Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

giá vàng ở việt nam năm 2012 thực trạng, nguyên nhân và những giải pháp của chính phủ đối với thị trường này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.83 KB, 10 trang )

Mở đầu
Với nhiều đặc tính nổi bật, từ lâu vàng đã được con người coi là thứ kim
loại quý báu và được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực : làm đồ trang
sức, chế biến đồ ăn, ứng dụng trong công nghiệp, sử dụng rộng rãi trên
khắp thế giới như một phương tiện chuyển đổi tiền tệ,là một dạng tiền và
vật cất trữ của cải Tuy nhiên giá vàng lại luôn biến động và ảnh hưởng
không nhỏ đến sự ổn định của nền kinh tế, nhiều người dân bị thiệt hại
khi chạy theo giá vàng, mặc dù chính phủ đã có nhiều biện pháp kiểm
soát. Để đem đến cái nhìn khái quát nhất về vấn đề này, em xin thực hiện
đề tài: “Giá vàng ở Việt Nam năm 2012: thực trạng, nguyên nhân và
những giải pháp của chính phủ đối với thị trường này”.

Nội Dung
Chương I:thực trạng giá vàng năm 2012 ở việt nam.
1.Tình hình giá vàng các tháng năm 2012.
iá vàng (xem bảng giá trang phụ lục).
Diễn biến thị trường vàng năm 2012 :
Biến động về giá
Năm 2012, giá vàng thế giới biến động liên tục, nằm ngoài dự đoán của
giới chuyên gia.Giá vàng trong nước cũng chịu tác động của giá vàng thế
giới nhưng phần lớn lại được điều chỉnh dưới tác động của các chính sách
điều hành. Từ mức giá 42,7 triệu đồng/lượng đầu năm 2012, đến cuối
năm giá vàng trong nước giao động đã ở mức trên 46 triệu đồng/ lượng,
tăng từ 3,5 đến xấp xỉ 4 triệu đồng/lượng, tương đương khoảng trên 8%.
Trong năm 2012 thị trường ghi nhận 2 cơn sốt vào thời điểm tháng 8 (giá
vàng trong nước tăng do giá vàng thế giới tăng) và tháng 11 (do các ngân
hàng đóng trạng thái vàng).Cụ thể, đầu tháng 8/2012, dòng tiền ồ ạt đổ
vào thị trường đã đẩy giá mặt hàng này tăng nhanh từng ngày.Trái ngược
với tình cảnh ảm đạm như các kênh đầu tư khác, thị trường vàng thực sự
“dậy sóng”. Giá tăng mạnh vượt qua mốc 43 triệu đồng/lượng chỉ trong
một thời gian ngắn rồi đứng ở mức cao, dù diễn biến giá vàng trên thị


