Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Xử lý thuế trong thời gian tới nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống thuế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.72 KB, 43 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là nguồn thu ổn định của Nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập
quốc dân, thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế và là công cụ bảo vệ kinh tế trong
nước, cạnh tranh với nước ngoài.
Từ năm 1999 trở về trước, chúng ta đã sử dụng thành công cơ chế thuế cũ,
tuy nhiên trong tình hình mới , do xu hướng toàn cầu hoá chung của thế giới, cơ
chế thuế hiện hành ở Việt Nam đã lộ rõ một số mặt bất cập, dẫn đến khó khăn về
quản lý, điều hành thuế và thất thu Ngân sách quốc gia.
Vì vậy việc áp dụng một số luật thuế mới trong giai đoạn này là hết sức cần
thiết. Trong đó thuế giá trị gia tăng (GTGT) đã có những đóng góp quan trọng cho
tiến trình cải cách chính sách thuế của Nhà nước.
Trên thế giới, thuế GTGT (hay còn gọi là VAT) đã có lịch sử lâu đời (bắt
đầu xuất hiện năm 1917) và qua quá trình kiểm nghiệm ở nhiều nước trên thế giới,
nó đã thể hiện được tính ưu việt của mình so với các loại thuế tương đương. Mặc
dù vậy một số nước cũng đã áp dụng không thành công thuế GTGT do chưa chuẩn
bị kỹ cơ sở hạ tầng cho một có chế thuế mới cũng như do chưa nắm bắt rõ bản chất
loại thuế này.
Chính vì vậy mục đích của đề án này là tìm hiểu bản chất của thuế GTGT,
đánh giá tình hình thực hiện ở Việt Nam trong những năm vừa qua và đề xuất
những biện pháp xử lý thuế trong thời gian tới nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ
thống thuế ở Việt Nam.

1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ GTGT
I. Thuế giá trị gia tăng (GTGT)
1. Khái niệm.
Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
2. Sự ra đời và phát triền của thuế GTGT.


Năm 1954 thuế GTGT lần đầu tiên ra đời tại Pháp dưới hình thức thuế đánh
vào giai đoạn sản xuất. Đến năm 1968, thuế này được nhập vào thuế lưu thông
đánh vào dịch vụ và thuế địa phương đánh vào lưu thông bán lẻ thành một loại thuế
thống nhất chung thu ở giai đoạn bán lẻ (viết tắt theo tiếng Pháp là TVA). Từ đó
đến nay do tính ưu viết của mình, thuế GTGT ngày càng được sử dụng rộng khắp ở
nhiều nước trên thế giới. Thuế GTGT được sớm áp dụng ở Châu âu, chỉ hơn hai
mươi năm sau khi ra đời hình thức sơ khai đầu tiên, nó đã được coi là một trong
những điều kiện tiên quyết để gia nhập khối EC (năm 1977).
Tính đến năm 1995, trên thế giới có tới hơn 100 nước áp dụng thuế GTGT.
Riêng Châu á kể từ năm 80 trở lại đây đã có sự gia tăng vượt bậc về số lượng các
thành viên sử dụng VAT. Đầu tiên là Triều Tiên (1977), tiếp đến là Indonexia
(1985), Đài Loan (1986), Philipine (1988), Mông Cổ (1993), Trung Quốc (1994) và
Việt Nam (1999).
Việc áp dụng một phương pháp tính thuế mới ở một quốc gia không phải là
vấn đề đơn giản, hệ thống thuế ảnh hưởng trực tiếp đến ngân sách và vấn đề phát
triển kinh tế của quốc gia đó. Chính vì vậy, không chỉ ở những nước đang phát
triển mà ở một số nước kinh tế phát triển, do những quan điểm khác nhau trong
việc nghiên cứu nên quyết định áp dụng thuế GTGT kéo dài trong nhiều năm như:
Nhật Bản đưa ra đề nghị áp dụng GTGT từ những năm 1955 đến năm 1986 nhưng
tháng 4 năm 1989 mới thực hiện.

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Newzeland: Phản đối kịch liệt thuế GTGT vào đầu những năm 80 nhưng đã
ban hành GTGT tháng 5 năm 1986.
Hy Lạp đồng ý chuyển sang GTGT khi ra nhập EC năm 1981 với tư cách
một thành viên chính thức, nhưng đến tháng 1 năm 1987 mới ban hành GTGT.
Canada ban đầu cũng rất phản đối việc ban hành GTGT thay thế cho thuế bán lẻ
đang được lưu hành ở các bang song đến tháng 1 năm 1991, GTGT đã được ban
hành.

