Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

cuộc khủng hoảng kinh tế mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.71 KB, 17 trang )



LỜI NGỎ:
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang diễn biến hết sức phức tạp với sức công
phá nặng nề, là nổi ám ảnh đối với nền kinh tế của nhiều nước. Việc ngăn chặn sự tàn phá
khủng khiếp của cơn bão tài chính này không còn nằm trong phạm vi khả năng của một
quốc gia mà trở thành trách nhiệm và sự nỗ lực chung của tất cả các nước, trước hết là các
nước có nền kinh tế lớn. Tuy nhiên, đối với mỗi quốc gia, tùy theo đặc thù của nền kinh
tế như mức độ hội nhập và trình độ phát triển mà có thể có những giải pháp riêng. Trong
đó, các giải pháp liên quan đến hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán (TTCK) –
vốn là tâm điểm của cuộc khủng hoảng là rất quan trọng. Vì vậy, việc tiến hành nghiên
cứu, khảo sát toàn diện những nguyên nhân, diễn biến và mức độ tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính đến thế giới,đặc biệt đến hệ thống ngân hàng và TTCK Việt Nam
sẽ giúp hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa ra các giải pháp phát huy tối đa tác
dụng.
Khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra, dường như nó chỉ là một
đốm lửa trên đỉnh núi. Nhưng trong thế giới kết nối mà chúng ta đang sống, đốm lửa
nhỏ ấy đã mở đầu cho một đám cháy lớn. Cơn chấn động trên Phố Wall đã tác động
đến tất cả những ai có liên quan đến tài chính,và để tìm hiểu xem mức độ của đám
cháy lớn như thế nào thì Mỹ sẽ là nơi để chúng ta tìm ra ngồi châm cho sự việc:
CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ
2007-2009
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 :
Là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng
khoán) diễn ra từ năm 2007 cho đến tận nay. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc
khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2010.
I. Nguyên nhân và diễn tiến:
1. Nguyên nhân:
1.1. Nguyên nhân khách quan:
Nhiều nhà kinh tế học và hoạch định chính sách, bao gồm cả những nhân vật nổi


tiếng như Paul Krugman, người đoạt giải Nobel kinh tế 2008, đồng thời là một nhà báo
chuyên mục của tờ New York Times, và cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ Henry Paulson,
1
cùng có quan điểm cho rằng việc mất cân đối toàn cầu (global imbalances) gây ra cuộc
khủng hoảng nhìn nhận, một lượng tiền dư thừa từ những quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao,
như Trung Quốc và các nước xuất khẩu dầu lửa, đã chảy vào nước Mỹ. Những dòng tiền
này khiến lãi suất tại Mỹ được duy trì ở mức thấp và tạo ra sự bùng nổ trong lĩnh vực cho
vay tín dụng, tiếp đó là sự tăng vọt của giá các loại tài sản như nhà đất và chứng khoán.
Rốt cục, khi những bong bóng này vỡ, khủng hoảng tài chính nổ ra theo
Tuy nhiên,Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) không nhất trí với quan điểm này. Trong
một tài liệu công bố ngày 6/3, IMF lập luận, "thủ phạm" chính gây ra khủng hoảng không
gì khác chính là tình trạng buông lỏng quản lý hệ thống tài chính, cùng với việc không
tuân thủ kỷ luật thị trường. Kinh tế gia trưởng Olivier Blanchard của IMF cho rằng, sự
mất cân đối toàn cầu chỉ “gián tiếp” tiếp tay cho khủng hoảng
1.2. Nguyên nhân chủ quan:
Cuộc khủng hoảng lần này không phải là quá bất ngờ với giới tài chính Mỹ nói
riêng và thế giới nói chung. Nó là kết quả của một chuỗi những rủi ro liên tiếp mà chính
các tổ chức tài chính, ngân hàng ở Mỹ tạo ra cho chính mình.
Có thể tóm lại một số nguyên nhân chính, mà thực chất là hệ quả của nhau – đã
dẫn đến cuộc khủng hoảng tất yếu này ở Mỹ.
a) Cho vay dưới chuẩn:
Là khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao, các khoản vay này không
được xem xét kỹ lưỡng và thường được bảo đảm bởi rất ít hoặc không có giấy tờ chứng
minh khả năng tài chính của người đi vay.Những người cho vay dưới chuẩn thường có
tiền sử tín dụng không tốt,như thường có những khoản thanh toán quá hạn, và có thể có
những vấn đề nghiêm trọng như phải ra tòa,phá sản Hình thức vay này rất phổ biến,đặc
biệt ở Mỹ.
Trong giai đoạn 2004-2006,cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn chiếm khoảng 21%
tổng các khoản vay thế chấp,tăng so với mức 9% giai đoạn 1996-2004,trong đó chỉ tính
riêng 2006 tổng trị giá các khoản vay thế chấp dưới tiêu chuẩn lên đến 600 tỷ USD,bằng

1/5 thị trường cho vay mua nhà của Mỹ.
Thị trường lúc nào cũng chịu tác động của quy luật cung cầu.Khi việc mua nhà
không còn là nhu cầu chỗ ở mà sử dụng nó như một công cụ đầu tư thì chắc chắn sau một
thời gian xây thêm nhà để bán,thị trường sẽ thừa nhà.
Bên cạnh đó các NH của Mỹ vì chạy theo lợi nhuận mà chuyển đổi các tài sản
chưa sẳn sàng tham gia thị trường thành các chứng khoán được định giá để có thể mua
bán trên thị trường thứ cấp, tạo thêm nguồn cung cho thị trường chứng khoán.Qua đó,Các
ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation) để biến
các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản như loại
chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS-viết tắt của mortgage-backed security)
và giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO-viết tắt của collateralized debt obligations) đầy rủi
ro cung cấp cho thị trường.
2
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay
mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng
bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc phát mại tài sản
càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của
trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng.

Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh.
Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc
gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả là
hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh.
b) Mua bán khống:
Ai cũng biết, quy tắc đầu tiên trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán là mua giá thấp
và bán giá cao.Và đó chính là quy tắc đầu tiên của hoạt động bán khống (short-selling):
bán giá cao, mua lại với mức giá thấp, bỏ túi phần chênh lệch.
Bán khống (short selling) là nghiệp vụ bán các chứng khoán vay mượn, mà người
bán khống không thật sự sở hữu các chứng khoán đó,
Tức là, khi NĐT bán khống cổ phiếu, NMG sẽ cho NĐT vay cổ phiếu đó. Số cổ

phiếu này bắt nguồn từ TK riêng của NMG, cũng có thể là từ TK của một khách hàng
trong công ty hoặc từ một công ty môi giới khác.
Trong trường hợp này thì khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập
đoàn dính líu đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt
bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một
mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền
chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.Ngược lại,khi giá cổ phiếu tăng NĐT phải mua lại ở mức
giá cao hơn, nghĩa là phải chấp nhận thua lỗ.
Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale),
tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi
dụng khe hở.Nếu giá không giảm theo mong muốn,các nhà đầu tư phải nộp thêm tiền ký
quỹ bù vào phần thua lỗ để giữ hợp đồng.
Tuy bán khống có tác dụng kích thích tính thanh khoản của thị trường, và ngăn
chặn xu hướng thổi phồng giá cổ phiếu quá cao, nhưng nó có thể bị lợi dụng để gây lũng
đoạn, thậm chí làm sụp đổ thị trường. Sự sụp đổ thị trường chứng khoán Phố Wall năm
1929 được cho là do các nhà đầu cơ bán khống gây ra và bây giờ làm trầm trọng thêm
cuộc tháo chạy của thị trường chứng khoán Mỹ trong cuộc khủng hoảng tài chính cuối
năm 2008.
c) Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ:
Các NHTM dựa vào các khoản vay BĐS có thể đưa các loại sản phẩm đó ra ngoài
bảng cân đối kế toán bằng cách bán các khoản vay này cho các NH đầu tư tránh được
gánh nặng nắm giữ dữ trữ bắt buộc theo Hiệp ước BASEL I.
3
Mặc khác khi có tiền, các công ty cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các
ngân hàng đầu tư cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các
ngân hàng này trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành CK để vay tiền.
Danh mục cho vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định mức tín nhiệm, nhà
đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại CK không cần định mức tín
nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng lớn.
Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài chính

sang NH đầu tư. Nhà đầu tư lắm tiền trên thế giới đã đổ tiền mua CK này, nhờ vậy đã
cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường BĐS ở Mỹ tăng nóng.
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế 2001,
kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách nhiệm chính của
mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính Mỹ đã không làm
những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người Mỹ
quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của mình, như là giữ lại được nhà khi
mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt giá”.
1.3 Khủng khoảng niềm tin:
Theo GS. Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu tư sự sụp đổ thảm khốc của
niềm tin. Các ngân hàng đánh đố lẫn nhau về mức độ cho vay cũng như tài sản. Những
giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu những trượt giá giá trị tài sản
thực của ngân hàng. Đây là một trò chơi mà con người ta khi bắt đầu cảm nhận thấy mùi
của sự thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài chính, khi đó thua lỗ xuất hiện, cả thị trường
xuống dốc và tất cả mọi người đều bị thua lỗ.
Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị
xói mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy đã
xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục.
2. Diễn tiến của khủng hoảng:
2.1 Những mốc chính trong cuộc khủng hoảng:
Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ tình trạng bong bóng của thị trường nhà đất ở Mỹ
(tình trạng này diễn ra khoảng năm 2005 - 2006) với những khoản vay dưới chuẩn có
nguy cơ rủi ro cao và các khoản thế chấp có lãi suất điều chỉnh. Từ vài năm trước đó, giá
nhà tăng cao cùng với việc được phép vay với điều kiện rất đơn giản, nhiều khách hàng
đã tranh thủ tiền của các ngân hàng đầu tư để đầu cơ vào bất động sản với hi vọng kiếm
được nhiều tiền từ các khoản mua bán chênh lệch.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ nét
4
nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó. Điểm lại những mốc sự kiện chính
trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như thế nào:

• Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và
Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
• Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất
động sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi
suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp
thị trường.
• Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh
bất động sản giảm, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại
Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
• Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước
tính cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức
cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để thế
chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006. Thư ký bộ tài chính Mỹ gọi bong bóng bất động sản lần
này là “mối nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế”.
- Ngày 05/02: Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các
nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm quý 3 năm
2006, tuyên bố phá sản.
- Ngày 02/04: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ,
tuyên bố phá sản.
- Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên
trong lịch sử.
- Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán dựa
trên các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các danh mục vốn đầu tư và
quỹ trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho
vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dữ trữ liên bang đã cho các ngân hàng vay 100
tỷ đô la với lãi suất thấp.
- Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất
nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm các ngân
hang khác.
- Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50 điểm cơ

bản từ mức 6.25% xuống 5.75%
5
- Ngày 14/09: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng về
khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn.
- Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông
báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm bảo bằng
tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủng hoảng vay dưới chuẩn. Chủ
tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những
cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản.
- Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4.5%
- Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng vay
với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ 19 tháng 9
năm 2001 (50.35 tỷ đô la).
• Năm 2008 với những mốc đáng nhớ sau:

- Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ
phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các
khoản lỗ của Bear Stearn.
- Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo
cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
- Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn Fannie
Mae và Freddie Mac
- Ngày 14/09: Merrill Lynch được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ đô la.
- Ngày 15/9: Lehman Bothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở Mỹ
bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ sau sự kiện
11/9/2001.
- Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty
này tránh phá sản.
- Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của bộ trưởng tài chính Paulson trị giá
700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài chính và nợ tín dụng.

Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
- Ngày 26/9: Ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhẩt Mỹ
được chính phủ tiếp quản và sau đó được bán lại cho JP Morgan Chase& Co với giá 1.9
tỷ đôla
6
- Ngày 29/09: Quốc hội Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ do
bộ Tài chính Mỹ đề xuất.
- Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng
cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ
Citigroup.
2.2 Danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp nhập trong
cuộc khủng hoảng Mĩ:
Tên Quy mô Thiệt hại

1
Lehman Brothers
Tổng tài sản: 639 tỷ đôla
Tổng vốn góp cổ phần: $22490 tỷ đôla
Số lượng nhân viên: 26200 người
Là một trong 4 ngân hàng đầu tư lớn nhất
của Hoa Kỳ
Nợ ngân hàng: 613 tỷ đôla
Nợ trái phiếu: 155 tỷ đôla
Cổ phiếu mất giá trên 90%
vào ngày 15/09/2008
2 Merrill Lynch
Tổng tài sản: 1,02 nghìn tỷ đôla
Số lượng nhân viên: 60.000 người
Xếp thứ 32 trong danh sách Global 2000
(các công ty lớn nhất thế giới)

Thua lỗ quý IV/2007: 9,83 tỷ
đô
Thua lỗ ròng quý I/2008: 1,97
tỷ đôla
mất giá tài sản (2007): 16,7 tỷ
đôla
3 AIG
Tổng tài sản: 1,05 nghìn tỷ đôla
Tổng vốn góp ổ phần 78,09 tỷ đôla
Số lượng nhân viên: 116.000 người
Xếp thứ 6 trong danh sách Global 2000
(các công ty lớn nhất thế giới)
Cổ phiếu mất giá 60% vào
ngày 16/09/2008
Thua lỗ 6 tháng đầu năm
2008: 13,2 tỷ đôla
4
Countrywide
Financial
Tổng tài sản: 211 tỷ đôla
Là tập đoàn chiếm 20% tổng thế chấp của
Mỹ, tương đương 3,5 GDP
Tổ chức tiết kiệm và cho vay lớn thứ 3,
đồng thời là ngân hàng có tốc độ phát triển
nhanh nhất trong lịch sử nước Mỹ
Thua lỗ (2007): 2,5 tỷ đôla
Mất giá tài sản (2007): 1 tỷ
đôla
5 Bear Stearns
Tổng tài sản: 350,4 tỷ đôla

Tổng vốn góp cổ phần: 66,7 tỷ đôla
Số lượng nhân viên: 15.500 người
Là công ty chứng khoans lớn thứ 7 thế giới
Thiệt haiij quý IV/2007: 859
triệu đôla
Mất giá tài sản (2007): 1,9 tỷ
đôla
6 IndyMac
Tổng tài sản: 32 tỷ đô
Là tổ chức cho vay và gửi tiết kiệm lớn
nhất ở Los Angeles. Đồng thời là tổ chức
thế chấp lớn thứ 7 ở Hoa Kỳ
Tiền gửi khách hàng: 19 tỷ đô
Chi phí 8,9 tỷ đô cho bảo
hiểm tiền gửi
Chi phí 541 triệu đô cho các
khoản tiền gửi vượt mức bảo
hiểm
7 Freddie Mac Tổng tài sản: 794,4 tỷ đôla
Tổng vốn góp cổ phần: 26,7 tỷ đôla
Thua lỗ (2007): 4,6 tỷ đôla
Thua llox quý II/2008: 821
7
Số lượng nhân viên: 5.281 ngườich
Là công ty công lớn thứ 20 trên thế giới
là công ty tài chính lớn thứ 2 về thế chấp
tại Mỹ
triệu đôla
8 Fannie Mae
Tổng tài sản: 882,5 tỷ đôla

