Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

trình bày và phân tích những đặc điểm của triết học thực chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.54 KB, 7 trang )

Website:


Email :
Trình bày và phân tích những đặc điểm của triết học thực chứng
Sự ra đời và phát triển của triết học thực chứng có mối liên hệ trực
tiếp với hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa thực chứng.
- Vào giữa thế kỷ XIX giai cấp tư sản Pháp và Anh đã chiến thắng
thế lực muốn phục hồi chủ nghĩa phong kiến và đã xác lập được sự thống
trị của mình. Họ dành sự quan tâm đặc biệt cho sự phát triển khoa học kỹ
thuật để áp dụng những phát minh mới vào sản xuất nhằm hoàn thiện chế
độ tư bản chủ nghĩa, đảm bảo quyền lợi kinh tế và bảo vệ vững chắc địa
vị thống trị.
- Khoảng cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX khoa học tự nhiên đã có
những thành tựu mới, do vậy, quá trình phân tách khỏi triết học của các
khoa học tự nhiên diễn ra rất mạnh mẽ. Tiếp theo cơ học, toán học là vật
lý học, hóa học, sinh học, địa chất học v.v… đã dần tách khỏi triết học.
Các khoa học mới hình thành này đã có nhiều phương pháp nghiên cứu
mới, đặc biệt là phương pháp thực nghiệm, nhờ vậy chúng có sơ sở khá
vững chắc. Để thoát khỏi sự ràng buộc của tôn giáo để phát triển và tự
khẳng định mình, khoa học tự nhiên đã phải đấu tranh chống thần học,
chống triết học tự nhiên tự biện. Các nguyên lý khoa học mới, các tài liệu
mới của khoa học lúc đó đã mâu thuẫn gay gắt với những nguyên lý do
triết học lý tính tự biện cung cấp. Do vậy nảy sinh sự phản ứng tự nhiên
của nhiều nhà khoa học đối với những tư tưởng triết học, họ đồng nhất
mọi thứ triết học và phủ nhận vai trò của triết học đối với khoa học tự
nhiên.
- Hơn nữa sự phát triển của các khoa hcọ chính xác, đặc biệt là toán
học đã tạo nên sức hút lớn làm cho các khoa học xã hội hướng vào thành
tựu của các khoa học chính xác. Nói cách khác, trong giới khoa học,
người ta hướng tới những tri thức cụ thể, dựa trên kinh nghiệm và các


phép tính, các tri thức có thể kiểm chứng được. Uy tín của khoa học chính
xác như toán học, vật lý học v.v… được đề cao trong xã hội.
Khuynh hướng thực chứng háo mọi tri thức của con người càng nổi
lên, các nhà nghiên cứu xã hội cũng cố gắng biến các khoa học xã hội
thành các khoa học thực chứng. Triết học cũng nằm trong sự vận động đó.
Một số triết gia nhận thấy nguyên nhân chủ yếu làm cho triết học bị suy
giảm uy tín cũng chỉ vì thiếu những cơ sở vững chắc, thiếu những căn cứ
xác thực. Họ muốn có một sự thay đổi lớn tỏng triết học, họ đề xướng một
thứ triết học mới, triết học thực chứng, với hy vọng có thể đưa ra sự luận
chứng triết học, logic học - phương pháp luận cho các khoa học dựa trên
nền tảng của tri thức cụ thể, căn cứ trên kinh nghiệm, kiểm tra được và có
hiệu quả thực tiễn.
Có thể nói, triết học thực chứng ra đời, ở mức độ nhất định đã thích
ứng với trào lưu phát triển của khoa học Châu Âu. Chủ nghĩa thực chứng
đòi hỏi nhà triết học phải từ bỏ việc tìm kiếm những thực thể nào đó đầu
tiên từ bỏ những nguyên lý trừu tượng mang tính chất “siêu hình” vô bổ.
Họ cho rằng, cần thiết phải xây dựng hệ thống tri thức đúng đắn, tức là
những tri thức chính xác, dựa trên các sự kiện thực tế, đối lập với những
tri thức tư biện. Chủ nghĩa thực chứng xác định phương pháp hành động
của mình là: hướng đến tri thức có lợi trực tiếp để áp dụng nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa thực chứng là: chống khái niệm trừu tượng, xuất phát
tư sự việc thực tế, làm cho khoa học thoát khỏi sự ràng buộc của thần học
và siêu hình tư bện.
Chủ nghĩa thực chứng, gọi theo tiếng Anh là: Positivism. Nó xuất
phát từ từ gốc, theo tiếng Latinh là Positiv có nghĩa là rõ ràng, chính xác,
tích cực, có thể chỉ ra được, có thể chứng minh được.
Theo nghĩa đó, chủ nghĩa thực chứng - Positivism là học thuyết cho
rằng, mọi tri thức của con người đều cần phải được chứng thực, được
chứng minh, được kiẻm tra bằng kinh nghiệm. Nói cách khác theo học
thuyết này mọi tri thức nếu được kiểm chứng thì nó mới có ý nghĩa.