Thuỵ Sỹ đã phản đối đề nghị ban hành GTGT thay thế cho bán lẻ hiện hành.
Song tháng 1 năm 1995, Thuỵ Sỹ đã ban hành GTGT.
3. Tại sao lại chọn thuế GTGT
Thuế GTGT ra đời là một chu cầu tất yếu đối với nền kinh tế khi cơ cấu thuế
cũ không còn đáp ứng được nhu cầu trong tình hình mới. Nói chung các yêu cầu đó
có thế chia thành bốn dạng sau:
Thứ nhất: Thuế doanh thu hiện hành không đáp ứng được yêu cầu thu và
quản lý, có nhiều bất hợp lý (như trùng lặp, quá phức tạp gây tâm lý nặng nề, hiệu
quả không cao).
Thứ hai: Do quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, yêu
cầu mở rộng lưu thông hàng hoá giữa các nước đòi hỏi bãi bỏ, giảm thuế ở cửa
khẩu đối với xuất nhập khẩu hàng hoá là rất quan trọng, nó giúp kích thích các
nghành sản xuất dịch vụ trong nước, khuyến khích xuất khẩu những tiềm lực quốc
gia và góp phần thúc đẩy những mặt hàng thiết yếu. Trong xu thế hiện nay, không
thể tồn tại nền kinh tế đóng, hoặc gần như đóng do những rào cản thuế quan bất
hợp lý. Thuế GTGT ra đời đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu trên.
Thứ ba: Tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và có điều kiện thu hẹp các
loại thuế khác. Đa số các cơ chế thuế hiện hành của các nước khi chưa áp dụng
thuế GTGT đều cồng kềnh, phức tạp và có nhiều sự chồng chéo, điều đó gây khó
khăn cho việc quản lý thuế của Nhà nước (như tính thuế, thu thuế, giải quyết các

3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường hợp quá hạn thuế, miễn thuế..) cũng như việc kinh doanh của người dân.
Tình trạng này dễ dàng gây ra tâm lý ngại thuế, tránh thuế làm thất thu cho Ngân
sách một khoản không nhỏ. Để giải quyết các vấn đề trên cần phải có một cơ chế
thuế mới phù hợp và rõ ràng đối với tất cả mọi người, và thuế GTGT là một giải
pháp.
Thứ tư: Sự phát triển của kinh tế đòi hỏi sửa đổi hệ thống thuế cho phù hợp.
Chúng ta đã biết rằng mỗi một thời kỳ phát triển kinh tế cần phải có một hệ thống

chính sách quản lý cho phù hợp, không có một cơ chế nào dúng cho mọi lúc mọi
nơi. Vấn đề quản lý thuế cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Như vậy thuế GTGT ra đời trước hết để đáp ứng tình hình mới, sau một thời
gian được áp dụng và kiểm nghiệm, thuế GTGT được đại đa số các nước trên thế
giới thừa nhận về những ưu điểm nổi bật của nó ở các mặt sau:
a. Khắc phục được một số mặt hạn chế của thuế doanh thu hiện hành.
Có khả năng mang lại nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước. Kinh nghiệm
của các nước: Indonexia, Newzeland, Bồ Đào Nha và Tuinidi đã chứng minh rõ
điều này. Đại đa số các nước áp dụng thuế GTGT, khoản thu từ số thuế này thường
đảm bảo từ 12% đến 30% tổng số thu của Ngân sách Nhà nước (tương đương
khoảng 5% đến 10% tổng sản phẩm quốc dân).
b. Tính trung lập: Với điều kiện số lượng đối tượng được miễn hạn chế và
sự vận dụng thuế suất 0% chỉ hạn chế đối với hoạt động xuất khẩu, GTGT là một
thứ thuế trung lập và không dẫn đến bất kỳ một sự méo mó nào. Điều này thể hiện
tính ưu việt của thuế GTGT so với các loại thuế được nó thay thế.
c. Tính đơn giản: Tính đơn giản của thuế GTGT bắt nguồn từ cơ chế đánh
thuế và khấu trừ thuế của nó. Đối tượng nộp thuế GTGT sẽ thu số GTGT khi bán
hàng và khấu trừ số thuế GTGT đã nộp khi mua vật tư, hàng hoá đầu vào, số chênh
lệch còn lại nộp vào Ngân sách Nhà nước. (Việc tính thuế căn cứ vào các hoá đơn
bán hàng và mua hàng).

4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. Nội dung chủ yếu của thuế GTGT
1. Xác định phạm vi áp dụng
Về đối tượng chịu thuế: GTGT là loại thuế đánh vào sử dụng, có nghĩa là
đánh vào người tiêu dùng, người nộp thuế là người kinh doanh, người chịu thuế là
người tiêu dùng trực tiếp và gián tiếp nộp thuế thông qua người kinh doanh.
Đối tượng nộp thuế: Tất cả các thể nhân và các pháp nhân có cung cấp hoặc
nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.