trường thế giới đã bớt “nóng”. Từ cuối tháng 10 kéo sang tháng 11, thị
trường vàng trong nước thêm một lần nữa lại “dậy sóng”. Nguyên nhân
cơ bản của cơn “sóng vàng” lần này là do các ngân hàng thương mại
(NHTM) đẩy mạnh mua vào để chạy trước thời hạn 25/11/2012 theo quy
định của Nghị định 24/2012/ NĐ-CP, khiến thị trường khan hiếm, đẩy giá
tăng. Dù có những cơn “sốt” giá trên nhưng so với năm 2011, giá vàng
năm 2012 vẫn không chạm đỉnh kỷ lục của năm trước (49 triệu
đồng/lượng). Giá vàng xác lập đỉnh trong năm 2012 đạt mức xấp xỉ 48,5
triệu đồng/lượng (vào trung tuần tháng 10, đầu tháng 11). Thị trường
vàng cũng không chứng kiến cảnh người dân rồng rắn xếp hàng mua bất
chấp giá vàng tăng phi mã và vô lý như năm 2011. Tình trạng buôn lậu
vàng cũng đã cơ bản được khống chế… Điều này có ý nghĩa rất quan
trọng, tác động đến điều hành chính sách tiền tệ, trong đó đã tác động tích
cực đến tỷ giá.Đây cũng là sự ghi nhận tích cực về sự quyết liệt của cơ
quan quản lý, trực tiếp là Ngân hàng Nhà nước (NHNN).Tuy nhiên, thực
tế năm 2012 cho thấy, tình trạng chênh lệch giá vàng trong nước cao hơn
giá vàng thế giới kéo dài từ nhiều năm nay vẫn chưa được xử lý triệt để,
trái lại còn trầm trọng hơn. Vào thời điểm cuối tháng 12, giá vàng trong
nước đã cao hơn giá thế giới tới 4,5 triệu đồng/lượng. Nếu cộng cả chi
phí chế tác và gia công vàng, các loại thuế và phí liên quan thì giá vàng
trong nước cũng chỉ chênh so với giá thế giới 1%. Mức chênh 4,5 triệu
đồng/lượng (tương đương 9,8%) như phiên giao dịch trên thị trường vàng
ngày 20/12/2012 là nghịch lý đầy bất thường. Nghịch lý này rõ ràng
không thể đổ cho tâm lý đám đông của người dân như trước đây, mà là do
90% lượng vàng SJC được bán cho các doanh nghiệp (DN) kinh doanh
vàng bạc, các ngân hàng, tổ chức tín dụng, chỉ 10% là được bán cho
người dân. Sự chênh lệch này hoàn toàn đi ngược lại mục tiêu của Nghị
định 24/2012/ NĐ-CP là bình ổn thị trường vàng trong nước, chống đầu
cơ làm giá đối với mặt hàng nhạy cảm này.
Chương 2 nguyên nhân dẫn đến thị trường vàng biến

động như năm 2012.
- Bất cập trong quản lý
Diễn biến của thị trường vàng năm 2012 cũng nổi lên nhiều bất cập trong
quản lý thị trường, có thể nhìn nhận từ nhiều góc độ: quản lý nhà nước,
DN và người dân. Việt Nam đang quản lý thị trường vàng theo kiểu “một
mình một chợ”, thiếu hội nhập và liên thông với thế giới. Cả trong quá
khứ và hiện tại, trên thế giới chưa một ngân hàng trung ương nào có
chính sách chỉ duy trì một thương hiệu vàng và độc quyền sản xuất vàng
miếng.Việc quản lý này đã lẫn lộn giữa chức năng quản lý nhà nước và
kinh doanh.NHNN điều tiết thị trường bằng biện pháp hành chính, mệnh
lệnh (cấp giấy phép chuyển đổi, quản lý máy móc sản xuất của DN ), bỏ
qua các yếu tố cung - cầu của thị trường dẫn đến bế tắc trong sản xuất và
lưu thông.Điều này đã tạo ra khan hiếm cung - cầu giả tạo. Mặt khác, với
việc sử dụng DN (G5+1) để can thiệp thị trường, cho phép các DN này
bán vàng huy động của dân mà không được nhập khẩu để trả lại lượng
vàng vật chất đã bán dẫn đến tình trạng khi đóng trạng thái vàng đẩy giá
vàng trong nước liên tục lên cao và chênh lệch quá lớn so với giá thế giới.
Theo quy luật thị trường, chức năng hoạt động cơ bản của DN là sản xuất,
kinh doanh, tạo lợi nhuận và đóng góp cho ngân sách nhà nước. Việc các
DN tham gia bình ổn giá vàng khi không được chuyển đổi các trạng thái
vàng mua ở tài khoản sang vàng vật chất để mang về bù đắp bắt buộc
phải mua vàng trong nước, kết quả là không những bản thân các DN này
bị thua lỗ mà còn không đóng góp được cho NSNN. Do đó, việc thông
qua các DN để bình ổn giá vàng đã không giải quyết được bế tắc của thị
trường và vai trò bình ổn thị trường vàng của NHNN không có hiệu quả.
Mặt khác, việc độc quyền một thương hiệu khiến người dân nếu không
muốn bị tước đoạt quyền sở hữu các thương hiệu vàng khác phải chấp
nhận bán rẻ hơn SJC từ 2-3 triệu đồng/lượng cho dù chất lượng không
khác nhau.
Từ sự quản lý như vậy dẫn đến hệ quả là thị trường vàng Việt Nam phát