2
Chủ nghĩa thực chứng phát triển qua rất nhiều giai đoạn. Đó là giai
đoạn chủ nghĩa thực chứng sơ kì, chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm và chủ
nghĩa thực chứng mới.
Trong giai đoạn chủ nghĩa thực chứng sơ kỳ các nhà triết học thực
chứng như August Comte (1798 - 1857) John Stuart Mill (1806 -1873) và
Herbert Spencer (1820 - 1903) đều phủ nhận các giá trị của triết học
truyền thống, coi đó là những tri thức không có ích cho sự phát triển của
nhân loại. Họ đòi hỏi triết học phải từ bỏ việc tìm kiếm những thực thể
triết học nào đó đầu tiên, những nguyên lý trừu tượng mang tính chất siêu
hình, vô bổ.
Comte có ý đồ xây dựng triết học thực chứng thành triết học hoàn
thiện nhất của tinh thần khoa học hiện đại. Với khả năng luận chứng chặt
chẽ, theo comte, triết học thực chứng sẽ đem lại phương tiện để tìm ra các
quy luật logic của trí tuệ con người và sẽ cung cấp khả năng chỉ đạo các
lĩnh vực cơ bản của hiện thực. Ông dùng nguyên tắc chủ nghĩa thực
chứng xây dựng hệ thống thống nhất của khoa học để thay thế siêu hình tư
biền, đặt khoa học dưới triết học.
Mill là đại biểu đầu tiên của chủ nghĩa thực chứng ở Anh và cũng là
một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất của Anh thế kỉ XIX.
Trong triết học Mill là người kế tục Beccơli, Comte. Mill đề cao chủ
nghĩa thực chứng của Comte, tán thành với những quan điểm triết học cơ
bản của Comte và đánh giá đó là “tài sản chung của thời đại”. Mill chú
trọng xây dựng logic quy nạp.
Giai đoạn chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm và các đại biểu như
E.Makhơ (1838 - 1916), R. A vênarint (1843- 1896) khi đề xướng chủ
nghĩa phê phán kinh nghiệm Ma khơ có ý đồ vượt qua những vấn đề cơ
bản của triết học truyền thống đã nghiên cứu tức là vượt ra ngoài phạm vi
các vấn đề gọi là siêu hình học. Ông có tham vọng muốn xây dựng một
loại nhận thức luận và phương pháp luận thống nhất các ngành khoa học