Một số nước dùng doanh thu để giới hạn đối tượng nộp thuế. Ví dụ: Không
phải là đối tượng nộp GTGT, đối với các doanh nghiệp có mức doanh thu hàng
năm thấp hơn:
+ 200.000 pê xô (Philipines).
+ 200.000 Sek (Thuỵ Điển).
+ 30.000 Can D (Canada).
+ 100.000 DDK (Đan Mạch).
+ 1.000.000 Sin D (Singapore).
+ 60.000 D (Indonexia).
Có nước áp dụng hình thức thu khoán đối với đối tượng kinh doanh vừa và
nhỏ. Như vậy, việc xác định đối tượng nộp thuế là để nhằm giới hạn đối tượng nộp
thuế, loại trừ bớt số lượng lớn về quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ.
Trong giai đoạn chuyển đổi từ thuế doanh thu sang áp dụng GTGT, thường có ba
hình thức triển khai áp dụng GTGT.
Hình thức thứ nhất: áp dụng GTGT toàn bộ, có nghĩa là áp dụng đối với các
đối tượng nộp thuế hoạt động ở tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, buôn bán
và bán lẻ. Điển hình áp dụng hình thức này là các nước: Thuỵ Điển, Pháp, Thái
Lan, Hungari.
Hình thức thứ hai: áp dụng GTGT từng phần, tức là áp dụng đến từng khâu
của quá trình luân chuyển sản phẩm hàng hoá. Ví dụ: Indonexia, Nhà nước ban

5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hành đạo luật từ năm 1983, nhưng do trình độ quản lý của cán bộ nghành thuế và
nhận thức của người nộp thuế nên đến năm 1985, đạo luật thuế mới được thi hành
và thực hiện theo từng bước như sau:
+ Năm 1985: Đối tượng nộp thuế là những người sản xuất.
+ Năm 1989: Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các đại lý bán buôn.
+ Năm 1993: Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các cửa hàng bán lẻ.
Hình thức thứ ba: Thực hiện thí điểm GTGT đối với một số nghành. Điển

hình áp dụng hình thức này là Trung Quốc. GTGT được ban hành và thực hiện thí
điểm từ năm 1980 đến 18/9/1994 được ban hành chính thức. Bước thí điểm chỉ áp
dụng với các sản phẩm: xe đạp, quạt điện, kim khí, máy móc thiết bị, phụ tùng,
động cơ, thép. Năm 1986 mở rộng diện đối với các sản phẩm công nghiệp nhẹ, vật
liệu xây dựng, khoáng sản kim loại.
Qua tổng kết đánh giá của các nước, trong ba hình thức tiến hành GTGT,
hình thức toàn bộ là hiệu quả nhất. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi phải có sự
chuẩn bị rất đầy đủ về luật, các văn bản hướng dẫn luật, trình độ hiểu biết của
người nộp thuế, trình độ quản lý của từng cơ quan thuế, chứng từ hoá đơn, ý thức
chấp hành luật...
Hình thức áp dụng GTGT ở từng khâu kết quả bị hạn chế, còn hình thức áp
dụng thí điểm ở phạm vi hẹp, ở một số ngành là không đem lại kết quả.
2. Các hình thức tính thuế GTGT
Ở các nước đã thực hiện GTGT hiện nay áp dụng một trong hai phương pháp
khấu trừ theo hoá đơn và phương pháp tính chênh lệch theo báo cáo kế toán.
a. Phương pháp khấu trừ theo hoá đơn:
Đây là phương pháp được hầu hết các nước áp dụng do: Tính thuế dựa vào
hoá đơn đảm bảo xác định thuế có cơ sở để kiểm tra thuế. Có thể áp dụng chính
sách thuế với nhiều thuế suất (nếu thu thuế theo chênh lệch chỉ có thể áp dụng một
thuế suất). Có thể tính GTGT thu thuế theo thời gian ấn định một tháng, hai tháng

6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hay một quí.
b. Phương pháp thu GTGT trên chênh lệch theo báo cáo kế toán:
Phương pháp này xác định thuế phải dựa trên số liệu báo cáo kế toán của đơn
vị áp dụng phương pháp này sẽ có những vấn đề sau:
Thứ nhất: Các xí nghiệp coi GTGT chỉ là thuế bổ xung đánh vào lợi nhuận,
còn các nhân viên của họ thì coi đó là lại thêm một thứ thuế nữa đánh vào quĩ tiền
lương.