triển thiếu minh bạch, thiếu những giải pháp căn cơ và mang tính chiến
lược.
Chương 3 giải pháp của chính phủ đối với thị trường
vàng năm 2012.Và những yêu cầu , giải pháp để ổn định
thị trường vàng trong năm 2013.
3.1 Quyết sách cho thị trường
Ngày 3/4/2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về
quản lý hoạt động kinh doanh vàng và có hiệu lực thi hành từ ngày
25/5/2012, thay thế Nghị định 64/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định
174/1999/NĐ-CP. Nghị định 24/2012/NĐ-CP ra đời nhằm chấn chỉnh lại
thị trường vàng. Tuy nhiên, từ khi Nghị định 24/2012/NĐ-CP có hiệu lực
cho đến nay, sau gần nửa năm thực hiện, cơ chế quản lý thị vàng đã cho
thấy nhiều điểm bất ổn.Hoạt động của thị trường vàng trong nước xem ra
vẫn chưa được như kỳ vọng của NHNN, đúng như các đại biểu Quốc hội
đã chất vấn Thống đốc tại kỳ họp Quốc hội ngày 13/11/2012.
Theo quy định của Nghị định 24/2012/NĐ-CP, Nhà nước độc quyền sản
xuất vàng miếng, xuất và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng
miếng với đầu mối đại diện Nhà nước để sản xuất vàng miếng là Công ty
Vàng bạc đá quý Sài Gòn, thương hiệu SJC. Các DN đã từng được cấp
giấy phép sản xuất vàng miếng trước kia giờ đây đều bắt buộc phải ngừng
sản xuất. Tuy nhiên, cách thức triển khai cũng như công tác tuyên truyền
không đầy đủ đã khiến thị trường trở nên rối loạn.Sự khẳng định của
Chính phủ “Quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công
nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật” đã trấn an người có vàng về
nguy cơ không được trữ vàng đã được đồn đại trước đó. Tuy nhiên, cánh
cửa đối với người có vàng cũng hẹp hơn, vì họ chỉ có thể lựa chọn giữ tại
nhà, gửi ngân hàng giữ hộ có mất phí (theo quy định của Thông tư
12/2012/TT-NHNN) hoặc bán đi, vì Nghị định 24/2012/NĐ-CP quy định
rõ 7 hành vi vi phạm, trong đó có sử dụng vàng làm phương tiện thanh
toán. Mặc dù nhiều ý kiến e ngại sẽ khó thực hiện quy định cấm thanh