3
tự nhiên nhằm tìm nền tảng chung của khoa học khác nhau. Đó cũng là lý
luận triết học của nhiều người theo chính trị đã nêu lên.
Theo quan điểm của chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm, nhiệm vụ của
khoa học và nhận thức con người không phải là phát hiện tính tất yếu
khách quan và tính nhân quả, mà là căn cứ vào nguyên tắc hiệu quả tư duy
để miêu tả hiện thực của phạm vi kinh nghiệm cảm giác và mối quan hệ
qua lại giữa chúng. Nghĩa là, miêu tả mối quan hệ giữa các sự vật tự
nhiên, liên hệ nhân quả mà triết học truyền thống và khoa học đã bàn đến
như là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau của cảm giác (yếu tố). Makhơ gọi
quan hệ phụ thuộc ấy là quan hệ hàm số về toán học. Ông không chỉ chủ
trương dùng thuyết quan hệ hàm số thay thế thuyết quan hệ truyền thống
mà còn chủ trương coi sự tồn tại của toán học thế giới là sự tồn tại của
quan hệ hàm số.
Theo Makhơ, cái ngoài kinh nghiệm đối với khoa học và tư duy lý
luận hoàn toàn là cái dưa thừa, không phù hợp với nguyên tắc hiệu quả tư
duy vì vậy chúng cần bị loại bỏ. Dựa trên quan điểm ấy, ông yêu cầu mọi
cái như bản chất, thực thể, vật tự nó , v.v…. những cái không thể thực
chứng bằng kinh nghiệm đều cần phải vứt bỏ vì không hiệu quả. Quan
điểm trên của Makhơ đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của các triết gia
thực chứng lôgic sau này.
Như vậy, theo chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm, triết học là một
phương thức lý giải những yếu tố của thế giới đã được chủ thể quan sát.
Đối tượng của triết học là sản phẩm hoạt động của chủ thể. Đó là các
nguyên tắc và các thủ thuật sắp xếp những yếu tố của thế giới theo
nguyên tắc tiết kiệm tư duy. Theo họ, khi làm như vậy, nếu triết học
không phải là khoa học theo nghĩa cơ bản của từ đó, thì dẫu sao nó cũng
là tư duy khoa học.
Theo các nhà triết học thực chứng mới, triết học không có đối
tượng, triết học không phải là lý thuyết, không phải là hệ thống các tri

thức mà là hệ thống các hoạt động phân tích - phân tích các ngôn ngữ tự
4
nhiên và ngôn ngữ nhân tạo. Theo họ, triết học là một bộ phận logic học,
nên triết học chỉ có thể tồn tại với tư cáh là hoạt động phân tích về mặt
logic và về mặt ngôn ngữ để tìm ý nghĩa những mệnh đề và của những
khái niệm của những lý thuyết khoa học.
Các nhà triết học của chủ nghĩa thực chứng mới chủ trương tìm sự
chính xác từ logic hiện đại, tiếp thu phương pháp luận của khoa học hiện
đại nhằm logic hóa khoa học hóa triết học. Nhiệm vụ mà Rátxen đặt ra là
đem lại bộ máy logic hữu hiệu cho chủ nghĩa kinh nghiệm quá khứ. Do
vậy, ông phân biệt rõ: “Chủ nghĩa kinh nghiệm phân tích hiện đại… khác
với chủ nghĩa kinh nghiệm của Lôccơ, của Beccơli và của Hium ở việc áp
dụng toán học và sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật logic”.
Các triết gia của chủ nghĩa thực chứng mới tiếp tục tập trung phê
phán triết học truyền thống, phê phán lối tư biện kiểu cũ và khẳng định sự
thiếu vắng nội dung khoa học cùa toàn bộ triết học trước kia.
Chủ nghĩa thực chứng mới hoàn toàn phủ nhận những giá trị của
triết học truyền thống. Nhiệm vụ và mục đích của triết học, được họ xác
định lại chỉ còn là “sự phân tích về mặt logic ngôn ngữ khoa học”, “là sự
phân tích ký hiệu học”, là “sự phê phán ngôn ngữ”. Mặc dù họ thừa nhận
triết học mới của họ “được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với các
khoa học thực nghiệm”, nhưng vị trí của hoạt động triết học trong khoa
học thự nghiệm chỉ là “giải nghĩa các mệnh đề của khoa học thực nghiệm
thông qua sự phân tích logic”.
Các nhà triết học của chủ nghĩa thực chứng ở các giai đoạn đều có
mong muốn các khoa học xã hội nói chung và triết học nói riêng có được
những căn cứ xác định, lập luận chặt chẽ và đạt được những thành tựu vẻ
vang như các khoa học chính sách. Vì vậy, họ đã cố gắng đưa những
phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên như phương pháp nghiên
cứu của toán học, phương pháp của vật lý, logic học, v.v… vào nghiên