Thứ hai: Báo cáo chỉ kêt thúc một lần trong năm, vậy là tất cả các khoản
thanh toán GTGT phải dựa vào kết toán năm.
Thứ ba: Khó kiểm tra thuế phải nộp từng kỳ so với phương pháp sử dụng hoá
đơn và không có cơ sở để tiến hành các cuộc kiểm tra chéo thuế giữa đơn vị mua và
bán.
Mô hình GTGT Nhật Bản được sử dụng theo phương pháp này (1/4/1989):
Thu GTGT trên cơ sở báo cáo kế toán với một thuế suất là 3% và đã quyết định
điều chỉnh lên 5% để thi hành từ tháng 4/1997. Nhật Bản không phát hành hoá đơn
áp dụng riêng đối với thuế GTGT vì các doanh nghiệp phản ứng, theo phương pháp
tính thuế hiện hành các doanh nghiệp tự tính và nộp thuế. Các doanh nghiệp nhỏ
không phải nộp thuế GTGT.
3. Thuế suất
Thông thường, để đạt được số thu tương đương so với số thu hiện hành của
thuế doanh thu mà nó thay thế, GTGT phải có mức thuế suất cao hơn (thường là
gấp ba lần thuế suất doanh thu). Vì GTGT chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của hàng
hoá hay sản phẩm qua mỗi lần luân chuyển hàng hoá (danh mục các nước áp dụng
thuế GTGT và thuế suất GTGT).
Có hai cơ chế thuế suất được áp dụng:
+ Cơ chế một thuế suất (không kể thuế suất 0% áp dụng với xuất khẩu và
một số mặt hàng thiết yếu (nếu có). Trong số 100 nước thì có 44 nước áp dụng

7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
GTGT với cơ chế một thuế suất, trong đó Đan Mạch là một nước có mức thuế suất
cao nhất (32%). Nhật, Singapore la nước có mức thuế suất thấp nhất (3%).
+ Cơ chế nhiều thuế suất (không kể thuế suất 0%).
Trong số các nước còn lại áp dụng GTGT với có chế nhiều thuế suất thì số
lượng thuế suất giao động từ 2 đến 5 (trường hợp Colombia 5 thuế suất). Thuế suất
thấp nhât la 1% (Bỉ, Thổ Nhĩ Kỳ), 2% (Nam Triều Tiên) và thuế suất cao nhất là
50% (Senegal), 45% (Trung Quốc), 38% (ý) và 36% (Hy Lạp). Phần lớn các nước

áp dụng cơ chế ba thuế suất. Chỉ có một số nước áp dụng 4 và 5 thuế suất: Bỉ-
Colombia.
Mô hình thuế suất của khối EC: Qui định ngoài thuế suất 0% áp dụng cho
xuất khẩu, hệ thống thuế suất chỉ gồm 2 thuế suất: Một mức thuế suất thấp nhưng
không thấp hơn 5%; Một mức thuế suất cao thường hơn 15%.
Qui định về thuế suất 0% và miễn thuế: thuế suất 0% được áp dụng trong đại
đa số các nước chủ yếu đối với hoạt động xuất khẩu. Đối tượng áp dụng thuế suất
0% tức là được thoái trả lại số GTGT đã chịu trên hàng đầu vào, biện phấ này được
đánh giá là hữu hiệu nhất đối với việc xuất khẩu.
Một số nước áp dụng thuế suất 0% đối với các mặt hàng và dịch vụ khác
nhau như Thuỵ Điển (đối với báo chí xuất bản hàng ngày, xang máy bay phản lực),
Canada (đối với lương thực thực phẩm, các dịch vụ tài chính quốc tế.
Đan Mạch và Trung Quốc không sử dụng thuế suất 0%.
Miễn thuế (không áp dụng) GTGT: Các đối tượng được miễn thuế khác với
các đối tượng được hưởng thuế suất 0% ở chỗ họ không có quyền khấu trừ đầu vào
thuế đầu vào đã nộp. Qui định miễn chịu thuế có thể xuất phát từ nhiều lý do: Về
kinh tế, xã hội, về tránh sự đánh thuế chồng chéo, về kỹ thuật: khó xác định giá trị
tăng thêm như: Các dịch vụ về tài chính tín dụng, dịch vụ vận tải quốc tế về hàng
không, đường sắt.
Ví dụ : Thuỵ Điển qui định 29 mặt hàng và dịch vụ được miễn chịu thuế.

8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đan Mạch qui định 14 mặt hàng và dịch vụ được miễn chịu thuế.
Đức qui định 5 mặt hàng và dịch vụ được miễn chịu thuế.
4. Quản lý GTGT.
Đăng ký thuế: Các đối tượng nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ đầu tiên là
đăng ký thuế tại cơ quan thuế địa phưong nơi đặt cơ quan điều hành thường trú của
mình theo mẫu thống nhất do cơ quan thuế cung cấp. Một số nước sử dụng mã số
đăng ký thuế cũ (thuế doanh thu) và thêm vào đuôi của dãy số đăng ký một số bổ