toán bằng vàng vì tập quán này tồn tại từ lâu đời.Thế nhưng, thực tế sau
hơn nửa năm Nghị định 24/2012/NĐ-CP có hiệu lực, việc thanh toán
bằng vàng đã giảm mạnh, những niêm yết công khai hoàn toàn chấm dứt.
Nguyên nhân là người dân không còn mặn mà với vàng như trước kia.
Bởi vậy, kể cả khi giá biến động, giá vàng trong nước cao hơn giá vàng
thế giới 3 triệu đồng/ lượng thì cũng không còn hiện tượng đổ xô đi mua
vàng, tỷ giá VND/USD cũng được giữ bình ổn. Đây được coi là một
thành công của đề án chống vàng hóa mà NHNN triển khai.
3.2 Yêu cầu và giải pháp về điều hành giá:
Trước yêu cầu đặt ra đối với thị trường vàng Việt Nam là cần thu hẹp
chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới. Điều này không những
sẽ có tác động tích cực tới việc kiềm chế lạm phát mà còn tạo sự liên
thông với thị trường quốc tế trong xu thế hội nhập.Để giải quyết được vấn
đề trên, vai trò chủ đạo được đặt vào tay của NHNN. Tuy nhiên, cũng cần
lưu ý đến yếu tố biến động tỷ giá tác động đến giá vàng.Nếu tỷ giá tăng
sẽ làm cho giá vàng thế giới tính bằng USD dù không tăng nhưng quy đổi
ra VND vẫn sẽ tăng.Việc tỷ giá ổn định, chẳng những tác động tích cực
đến kiềm chế lạm phát mà còn giữ ổn định giá vàng.Nhằm thu hẹp
khoảng chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới thì Nhà nước
phải nắm được vàng, nghĩa là làm sao để dân gửi vàng vào NHNN. Cùng
với đó, cần tháo dỡ cơ chế cấp quota và cân bằng thuế suất xuất/nhập
vàng. Theo đó, khi giá vàng trong nước thấp, NHNN sẽ mua vàng vật
chất từ DN/người dân theo giá thế giới quy đổi và bán vàng tài khoản ra
nước ngoài để bảo hiểm rủi ro. Khi giá vàng trong nước cao, sẽ áp dụng
biện pháp ngược lại là bán vàng vật chất cho DN/người dân và mua vàng
tài khoản. Điều này sẽ khiến Nhà nước mất một “khoản phí” nhất định,
nhưng bù lại cũng có nhiều “cái được” là giữ được dự trữ vàng, triệt tiêu
động cơ xuất vàng, loại bỏ được tác động của giá vàng lên tỷ giá
VND/USD và tạo được niềm tin trong dân. Đây là công cụ thị trường
mang tính “can thiệp chủ động” và dài hạn hơn rất nhiều so với cơ chế

thụ động như hiện tại.
Về quản lý thị trường
: Để quản lý được thị trường một cách hiệu quả, minh bạch tạo động lực
cho sự phát triển của bất kỳ thị trường nào thì cần phải tuân thủ, quán
triệt các nguyên tắc của thị trường, thị trường vàng cũng không nằm
ngoại lệ. Như vậy, NHNN chỉ thực hiện chức năng quản lý và hoạch định
chính sách, chỉ điều tiết dự trữ ngoại hối bằng vàng theo Pháp lệnh Ngoại
hối, Luật NHNN, Luật Các tổ chức tín dụng mà không tham gia sản xuất
kinh doanh hoặc điều tiết thị trường bằng các biện pháp hành chính,
không trực tiếp can dự việc kinh doanh của các DN. Các DN đáp ứng đủ
điều kiện sản xuất - kinh doanh thì phải để họ tự hoạt động theo cơ chế
thị trường. Nhà nước chỉ quản lý chất lượng, trọng lượng vàng, nhãn hiệu
như các DN đã đăng ký, cho phép nhiều thương hiệu cùng tồn tại thay vì
độc quyền.Khi đã quy định điều kiện kinh doanh thì không được “đẻ ra”
các thủ tục xin - cho, cấp giấy phép con.
Bên cạnh đó, phải dần chuyển đổi từ thị trường vàng vật chất sang thị
trường vàng có nhiều sản phẩm phái sinh, tạo cho các DN và nhà đầu tư
có thêm nhiều công cụ bảo hiểm rủi ro và hội nhập, tiếp cận được những
sản phẩm tài chính thông dụng trên thị trường quốc tế. Đảm bảo quyền sở
hữu vàng hợp pháp của tổ chức và cá nhân như quyền nắm giữ, chuyển
nhượng, thế chấp, cầm cố theo quy định của pháp luật, đồng thời phải
hạn chế việc sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán.
Qua việc áp dụng quy định của Nghị định 24/2012/NĐ-CP đã nảy sinh
một số bất cập, cần sửa đổi cho phù hợp. Cụ thể cần đề cập toàn diện hơn
các sản phẩm và dịch vụ tài chính liên quan tới vàng chứ không đơn
thuần chỉ quản lý vàng miếng và vàng trang sức. Nhà nước quản lý đầu
vào là vàng nhập khẩu, vàng nguyên liệu thu mua trôi nổi trên thị trường
bằng số lượng vàng miếng sản xuất ra. Mặt khác, tạo lập một hệ thống
phân phối trên thị trường cho phép người dân ở mọi vùng miền đều được
hưởng lợi, có điều kiện giao dịch thuận lợi. Đồng thời, chuyển hướng từ