Tổng vốn góp cổ phần: 44 tỷ đôla
Là tổ chức hàng đầu trong thị trường thế
chấp dưới chuẩn của Mỹ
Thua lỗ (2007): 2 tỷ đôla
Thua lỗ quý II/2008: 2,3 tỷ
đôla
9
New Century
Financial Corp
Tổng thu nhập (năm 2006): 417 triệu đôla
Giá bán trên thị trường: 1,75 tỷ đôla
Số lượng ngân viên: 7.200 người
Là tập đoàn cho vay dưới chuẩn lớn nhất
của Mỹ
Cổ phiếu mất 90% giá trị
(tháng 03/2007)
Giá trị thị trường giảm xuống
còn 55 triệu đôla
10 Ameri Bank Tổng tài sản: 115 triệu đôla
Tiền gửi khách hàng: 102
triệu đôla
Chi phí 42 triệu đôla cho quỹ
bảo hiểm tiền gửi
11
Washington
Mututal Inc
Tổng tài sản: 307 tỷ đôla
Washington Mutual là ngân hàng tiết kiệm
lớn nhất Mỹ
Thua lỗ 53 tỷ đôla để từ tháng

6 và 17 tỷ đôla trong 2 tuần
gần đây
12 Wachovia
Là ngân hàng lớn thứ 6 ở Mỹ
Tổng tài sản: 327,9 tỷ đôla
Giá cổ phiếu của Wachovia đã
sụt giảm tới 81,6%, còn 1,84
USD/ cổ phiếu
Thua lỗ 9,7 tỷ đôla trong nửa
đầu năm nay
II. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ:
1. Ảnh hưởng tới Mỹ:
Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi vào suy
thoái từ tháng 12 năm 2007.NBER dự đoán đây sẽ là đợt suy thoái nghiêm trọng nhất ở
Hoa Kỳ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Bình quân mỗi tháng từ tháng 1 tới tháng 9
năm 2008, có 84 nghìn lượt người lao động Hoa Kỳ bị mất việc làm.

Hậu quả của cuộc khủng hoảng tín dụng cho nước Mỹ và thế giới là rất lớn. Thị
trường bất động sản và thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nặng nề. Thị trường trái
phiếu hình thành từ chứng khoán hóa bị mất khả năng thanh khoản. Ngành xây dựng Mỹ
đóng góp 15% GDP có thể phải cắt giảm một nửa sản lượng và cắt 1-2 triệu công việc.
Các khoản cho vay thế chấp không có khả năng thu hồi và giá trị tài sản đảm từ
những ngôi nhà bị sụt giảm là nguyên nhân giá trị đánh giá lại của các gói trái phiếu phát
hành bị giảm giá , đặc biệt là các gói trái phiếu có rủi ro cao. Dự báo số tổn thất do giảm
8
giá trị trái phiếu cho toàn thị trường lên tới khoảng 220 tỷ – 450 tỷ USD.

Hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời
bị phá sản đã đẩy kinh tế Hoa Kỳ vào tình trạng đói tín dụng. Đến lượt nó, tình trạng đói
tín dụng lại ảnh hưởng đến khu vực sản xuất khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, sa

thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào. Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng tiêu
cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng của các hộ gia đình lại làm cho các doanh
nghiệp khó bán được hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ bị phá
sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Hoa Kỳ là General Motors, Ford
Motor và Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này đã nỗ lực vận động Quốc hội
Hoa Kỳ cứu trợ, nhưng không thành công. Hôm 12 tháng 12 năm 2008, GM đã phải
tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà máy của hãng ở khu vực Bắc Mỹ. Tiêu dùng giảm,
hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế Hoa
Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát.
Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar Mỹ là phương tiện
thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua dollar để
nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy dollar Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất
khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại
2. Ảnh hưởng đối với thế giới:
Giá dầu(USD/thùng) giảm mạnh từ giữa năm 2008 do lượng cầu giảm khi kinh tế thế giới xấu đi.
(nguồn vi.vikipedia.vn)
Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy
thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng xuất khẩu ở
Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và Hong Kong rơi
vào suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng trưởng chậm lại.
Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ chịu tác động nghiêm trọng
cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến mức trở thành
khủng hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực
là Đức và Ý rơi vào suy thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng đều giảm tăng trưởng.
Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy thoái kinh tế đầu tiên kể từ ngày thành
lập.
9
Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ, nên cũng
bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá dầu giảm
mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ.

Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho sản
xuất và tiêu dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho các nước xuất
khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra đã làm cho nạn đầu
cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng cao trong thời gian cuối năm
2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộc khủng hoảng giá lương thực toàn cầu.
Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới gặp phải đợt mất giá chứng khoán
nghiêm trọng. Các nhà đầu tư chuyển danh mục đầu tư của mình sang các đơn vị tiền tệ
mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc Thụy Sĩ đã khiến cho các đồng tiền này lên giá so
với nhiều đơn vị tiền tệ khác, gây khó khăn cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và
gây rối loạn tiền tệ ở một số nước buộc họ phải xin trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Hàn
Quốc rơi vào khủng hoảng tiền tệ khi đồng Won liên tục mất giá từ đầu năm 2008
3. Ảnh hưởng tới Việt Nam:
Với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra sẽ không có nhiều tác động
trực tiếp đến hệ thống tài chính Việt Nam, nhưng nền kinh tế có khả năng sẽ bị ảnh hưởng
lớn.
Trước hết, hệ thống tài chính Việt Nam dường như chưa hội nhập chung với hệ
thống tài chính toàn cầu, chúng ta chỉ mới mở cửa tài khoản vốn vào mà hầu như chưa mở
cửa dòng ra, do vậy lượng tiền Việt Nam đầu tư ra bên ngoài dường như không đáng kể
và dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam chưa nhiều nên hệ thống tài chính của Việt nam
sẽ không chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng này so với các nước có mức độ hội
nhập tài chính sâu rộng.
Những tác động chính từ cuộc khủng hoảng hiện tại đối với hệ thống tài chính Việt
Nam chủ yếu là yếu tố tâm lý. Thấy Dow Jones sụp thì VN-Index cũng xuống theo, trong
khi hai thứ dường như không liên quan nhiều với nhau.Mặc khác,việc tác động tới khu
vực ngân hàng có vẻ như khó nhận thấy hơn. Vì mức độ và trình độ liên kết của các ngân
hàng thương mại Việt Nam đối với hệ thống tài chính quốc tế còn rất hạn chế nên chúng
sẽ ít chịu tác động trực tiếp.
Tuy nhiên,đối với nền kinh tế sẽ có ba khả năng có thể xảy ra:
- Thứ nhất, thâm hụt thương mại gia tăng. Trong thời gian tới, kinh tế Mỹ nói
riêng, kinh tế toàn cầu nói chung sẽ rơi vào tình trạng suy thoái, tốc độ tăng trưởng giảm

sút. Điều này sẽ dẫn đến hệ luỵ là cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam
sẽ giảm, trong khi cung đối với các mặt hàng nhập khẩu sẽ tăng do các nhà sản xuất bị
giảm thị trường ở các nước phát triển sẽ tìm cách mở rộng các thị trường khác.
10
Như vậy, khả năng xuất khẩu bị giảm mạnh là rất cao trong khi nhập khẩu nếu có
giảm cũng sẽ giảm ít hơn so với xuất khẩu. Điều này sẽ làm cho thâm hụt ngoại thương
của Việt nam sẽ gia tăng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đã rất mở với tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu đã vượt quá 160% GDP. Cũng có thể một số mặt hàng của
Việt Nam thuộc loại hàng khiếm dụng có nghĩa là khi thu nhập giảm xuống thì cầu sẽ gia
tăng. Tuy nhiên, có lẽ loại này không nhiều lắm.
- Thứ hai, sụt giảm đầu tư do sự giảm sút của dòng vốn từ bên ngoài chảy vào.
Nhìn vào số liệu qua khứ sẽ thấy dòng vốn từ bên ngoài gồm: vốn đầu tư trực tiếp, vốn
đầu tư gián tiếp, vay nợ và kiều hối chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư của
Việt Nam. Với tình hình hiện tại, do chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn và thị trường xuất
khẩu có khả năng bị thu hẹp nên dòng vốn đầu tư chảy vào Việt Nam có khả năng sẽ giảm
sút.
Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung, dự án FDI nói riêng, phần nợ
vay thường chiếm một tỷ phần rất lớn trong tổng vốn đầu tư nên khi mà các tổ chức tài
chính đang gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều hợp đồng vay vốn sẽ không được ký kết hoặc
không thể giải ngân.
Mặt khác, do phần còn lại của thế giới gặp khó khăn, thu nhập của người lao động
sẽ giảm sút, cuộc sống khó khăn hơn nên lượng kiều hối chuyển về có khả năng sẽ giảm
và hoạt động xuất khẩu bị giảm sút.
- Thứ ba, tiêu dùng giảm sút. Khi sản xuất bị thu hẹp, một số người có khả năng
mất việc làm, hay chí ít là thu nhập bị giảm sút cộng với dòng kiều hối chảy vào sụt giảm
sẽ kéo theo sụt giảm trong tiêu dùng của các hộ gia đình.
Như vậy với khả năng giảm chi tiêu, đầu tư và xuất khẩu trong khi nhập khẩu tăng
hoặc giảm chậm hơn sẽ tác động làm cho GDP sụt giảm và đương nhiên nhiều người có
khả năng sẽ mất việc làm, hay chí ít thu nhập cũng rơi vào tình trạng bấp bênh.
III.BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