xung để chỉ rõ là số đăng ký GTGT. Riêng Nhật Bản không sử dụng hệ thống mã
hoá số đăng ký trong công tác quản lý GTGT.
Nộp thuế: Đa số các nước áp dụng GTGT thực hiện nộp thuế theo cơ chế tự
kê khai tính và nộp thuế theo mẫu in sẵn do cơ quan thực hiện cung cấp. Nộp tờ
khai và thanh toán thuế theo định kỳ hàng tháng, quí (tuỳ theo chế độ nộp thuế qui
định cho từng loại đối tượng).
Việc thoái thuế: Phần lớn được giao cho cơ quan thu thuế, trong trường hợp
số thuế được khấu trừ lớn (xuất khẩu hàng hoá hoặc mua sắm tài sản giá trị lớn, đối
tượng kinh doanh có quyền kê khai đề nghị cơ quan thuế thoái trả số tiền đã trả
khâu trước. Cơ quan thuế kiểm tra và thoái trả tiền thuế đã trả ngay một lần hoặc
thoái trả dần trong một thời gian tuỳ theo qui định của từng nước và khả năng ngân
sách mỗi nước. Theo cách này cơ quan thuế thường có một tài khoản thu GTGT và
sử dụng nguồn thu để thoái thuế, khoản còn lại nộp vào Ngân sách Nhà nước.
Việc khấu trừ thuế GTGT: Các nước áp dụng khấu trừ theo hoá đơn đầu vào
và cho khấu trừ toàn bộ số phát sinh từng kỳ, khi tính thuế GTGT phải nộp. Hầu
hết các nước cho áp dụng khấu trừ thuế đầu vào của tài sản cố định nhằm khuyến
khích đầu tư, cũng có nước không cho áp dụng như Trung Quốc.
PHẦN II: TÌNH HÌNH ÁP DỤNG THUẾ GTGT TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI
HỌC KINH NGHIỆM TỪ NHỮNG NƯỚC ĐÃ ÁP DỤNG

9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I. Tình hình áp dụng thuế GTGT ở một số nước
1. Thuỵ Điển: Là một nước đi đầu trong việc áp dụng thuế GTGT (1969).
Trước khi thực hiện GTGT, Thuỵ Điển đã thực hiện cơ chế thuế doanh thu với một
thuế suất 10% áp dụng chủ yếu đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế. Mục tiêu của
sự chuyển đổi là khuyến khích hàng xuất khẩu và thực hiện hoàn thuế đối với hoạt
động xuất khẩu.
Quá trình chuyển đổi thuế ở Thuỵ Điển được tiến hành qua hai giai đoạn:
- Mùa xuân năm 1968 Bộ Tài Chính giải trình trước Quốc hội và các doanh

nghiệp về kế hoạch, nội dung chuyển đổi cơ chế nộp thuế.
- Mùa thu năm 1968 được Quốc hội thông qua và ban hành năm 1969 với
những nội dung cơ bản:
Thứ nhất: Các đối tượng nộp thuế doanh thu đều chuyển sang nộp GTGT.
Thời kỳ đó có 160.000 đối tượng nộp thuế doanh thu. Các dịch vụ không phải nộp
thuế, 200.000 hộ nông dân năm ngoài cơ chế GTGT.
Thứ hai: áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế nộp khâu
trước.
Thứ ba: Thuế suất lúc đầu áp dụng một mức thuế là 10% như thuế doanh thu
nhưng do cơ chế khấu trừ nên làm giảm số thuế GTGT. Để bù đắp nguồn thu, Thuỵ
Điển đã tăng phí bảo hiểm 1% trên tổng quĩ lương. Trong quá trình thực hiện Thuỵ
Điển cũng đã điều chỉnh thuế suất và bổ sung thêm mức thuế vào.
Thứ tư: Đối với những đầu tư trang thiết bị, máy móc khi thực hiện GTGT
cung được khấu trừ.
Thứ năm: Không qui định cho miễn giảm GTGT vì không thể dùng chính
sách thuế GTGT để trợ cấp.
2. Philipines: Khi Chính phủ mới ra đời (tháng 12 năm 1986) việc cải cách
sửa đổi hệ thống thuế là việc làm trước tiên của nước này. Chương trình thuế năm

10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1986 bao gồm 29 khâu cải cách phải tiến hành và đã được soạn thảo. Một trong
những cải cách về cơ cấu đưa ra trong chương trình là ban hành thuế GTGT. Được
thể chế hoábăng Lệnh số 273, có hiệu lực thi hành từ 1/1/1988. Như vậy, để ban
hành thuế GTGT, Philipines đã trải qua quá trình nghiên cứu và chuẩn bị.
Ngày 1/1/1988, Philipines bắt đầu thực hiện GTGT. Có thể tóm tắt ở mấy
điểm sau:
- Thuế GTGT được xây dựng dể hợp lý hoá hệ thống đánh thuế hàng hoá và
dịch vụ chịu thuế, để đơn giản hoá việc quản lý thuế và làm cho hệ thống thuế
Philipines công băng hơn.