giao dịch vàng miếng sang giao dịch các sản phẩm khác của vàng (chứng
chỉ vàng, vàng tài khoản ) trên một trung tâm giao dịch tập trung. Vì
vậy, cần sớm thành lập một Sở giao dịch hàng hoá trong đó có vàng như
nhiều nước đã làm. Các thành viên tham gia phải đáp ứng những tiêu
chuẩn chặt chẽ, được phép xuất nhập vàng căn cứ quy định do Sở ban
hành.
Kết luận
Năm 2012, thị trường vàng Việt Nam có nhiều biến động không chỉ về
giá, cung – cầu mà còn đón nhận nhiều quyết sách từ phía cơ quan quản
lý dù hiệu lực của chính sách chưa thực sự khả quan.Năm 2013, dự báo
thị trường vàng sẽ vẫn còn tiềm ẩn nhiều diễn biến phức tạp, cần nhiều
giải pháp, quyết sách điều hành kịp thời, linh hoạt để phát triển ổn định.




Danh mục tài liệu tham khảo:
1. />va-giai-phap-binh-on/22140.tctc
2. />hinh-gia-vang-10-thang-dau-nam-2012/15466.tctc
3. />nam-2013/20131/159402.vgp
4. Phân tích và thống kê diễn biến giá vàng trong nước năm 2012 - NDH
Money và Tổng cục Thống kê
5.Báo cáo tổng kết của Ngân hàng Nhà nước năm 2012 và nhiệm vụ năm
2013;
6.ThS. Trần Trọng Quốc Khanh: Phân tích thị trường vàng – Có hay
không thị trường ảo?.















Giải thích từ ngữ viết tắt:

1. NHNN: Ngân Hàng Nhà Nước
2. DN : Doanh Nghiệp
3. NSNN : Ngân Sách Nhà Nước
4. VND : Việt Nam Đồng
5. USD : Đô la Mĩ





















Phụ lục

Ảnh minh họa (nguồn internet)

Giá vàng (triệu đồng/lượng)
Tháng 1/2012 43,75
Tháng 2/2012 44,89
Tháng 3/2012 44,23
Tháng 4/2012 43,05
Tháng 5/2012 41,59
Tháng 6/2012 41,92
Tháng 7/2012 41,79
Tháng 8/2012 42,98
Tháng 9/2012 46,35
Tháng 10/2012 47,36
Tháng 11/2012 46,42
Tháng 12/2012 46,63

Số liệu của Vụ Tài chính Ngân hàng (Bộ Tài chính) .











Mục lục
Mở đầu . 1
Nội Dung . 1
Chương I:thực trạng giá vàng năm 2012 ở việt nam. 1
1.Tình hình giá vàng các tháng năm 2012. 1
Chương 2 nguyên nhân dẫn đến thị trường vàng biến
động như năm 2012. 3
- Bất cập trong quản lý . 3
Chương 3 giải pháp của chính phủ đối với thị trường
vàng năm 2012.Và những yêu cầu , giải pháp để ổn
định thị trường vàng trong năm 2013. 4
3.1 Quyết sách cho thị trường . 4
3.2 Yêu cầu và giải pháp về điều hành giá: 5
Về quản lý thị trường . 6
Kết luận . 7
Danh mục tài liệu tham khảo: 8
Giải thích từ ngữ viết tắt: 9
Phụ lục . 10





















×