cứu khoa học xã hội.
5
Ví dụ: Công tơ muốn nghiên cứu xã hội học bằng phương pháp của
vật lý học, Minlơ đưa logic quy nạp làm công cụ nghiên cứu cho triết học,
hay những nỗ lực áp dụng toán học và logic hiện đại để phân tích ngôn
ngữ như việc làm của các nhà thực chứng mới.
Nguyên tắc thực chứng mà các triết gia thực chứngnêu lên, ở chừng
mực nhất định, là những tiêu chuẩn nhằm hiện thực hóa những tri thức
của con người, làm cho con người tránh những lầm lạc vô ích, tránh sự
viển vông, trừu tượng. Chính vì vậy, có thể nói những tưởng của chủ
nghĩa thực chứng ít nhiều thể hiện tư duy khoa học, tác phong lối sống
của xã hội công nghiệp. Đó là tư duy của thời hiện đại, tư duy hợp lý và
thực tế theo khoa học chính xác, tiết kiệm công sức và thời gian, hướng
đến hiệu quả và lợi ích thiết thực, ở khía cạnh khác, nguyên tắc thực
chứng để xác minh tính đúng đắn của trí thức mà chủ nghĩa thực chứng
nêu lên có vai trò nhất định trong việc loại bỏ những giả định mà những
định kiến của con người, hoặc tôn giáo đặt ra như là những hạn chế đối
với khoa học. Nó tránh những hậu quả do những quy ước tùy tiện có thể
thay đổi vào bất cứ lúc nào khi mà đại đa số các nhà khoa học cho rằng sự
thay đổi như vậy là cần thiết. Bởi trên thực tế, các tri thức gọi là khoa học
không phải có sự thay đổi.
Việc các nhà thực chứng bằng mọi cách loại bỏ các vấn đề triết học
chân chính khỏi khoa học và tách khỏi nghiên cứu khoa học cụ thể khỏi
những tiền đề có tính chất triết học không những dẫn đến chỗ xuyên tạc
mối quan hệ qua lại, khách quan và hợp quy luật giữa triết học và khoa
học tự nhiên mà còn dẫn đễn chỗ xuyên tạc bản chất chân chính của quá
trình nhận thức. Bởi vì, tất cả mọi người đều biết rằng, các tiền đề triết
học không những có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn khủng
hoảng của sự phát triển khoa học và giai đoạn đổ vỡ của các quan niệm
khoa học cụ thể, mà ngay chương trình hoạt động khoa học cụ thể của bất

cứ nhà khoa học nào cũng đều phải thông qua những quan niệm, những
tiền đề, những lý thuyết triết học nhất định về thế giới và về quá trình
6
nhận thức các hiện tượng, các sự vật của thế giới ấy. Trong công tác
nghiên cứu của các nhà khoa học, nếu xuất phát từ một tiền đề triết học
sai lầm, nhà khoa học sẽ không thể có được kết quả nghiên cứu đúng đắn.
Như vậy, có thể thấy, chủ nghĩa thực chứng nuôi hy vọng có thể
vượt lên cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm và tuyên bố rằng, cả
hai chủ nghĩa đó là không cần thiết đối với khoa học. Cho nên, ở các giai
đoạn, các triết gia thực chứng đều muốn giải thích, muốn xác định lại nội
dung và đối tượng của triết học cũng như xác định lại mối quan hệ của
triết học đối với khoa học. Nhưng, do xuất phát từ lập trường của chủ
nghĩa duy tâm và quá đề cao vai trò của kinh nghiệm cho nên kết quả mà
các triết gia thực chứng ở cả ba giai đoạn thu được, tuy có những giá trị
nhất định, song, cũng còn nhiều hạn chế. Từ hạn chế lớn nhất là phủ nhận
hoàn toàn vai trò của triết học truyền thống đối với khoa học, họ đã xác
định sai lầm đó đối tượng nghiên cứu của triết học và từ đó dẫn đến sai
lầm trong quan niệm về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên.


7

×