- Thuế GTGT được áp dụng trên diện rộng hàng hoá và một số dịch vụ, trên
từng hoạt động bán hay nhập khẩu những hàng hoá dịch vụ đó.
- Thuế suất qui định một mức là 10% đánh trên tổng giá bán hay tổng số tiền
nhận được từ bán hàng hoá hay dịch vụ, thay cho thuế doanh thu đối với người sản
xuất gồm 4 thuế suất: 0%, 10%, 20%, 30%, thuế trên dịch vụ: 15 thuế suất từ 0%
đến 30%. Tuy nhiên, có miễn thuế đối với một số hoạt động kinh doanh được áp
dụng để khuyến khích một số hoạt động như sản xuất nông sản, giảm bớt ảnh
hưởng đến giá cả một số mặt hàng như dầu lửa, và để đơn giản việc quản lý thuế
đối với doanh nghiệp nhẹ và các dịch vụ tài chính.
- Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu.
Áp dụng tính thuế theo phương pháp khấu trừ và cho khấu trừ đối với tài sản
dùng trong thương mại hoặc kinh doanh.
Kết quả thu thuế GTGT của Philipines được biểu hiện qua ba năm (bảng kèm
theo) đã cho thấy tỉ lệ về số thu VAT so với số thu CP, GDP, GNP đều tăng sau 10
và 20 năm áp dụng cơ chế thuế mới.
Năm
Số thu
từ
VAT
Số thu
từ
thuế
Số thu
của
CP
GDP GNP
% số
thu
VAT/số
thu thuế

% số
thu
VAT/số
thu CP
Số thu
VAT/
GDP
Số thu
VAT/
GNP
1 2 3 4 5 1/2 1/3 1/4 1/5

11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1988 13 90 113 826 823 14,5 11,8 1,6 1,6
1989 20 122 154 964 961 16,7 13,3 2,1 2,1
1990 12 69 79 527 527 17,1 14,8 2,2 2,2
3. Trung Quốc: Là nước có chủ trương nghiên cứu ban hành thuế GTGT từ
năm 1980, sau 4 năm nghiên cứu, ngày 18/9/1984 chính thức ban hành. Trung
Quốc đã tiến hành theo phương pháp thí điểm. Sau đây đề cập một số nhận xét của
chuyên gia thuế Trung Quốc từ 28/6 đến 12/7/1993 do đồng chí Trần Xuân Thắng -
Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê dẫn đầu).
Chương trình thí điểm về thuế GTGT ở Trung Quốc đã gặp nhiều vướng mắc
do các nguyên nhân chủ yếu:
a. Chưa chuẩn bị kỹ về chế độ hướng dẫn thực hiện và xử lý các trường hợp
vướng mắc thực tế.
b. GTGT chỉ thực hiện cho một số sản phẩm ở khâu sản xuất, chưa thực hiện
ở khâu lưu thông, dịch vụ, vì vậy, trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn
vướng mắc, không xử lý triệt để, chính xác, chưa đạt được mục đích của GTGT là
khắc phục triệt để thu thuế trùng lặp.

Bên cạnh đó, GTGT của Trung Quốc có quá nhiều thuế suất, mức chênh lệch
giữa các thuế suất cao từ 43% đến 12%. Vì vậy, khi thực hiện khấu trừ thuế phức
tạp, căn cứ không chính xác, gây ra vận dụng tuỳ tiện, không kiểm soát được chặt
chẽ việc khấu trừ tiền thuế ở cơ quan cấp dưới.
Để khắc phục tình trạng này, đảm bảo thẹc hiện đơn giản, dễ kiểm soát, hiện
nay Trung Quốc thực hiện khoán mức khấu trừ thuế cho các sản phẩm đầu vào,
bước đầu có nhiều mức, nay thực hiện thống nhất một mức 7%.
Do thu theo phương pháp khấu trừ chung cho một mức thoát ly hoá đơn, nên
phạm vi khấu trừ thuế rộng thực tế có khi thuế thu thấp vì trong số thuế được khấu
trừ có phần thuế chưa được tính nộp Ngân sách.
Một trong những điều kiện tiên đề để thực hiện thành công GTGT là thực

12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiện cơ chế giá thị trường. Nhưng hiện nay Nhà nước Trung Quốc vẫn quản lý giá
hơn 100 mặt hàng, vì vậy, quá trình thực hiện GTGT của Trung Quốc gặp khó
khăn.
Thực hiện GTGT ở khâu sản xuất của Trung Quốc gặp nhiều khó khăn, phức
tạp. Để việc quản lý, thực hiện GTGT có hiệu quả, Trung Quốc phân ra từng đối
tượng để có biện pháp thu thuế: Xí nghiệp qui mô nhỏ thu khoán, Xí nghiệp có qui
mô lớn và vừa thu căn cứ vào sổ sách kế toán. Thực tế hiện nay GTGT chỉ áp dụng
trong các xí nghiệp quốc doanh.
II. Một số nước kinh tế phát triển vẫn chưa áp dụng thuế GTGT
Cho dù GTGT là một loại thuế có nhiều ưu điểm nhưng cho đến nay có một
sô nước kinh tế phát triển chưa áp dụng. Chúng ta sẽ nghiên cứu những nguyên
nhân của vấn đề trên thông qua phân tích tình hình hai nước đại biểu là Mỹ và
Austraylia
Hoa Kỳ (Mỹ): Là một nước có nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới. Một
cường quốc có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều lĩnh vực trên thế giới, tuy nhiên, cho
đến nay Mỹ vẫn chưa chấp nhận GTGT. Vì vậy đau là những lý do ngăn cản con