CHO VIỆT NAM:
1.Biện pháp khắc phục:
1.1. Phản ứng của chính phủ Hoa Kỳ:
* Cục Dự trữ Liên bang:
Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp bằng
cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Đến khi tình hình phát triển thành khủng hoảng tài
11
chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp tục tiến hành các
biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất
cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ
trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Lãi suất này sau đó còn tiếp tục
giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy.
Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa
Kỳ mà các tổ chức tài chính nước này có) và hạ lãi suất tái chiết khấu.Giữa tháng 12 năm
2008, Fed tuyên bố có kế hoạch thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ mặt lượng.
Tháng 12 năm 2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã lập ra và giao cho Fed chủ trì chương
trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ hạn từ 28 đến 84 ngày
theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua đấu giá. Tính đến tháng 11 năm
2008, đã có 300 tỷ dollar được FED đem cho vay theo chương trình này. FED còn tiến
hành cho vay thế chấp đối với các tổ chức tài chính với số tiền tổng cộng tới 1,6 nghìn tỷ
tính đến tháng 11 năm 2008.
* Chính phủ:
Ngày 13 tháng 2 năm 2008, Tổng thống George W. Bush đã ký Economic
Stimulus Act of 2008 theo đó chính phủ sẽ áp dụng một chương trình kích cầu tổng
hợp trị giá 168 tỷ dollar chủ yếu dưới hình thức hoàn thuế thu nhập cá nhân.
Trước tình hình khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, chính quyền Bush đã trình
quốc hội thông qua gói tài chính 700 tỷ dollar. Ban đầu Hạ viện Hoa Kỳ do Đảng Dân
chủ Hoa Kỳ chiếm đa số bác bỏ vì cho rằng không thể phí tiền để cứu không được quá
nhiều tổ chức tài chính gặp khó khăn. Song sau khi kế hoạch sử dụng 700 tỷ dollar được
điều chỉnh sang hướng chi cho cả các chương trình phục vụ đông đảo người dân nhằm

kích thích tiêu dùng (như trợ giúp cho người thất nghiệp, hỗ trợ dinh dưỡng cho người
nghèo và người thu nhập thấp, phát triển cơ sở hạ tầng), qua đó vực dậy nền kinh tế, nó đã
được Thượng viện thông qua.Ngày 3 tháng 10 năm 2008, Tổng thống Bush đã ký
Emergency Economic Stabilization Act of 2008 cho phép thực hiện gói kích thích 700 tỷ
dollar này
* The Obama-Biden Plan:
Chương trình nghị sự phục hồi kinh tế của Tổng thống và Phó Tổng thống mới


nội dung:
• Hành động khẩn cấp để tạo việc làm cho người Mỹ;
• Trợ giúp khẩn cấp cho các hộ gia đình gặp khó khăn;
• Trợ giúp trực tiếp và khẩn cấp cho người sở hữu nhà, thay vì cứu trợ các tổ chức
tài chính cho vay nhà ở thế chấp vô trách nhiệm;
• Phản ứng nhanh, mạnh với khủng hoảng tài chính bằng tất cả các công cụ mà nước
Mỹ có.
12
Ngày 17 tháng 2 năm 2009, Barack Obama đã ký American Recovery and
Reinvestment Act. Đạo luật này cho phép Chính phủ thực hiện gói kích thích thứ hai kể từ
khi khủng hoảng nổ ra. Gói kích thích này trị giá 787 tỷ dollar.
1.2. Đánh giá chung về các biện pháp ứng phó khủng hoảng tài chính
của các nước:
Khủng hoảng tài chính diễn ra nhưng nguyên nhân của khủng hoảng tài chính vẫn
đang là vấn đề tranh cãi của các nhà kinh tế, các nhà nghiên cứu và các chính trị gia trên
thế giới trong đó nổi bật 02 quan điểm về nguyên nhân của khủng hoảng: (1) do mất cân
đối toàn cầu dẫn đến dòng chảy tài chính chảy vào Mỹ tạo áp lực khiến lãi suất của Mỹ
được duy trì ở mức thấp, từ đó phát sinh những khoản cho vay tín dụng dưới chuẩn; (2)
do hệ thống giám sát tài chính bị buông lỏng, các chỉ số tài chính của các tổ chức tài
chính phi ngân hàng không được quan tâm trong khi tính ràng buộc lẫn nhau của các tổ
chức tài chính này với hệ thống tài chính là khá cao và là nguyên nhân gây nên khủng

