ nhiều
góc độ khác nhau. Căn cứ vào nội dung và tính chất của các bộ phận hợp thành, ý
thức pháp luật bao gồm hệ tưởng pháp luật và tâm lí pháp luật. Căn cứ vào mức
độ và giới hạn nhận thức, thì ý thức pháp luật lại được chia thành hai bộ phận cơ
bản: Ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật lí luận. Còn căn cứ vào
chủ thể của ý thức pháp luật thì ý thức pháp luật lại được được chia thành ý thức
pháp luật của các nhân và ý thức pháp luật của nhóm xã hội và ý thức pháp luật
xã hội nói chung.
Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức xã hội là rất rộng lớn trong đó
phải kể tới đó sự tác động tới hệ tư tưởng pháp luật. Dư luận xã hội tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp tới sự hình thành và phát triển của hệ tư tưởng pháp luật. Với
tư cách là một hiện tượng xã hội dư luận xã hội phản ánh tồn tại xã hội nói chung
và các hiện tượng pháp lí xảy ra trong đời sống xã hội. Sự bàn luận, trao đổi ý
9
kiến giữa các thành viên trong xã hội về các hiện tượng pháp lí đưa đến kết quả là
họ đạt được tới sự nhận thức chung thống nhất trong sự phán xét, đánh giá về sự
kiện, hiện tượng pháp lí.
Dư luận xã hội rất gần gũi và trong nhiều trường hợp nó là một phần của ý
thức pháp luật khi nó đánh giá, phán xét những vấn đề liên quan đến pháp luật và
các hành vi pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Dư luận xã hội về
một vấn đề, hiện tượng pháp lí nào đó đã chứa đựng trong đó những quan điểm,
tư tưởng pháp luật của chủ thể đối với điều đó. Những phán xét của dư luận xã
hội là thái độ, tình cảm của họ đối với hiện tượng pháp lí đó. Sự gắn bó khắng
khít không thể tách rời giữa dư luận xã hội và ý thức pháp luật cho thấy nếu ý
thức pháp luật xã hội cao, trình độ hiểu biết và đánh giá các hiện tượng chính trị-
pháp luật cao, chính xác, đầy đủ, thì sẽ góp phần hình thành trong xã hội những
dư luận đúng đắn đối với các quy định pháp luật và quá trình điều chỉnh pháp
luật. Ngược lại nếu ý thức pháp luật xã hội thấp thì có thể dẫn tới hình thành
trong xã hội những dư luận xã hội không đúng về hiện tượng pháp lí đó.
Mặt khác dư luận xã hội cũng tác động tới tâm lí pháp luật. Tâm lí pháp luật
hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, cảm xúc tâm trạng, của các cá
nhân và các nhóm xã hội đối với pháp luật. Cũng như các hiện tượng pháp lí diễn
ra trong đời sỗng xã hội, tâm lí pháp luật cũng biểu hiện mức độ nhận thức thông
thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp luật truyền thông, kinh nghiệm sống, tập
quán và tâm lí xã hội.
Dư luận xã hội, tác động mạnh mẽ tới tình cảm pháp luật. Trong thực tế đời
sống pháp luật, trước những diễn biến của một sự kiện hay một hiện tượng pháp
luật,dư luận xã hội thường nảy sinh và biểu hiện ở hai xu hướng:
Thứ nhất là khen ngợi, biểu dương, ủng hộ, thứ hai là phê phán, lên án. Về
mặt tình cảm không ai muốn trở thành đối tượng phán xét của dư luận và phải
hứng chịu “búa rìu” của dư luận xã hội. Do vậy mỗi cá nhân luôn muốn có thể
kiểm soát, điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với ý chí chung của cả
10
cộng đồng xã hội. Với ý nghĩa đó, dư luận xã hội tác động mạnh mẽ tới tình cảm
pháp luật, góp phần định hướng cho sự hình thành tình cảm pháp luật tích cực
đúng đắn của mỗi các nhân.
Thứ hai dư luận xã hội tác động tới tâm trạng con người thường thể hiện ở
trạng thái đối lập: Hưng phấn-ức chế, lạc quan-bi quan, hi vọng- thất vọng…
trước thực tiễn cuộc sống. Những tâm trạng đó bộc lộ trong nội dung phán xét,
đánh giá của dư luận xã hội và qua đó dư luận xã hội tác động tới tâm trạng con
người trước pháp luật. Ngoài ra dư luận xã hội con khơi gợi, khích lệ, niềm tin
của các thành viên trong xã hội với sự công bằng của pháp luật.
Ba là thông qua dư luận xã hội các cá nhân tự đánh giá hành vi ứng xử của
mình trước các điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hiện hành. Tâm lí pháp
luật không chỉ biểu hiện ở tình cảm, tâm trạng của con người trước pháp luật mà
còn biểu hiện ở việc cá nhân tự đánh giá về hành vi tự điều chỉnh của mình trong
môi trường pháp luật.
Như vậy, dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ tới ý thức pháp luật, góp phần
làm cho pháp luật đươc thực hiện nghiêm chỉnh và đồng thời giáo dục cho nhân
dân có cái nhìn đúng đắn hơn về những quy định mà pháp luật đưa ra để điều
chỉnh hành vi, trạng thái, tình cảm của các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội.
KẾT THÚC
Tóm lại, nghiên cứu về dư luận xã hội và tìm hiểu các tính chất cơ bản
của dư luận xã hội cho chúng ta nhận thức được đặc điểm, tính chất, ý nghĩa của
dư luận xã hội. Nó có vai trò to lớn trong việc phát huy quyền làm chủ của công
dân. Tạo điều kiện cho công dân dám nói, dám làm, dám bày tỏ quan điểm của
mình. Góp phần xây dựng một đất nước trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt tác
động của dư luận xã hội lên lĩnh vực pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng
11
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Tập bài giảng xã hội học, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND năm
2009.
• Tập bài giảng xã hội học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb
Thống kê năm 2004.
• Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010.
• www.talieu.vn
13