đường GTGT xâm nhập vào Mỹ?
Về cơ bản Mỹ thoả mãn với hệ thống thuế doanh thu khâu bán lẻ cấp bang
và liên bang hiện hành. Thuế suất doanh thu bán lẻ cấp bang tương đối thấp, trung
bình khoảng 4,6%, diện đánh thuế cũng tương đối hạn chế. Ví dụ: ở Mỹ có 29 bang
không đánh thuế lương thực thực phẩm, 25 bang miễn thuế cho hầu hết các dịch
vụ. Cơ chế thuế hiện hành của Mỹ không gây trở ngại lắm cho hoạt động sản xuất
dịch vụ trong nước. Chính vì vậy, nước Mỹ chưa thực sự có nhu cầu về một cơ chế
thuế mới.
Tuy nhiên, Mỹ cũng đã quan tâm đến GTGT trong thời gian tương đối dài
(20 năm qua), và trong cuộc tranh luận gần đây, các chuyên gia đã nêu ra một số lý
do để Mỹ ban hanh GTGT là:

13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- GTGT sẽ thay thế 1 phần thuế đánh trên quĩ lương (bảo hiễm xã hội) (52 tỷ
USD).
- GTGT se thay thế 1 phần thuế thu nhập công ty (28 tỷ USD).
- Một lý do nữa được đưa ra năm 1983 là GTGT còn có thể tài trợ cho quốc
phòng (thực tế là để tăng số thu cho Ngân sách).
Năm 1984, một sự thảo nữa được đưa ra với ý đồ dùng GTGT để thay thế
cho thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty và thuế thừa kế, thuế suất GTGT
là 15%. GTGT sẽ là động lực tạo nguồn thu chủ yếu cho Ngân sách. Năm 1985,
Mỹ đưa ra một dự thảo về mô hình GTGT nữa, áp dụng theo phương án trực tiếp.
Nói chung, các phương án đưa ra nhằmban hành GTGT cuối cùng cũng chỉ là để
tăng số thu cho Ngân sách. Dù vậy các Nghị sĩ đã bác bỏ việc ban hành GTGT với
nhứng lý do chủ yếu sau:
a. Lo sợ về tính luỹ thoái của GTGT.
b. Lo lắng về việc GTGT gây lạm phát.
c. Cán bộ thuế bang và quận (địa phương) lo sợ về việc ban hành GTGT sẽ
xâm phạm đến nguồn thu của họ.

d. Cả cơ quan thuế bang và liên bang đều lo ngại việc áp dụng GTGT sẽ tác
động về phương diện quản lý.
Autralia: Autralia cũng là một trong những nước OECD đến nay chưa chấp
nhận GTGT vì một số lý do như sau:
a. Lo sợ về chi phí quản lý cao.
b. Lo sợ về khả năng trốn thuế tăng.
c. Những yêu cầu về hoàn thuế khai tăng thêm có thể là một lỗ hổng cũng
nghiêm trọng tương đương như lập hoá đơn sai.
d. Chi phí cho việc cưỡng chế thuế tăng. Lo sợ về tính luỹ thoái.
Như vậy, những lý do chủ yếu của việc chưa ban hành thuế GTGT ở Mỹ và
Autralia là các lý do mang màu sắc chính trị chứ không phải về kinh tế, do đặc thù

14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của các nước đó (quan hệ liên bang và bang đang ổn định, họ không muốn có sự
xáo trộn đễ dàng gây nên tình hình mất ổn định chung).
III. Bài học kinh nghiệm rút ra từ các nước đã tính thuế GTGT
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước áp dụng GTGT cà hội thoả, trao
đổi kinh nghiệm với các chuyên gia thuế GTGT của các tổ chức quốc tế và một số
nước có thể rut ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
1. Thuế GTGT là một loại thuế có nhiều ưu điểm cần nghiên cứu áp dụng
nhằm góp phần thúc dẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển theo cơ chế thị
trường, mở rộng kinh tế đối ngoại, tạo nguồn thu ổn định và phát triển cho Ngân
sách quốc gia. Nhưng không thể và không nên áp dụng thí điểm thuế GTGT trong
phạm vi hẹp ở một số nghành và một số đơn vị.
2. Nội dung chính sách thuế GTGT ban hành phải được nghiên cứu kỹ, qui
định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện được rõ ràng, thống nhất. Phải
tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT với sự vận dụng và qui định phù
hợp với từng nước.
- Củng cố chế độ hoá đơn, chứng từ, hạch toán, kế toán, nhưng không thể đợi