hoảng.
Mặc dù có sự khác nhau về quan điểm nhìn nhận nguyên nhân của khủng hoảng tài
chính toàn cầu hiện nay, nhưng thực tế khủng hoảng tài chính toàn cầu đã xảy ra và tác
động ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế thế giới là rất lớn. Sự lan rộng của khủng hoảng
khiến cho Chính phủ nhiều nước phải bắt tay vào đối phó khủng hoảng nhằm hạn chế tác
động xấu của khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên các biện pháp ứng phó khủng hoảng tài
chính của các Chính phủ trong thời gian vừa qua còn mang tính cục bộ quốc gia, chưa cho
thấy mối quan hệ hợp tác ứng phó đối với khủng hoảng trên phạm vi khu vực và thế giới.
 Cụ thể có một số biện pháp ứng phó với khủng hoảng như sau:
01. Quốc hữu hóa toàn bộ hoặc một phần ngân hàng và quỹ tư nhân
02. Kiểm soát các quỹ đầu tư
03. Mua cổ phần hoặc tài sản từ các tổ chức tài chính
04. Bãi bỏ thuế đối với các khoản đầu tư nước ngoài
05. Hạ lãi suất cơ bản
06. Vay tiền từ các tổ chức tài chính quốc tế
07. Bảo lãnh tất cả các khoản tiền gửi,trái phiếu, nợ của một số ngân hàng lớn
trong 02 năm.
08. Khuyến khích sáp nhập ngân hàng yếu kém.
09. Cho phép một số ngân hang tuyên bố phá sản.
10. Mua lại các khoản nợ của các ngân hàng đang có vấn đề hoặc bị phá sản.
11. Cấp tiền cho ngân hàng để trả các khoản nợ nước ngoài.
12. Huy động tiền từ các nhà đầu tư toàn cầu để chống đỡ cơn khủng hoảng.
13. Nới lỏng quy định cho phép các công ty mua cổ phiếu của chính họ.
13
1.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NGĂN CHẶN KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
THẾ GIỚI ĐẾN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA:
Trước tình hình khủng hoảng tài chính, tận dụng thế giới và nền kinh tế nước ta đã
có những chuyển biến tích cực, lạm phát tháng 10 đã ở mức -0,19%, tháng 11 là -0,76%
so với tháng 10, nhưng vẫn đang ở trong tình trạng lạm phát cao. Do vậy, mục tiêu tổng
quát về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2009 đã được Quốc hội khóa XII thông

qua ngày 6/11/2008 là: “Tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ
tăng trưởng hợp lý, bền vững, chủ động ngăn ngừa suy giảm, bảo đảm an sinh xã hội; đẩy
mạnh hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và hiệu quả; giữ vững ổn
định chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện thực
hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010”.
Nhằm đối phó với khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đang lan rộng, Chính
phủ Việt Nam đã đề các biện pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp chống lạm phát, nhất là tiếp tục
chíánh sách tiền tệ chặt chẽ nhưng linh hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường:Sử dụng
hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến của thị trường
như: tỷ giá, lãi suất, hạn mức tín dụng… Trước mắt hạ lãi suất xuống một cách phù hợp
theo tín hiệu thị trường. Xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại, bảo đảm các khoản
nợ này ở mức an toàn. Rà soát và kiểm soát chặt chẽ các khoản vay kinh doanh bất động
sản và chứng khoán. Bên cạnh đổi mới và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, cần đổi mới
quản trị nội bộ ngân hàng nhằm lành mạnh hoá hệ thống này tránh tác động của khủng
hoảng kinh tế thế giới.
Thứ hai, tăng cường sự giám sát của Chính phủ đối với hệ thống tài chính, ngân
hàng và thị trường chứng khoán. Rà soát lại và lành mạnh hóa hệ thống tài chính, ngân
hàng. Rà soát lại các ngân hàng cho vay nhiều vào khu vực bất động sản và các dự án có
tính rủi ro cao. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là tín
dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất động sản, chứng khoán. Xây dựng hệ
thống cảnh báo sớm với các tiêu chí cụ thể để có phương án, giải pháp dự phòng đối với
biến động xấu từ hệ thống ngân hàng, tài chính.
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, có chính sách hỗ trợ nông
nghiệp khắc phục hậu quả bão lụt, hỗ trợ người dân sản xuất lương thực, thực phẩm và
người dân nghèo vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi đến các doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả. Có chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nhất là đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ, giảm tiến độ thu thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị
gia tăng hàng nhập khẩu trong trường hợp lạm phát cao và suy thoái kinh tế. Tập trung
tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trong các tháng

cuối năm.
Thứ tư, tiếp tục các chính sách về chặt chẽ chi tiêu Chính phủ và đầu tư khu vực
công nhằm tránh xảy ra nguy cơ thâm hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu Chính phủ và
14
chuyển các khoản đầu tư công sang cho khu vực tư nhân sẽ góp phần vào việc giảm thuế
cho khu vực doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Các doanh nghiệp sẽ có thêm được
nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thị trường. Đẩy mạnh đầu tư cho các dự án
cơ sở hạ tầng, hạ tầng kỹ thuật lớn, quan trọng mà trong các thời điểm trước đây chưa có
điều kiện đầu tư thì nay đầu tư để kích thích kinh tế phát triển.
Thứ năm, cải cách và tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính, về giải phóng
mặt bằng, phê duyệt dự án và về giải ngân để tạo điều kiện các dự án, chương trình được
triển khai nhanh, đặc biệt là đối với các công ty xây dựng. Đối kinh doanh bất động sản
thì bên cạnh đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư và xây dựng nhà giá rẻ cho người nghèo,
các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động ở các khu kinh tế, khu công nghiệp
tập trung, nhà ở cho sinh viên, học sinh, cần hạn chế và đánh thuế cao vào các trường hợp
đầu cơ bất động sản.
Thứ sáu, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt tác động từ việc giảm
nhập khẩu của Mỹ và một số nước chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính, tín
dụng thế giới và tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng tới mở rộng thị trường
trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến khích phát triển sản xuất hàng
xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập siêu. Thực hiện chế độ tỷ
giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín dụng ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Tăng cường và đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, nhất là trong các khâu
thu mua nguyên liệu nông sản bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển vùng sản xuất
nguyên liệu với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, phát triển hệ thống phân phối các vật
tư quan trọng và hệ thống bán lẻ, nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo đảm vệ sinh an toàn
thực phẩm.
Thứ bảy, theo dõi chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta, tiếp tục
cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài, trong đó theo
dõi việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Mỹ và các nước Châu Âu để

có thể hỗ trợ khi cần thiết.
Thứ tám, tổ chức, điều hành và giám sát tốt việc bảo đảm sự thông suốt của cơ sở
bán lẻ trong nước, không gây đầu cơ, ách tắc, khan hiếm hàng hoá. Đồng thời khuyến
khích tiêu dùng hợp lý và nâng lương tối thiểu sớm cho cán bộ, công chức nhà nước và
công nhân ở các doanh nghiệp.
Thứ chín, tăng cường công tác thông tin, quan hệ công chúng. Bám sát thường
xuyên, cập nhật thông tin trong và ngoài nước để có đánh giá đúng diễn biến tình hình;
qua đó có được phản ứng chính sách thích hợp và kịp thời nhất
Tuy nhiên: Điểm yếu của Việt Nam hiện nay chính là những yếu kém nội tại của
nền kinh tế. Những yếu kém này vẫn chưa được khắc phục và cần phải có thời gian mới
có thể đạt được trình độ như mong muốn như về:chi phí đầu tư,cơ cấu kinh tế,vấn đề phát
triển kinh tế và an sinh xã hội,về vấn đề môi trường…
15
2. Việt Nam rút ra được gì?
Với Việt Nam, một nước đi theo con đường kinh tế thị trường chưa lâu, cuộc
khủng hoảng này có thể làm xói mòn niềm tin vào thị trường, nhất là khi vai trò của nhà
nước đã được nhấn mạnh trở lại ngay cả ở Mỹ và các nền kinh tế phát triển khác. Tuy
nhiên, sẽ là sai lầm lớn nếu Việt Nam không tiếp tục hoặc chệch hướng khỏi con đường
cải cách đang đi. Việt Nam nên coi cuộc khủng hoảng này là một cơ hội tái cơ cấu lại nền
kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Cùng với các trào lưu biến đổi của thế
giới đang diễn ra, Việt Nam cần lựa chọn cho mình một chiến lược phát triển khôn ngoan
và bền vững.
- Thứ nhất: Ảnh hưởng của khủng hoảng làm cho niềm tin của các nhà đầu tư đối
với thị trường tài chính sụt giảm, là nguyên nhân dẫn đến việc hạn chế đầu tư vốn nước
ngoài vào Việt Nam, gia tăng các hiểm họa về rủi ro đỗ vỡ hệ thống. Do đó, việc can
thiệp của Chính phủ vào thị trường tài chính là điều tất yếu và đòi hỏi Việt Nam phải
chuẩn bị một nguồn vốn dự trữ ngoại tệ đủ lớn để can thiệp hiệu quả vào thị trường tài
chính trong nước khi rủi ro khủng hoảng xảy ra.
- Thứ hai: Tính liên thông của các thị trường trong và ngoài nước ngày càng sâu
sắc. Ảnh hưởng tồi tệ của thị trường này có thể tác động lên thị trường khác, điều này

xuất phát từ việc di chuyển tự do của các dòng vốn trên thị trường vốn quốc tế. Do vậy,
Việt Nam cần giám sát chặt chẽ cán cân tài khoản vốn, tỷ lệ nợ quốc gia /GDP,… để
phòng ngừa sự tích tụ của các rủi ro mang tính hệ thống trên thị trường.
- Thứ ba: Việc quản lý và giám sát thị trường là vấn đề cần quan tâm, trong đó yêu
cầu tăng cường giám sát đối với các quỹ đầu tư, đặc biệt là các quỹ đầu tư mạo hiểm; mở
rộng thêm đối tượng giám sát đối với các công cụ tài chính mới trên thị trường. Ví dụ như
việc phát triển quá mức công cụ chứng khoán hóa bất động sản các khoản vay dưới tiêu
chuẩn trong thời gian qua ở Mỹ được xem là nguyên nhân châm ngòi cho cuộc khủng
hoảng tài chính hiện nay, vì vậy Việt Nam phải có sự giám sát tài chính.
- Thứ tư: Khủng hoảng tài chính làm cho thu nhập của các tầng lớp dân cư bị
giảm, trong đó đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất chính là các hộ nghèo, những người bị
thất nghiệp. Do đó, vấn đề hỗ trợ và tăng cường các biện pháp đảm bảo an sinh xã hội cho
các đối tượng này là điều cần phải quan tâm thực hiện mạnh mẽ hơn trong giai đoạn
khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng thị trường tài chính và những khó khăn của nền kinh tế
Mỹ hiện nay là bài học quý để Việt Nam trong việc điều hành kinh tế, đặc biệt là
trong tín dụng nói chung và tín dụng bất động sản nói riêng của các NHTM luôn
luôn phải cẩn trọng, không được nới lỏng điều kiện vay, nhất là trong điều kiện thị
trường động sản biến động thất thường.


THE END
16
Where, there’s a will, there’s a way!!!
17

×