đến lúc thực hiện đầy đủ hoá đơn chứng từ mới áp dụng GTGT, vì việc áp dụng
GTGT cũng thúc đẩy việc sử dụng hoá đơn chứng từ.
- Cần làm tốt công tác tuyên truyền và hướng dẫn chế độ thuế này để mọi đối
tượng, mọi người đều hiểu và thực hiện đúng.
- Công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý thuế GTGT cho cán bộ thuế
phải được quan tâm và chuẩn bị trước.
- Phải từng bước hiện đại hoá trang thiết bị công cụ quản lý thuế, trong đó
trang bị hệ thống máy vi tính là quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác quản lý
thuế nói chung, và thuế GTGT nói riêng.
- Đồng thời với việc ban hành thuế GTGT cần sửa đổi hệ thống thuế đồng bộ
nhằm xác định rõ phạm vi , mục tiêu điều chỉnh của từng loại thuế (thuế xuất nhập

15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khẩu, thuế TTĐB...). Mức thuế và chính sách thuế cần có tính ổn định không nên
thay đổi luôn.
- Cần nhận thức đúng và đầy đủ tác động có thể xẩy ra trong giai đoạn đầu
áp dụng GTGT để có phương án xử lý, trong đó vấn đề điều hành Ngân sách, quản
lý giá cả là vấn đề quan trọng.
PHẦN III: SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG THUẾ GTGT
I. Những tồn tại của hên thống thuế hiện hành
Trong quá trình thực hiện, hệ thống chính sách thuế hiện hành đã được sửa
đổi, bổ xung nhiều lần đáp ứng yếu cầu của tình hình thực tế. Nhưng cho đến nay,
nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển theo cơ chế thị trường, khu vực
kinh tế Nhà nước được sắp xếp tổ chức lại, bước đầu hoạt động có hiệu quả; khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển đa dạng dưới nhiều hình thức, các xí
nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng tăng. Chính
trong bối cảnh này, hệ thống chính sác thuế đã bộc lộ những khuyếm khuyết về các
mặt:
- Chưa bao quát hết các nguồn thu đã, đang và sẽ phát sinh trong nền kinh tế

thị trường như: lãi cổ phần, lãi tiền gửi, thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần, thu
nhập từ chuyển nhượng tài sản; chưa bao quát hết các hoạt động dich vụ.
- Trong mỗi loại thuế phải cùng một lúc vừa thực hiện mụctiêu bảo đảm
nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và thực hiện mục tiêu nhiều chính sách khác,
do đó, làm cho nội dung chính sách thuế phức tạp, gây khó khăn trong quá trình
thực hiện cả đối với cán bộ thuế cũng như đối tượng nộp thuế.
- Về mặt kỹ thuật, hệ thống thuế hiện hành cũng như trong từng sắc thuế còn
quá phức tạp, trùng lặp, nhất là thuế doanh thu, nên hiệu quả chưa cao, còn gây tâm
lí chồng chéo nặng nề.

16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Trong chính sách còn có những điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, do
đó, có thể trở thành những cản trở trong quá trình mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
với các nước trong khu vực và trên thế giới (đặc biệt là chính sách thuế trong việc
thu hút đầu tư nước ngoài cũng như trong nước.
II. Sự cần thiết phải cải cách hệ thống chính sách thuế
Những thành tựu đã đạt được trong 10 năm đổi mới đã tạp tiền đề đưa kinh
tế nước ta sang một giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đồng thời
ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực trong nước
và trên thế giới. Phương hướng phát triển kinh tế với các nước trong kỳ 1996 -
2000 như nới trên đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế mở rộng hợp tác trong thời gian
tới. Vì vậy cải cách thuế là một điều tất yếu nhằm mục đích:
Thứ nhất: Khắc phục những nhược điểm của hệ thống thuế hiện hành, tạo sự
thích ứng của nó trong cơ chế thị trường, bảo đảm yêu cầu động viên vào Ngân
sách mà Đại hội lần thứ VII của Đảng đã đề ra cho những năm tới: ;àm cho thuế
thực sự là một công cụ có hiệu lực của Nhà nước trong giai đoạn mới, thúc đẩy sản
xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế của đất nước theo hướng đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ hai: Làm cho hệ thống chính sách thuế cũng như từng sắc thuế tiến tới

những yếu tố tương đồng với thuée các nước và phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo
điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu kinh tế giữa nước ta với các nước
trong khu vực và thế giới.
III. Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hoạt động cà vận hành của thị trường chưa
thật linh hoạt, nhiều doanh nghiệp có trình độ công nghệ, kỹ thuật cũng như trình
độ quản lý thấp, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh kém, chưa thích nghi
và điều chỉnh nhanh nhạy để phù hợp với chính sách kinh tế mới. Vì vậy việc áp

17

×