Tầng 9, Tòa nhà Minexport, 28 Bà Triệu, Hà Nội, Việt Nam
Tel: 04 62702158 Fax: 04 62702138
Email: ; Website: www.mutrap.org.vn
BÁO CÁO
Nghiên cứu chiến lược về chuỗi giá trị ngành,
đặc biệt về xuất khẩu và năng lực cạnh tranh
MÃ HOẠT ĐỘNG: WTO-C2D
Báo cáo cuối cùng
Tác giả:
Ông Wolfgang Wiegel (Dipl Ing.FH),
với sự phối hợp của các chuyên gia trong nước
Hà Nội, ngày 21 tháng 11 năm 2011
Báo cáo này được lập với sự hỗ trợ tài chính của Liên minh châu Âu. Những quan điểm được trình bày trong báo cáo là
quan điểm cá nhân của tác giả, không phải ý kiến chính thức của Liên minh châu Âu hay Bộ Công Thương
MỤC LỤC
TỔNG QUAN 3
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT 10
I. GIỚI THIỆU 12
I.1. Lịch sử và tình hình hiện tại quan hệ song phương giữa Việt Nam và EU 12
I.2. Mức độ hấp dẫn của thị trường 27 nước EU 12
I.3. Bài học từ việc gia nhập WTO 13
I.4. Các hiệp định thương mại tự do song phương khác 14
II. BỐI CẢNH CỦA NGHIÊN CỨU 14
III. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN NGÀNH 14
III.1. Các phương pháp phân tích 14
III.2. Lựa chọn ngành 16
IV. PHÂN TÍCH NGÀNH - VIỆT NAM 17
IV.1. Năng lực cạnh tranh quốc tế của xuất khẩu Việt Nam - tập trung vào thương mại với
EU 17
IV.2. Ngành ô tô 21
IV.3. Ngành Điện tử và Công nghệ thông tin 30
VI.4. Ngành da giày 37
VI.5. Ngành dệt may 45
V. NGÀNH VÀ XU HƯỚNG CHUỖI CUNG ỨNG Ở EU 54
V.1. Xu hướng chung và quan điểm trong hợp tác EU-Việt Nam 54
V.2. Ngành ô tô 58
V.3. Ngành dệt may 65
V.4. Da giày 69
V.5. Công nghệ thông tin và Điện tử 70
KHUYẾN NGHỊ 72
3
TỔNG QUAN
1. Quan hệ đối tác thương mại giữa EU và Việt Nam
Theo Tổng vụ Thương mại EU (EU DG Trade) ngày 8 tháng 6 năm 2011, thương mại song
phương giữa Việt Nam và EU đã đạt 13,1 tỷ euro năm 2010, đưa EU trở thành đối tác thương
mại lớn thứ 3 của Việt Nam. EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2, chiếm 16,6% tổng giá trị
xuất khẩu của Việt Nam và là thị trường nhập khẩu thứ 6 với 7,1% tổng giá trị nhập khẩu của
Việt Nam.
1
Các nghiên cứu theo ngành cũng cho thấy tiềm năng to lớn về gia tăng thương mại nếu có
FTA giữa Việt Nam và EU.
EU là một trong những thị trường tiềm năng nhất trên toàn thế giới với khoảng 500 triệu
người tiêu dùng có sức mua mỗi năm lên đến 32.000 euro. Chính phủ Việt Nam đang thúc
đẩy việc ký kết các FTA hoặc đàm phán thương mại với nhiều nước nhằm xúc tiến thương
mại. Cho dù Việt Nam dường như ưu tiên đàm phán các hiệp định khác, hẳn Việt Nam hiểu rõ
những lợi ích của việc đạt được FTA với EU.
2. Bối cảnh của nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm thu thập thông tin về các vấn đề liên quan đến FTA trong các lĩnh vực dệt
may, giày dép, ô tô và điện tử. Nghiên cứu cũng đồng thời xem xét các chiến lược ngành và
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ liên quan nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, giá trị gia tăng
và sức cạnh tranh. Nghiên cứu cho thấy tầm quan trọng của việc xóa bỏ hình ảnh “chi phí lao
động thấp” và “giá rẻ” mà đến nay vẫn được coi là một trong những động lực chủ yếu của
doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào sản xuất và lắp ráp tại Việt Nam.
Phân tích theo ngành và giá trị gia tăng chủ yếu dựa trên cơ sở các dữ liệu khách quan sẵn có
ở các cấp độ vi mô, trung mô và vĩ mô. Do thiếu dữ liệu nên việc tính toán kinh tế ở các cấp
độ công ty và ngành rất khó khăn, thậm chí là không thể thực hiện được. Do đó, nghiên cứu
tập trung vào sơ đồ hóa chuỗi giá trị giản đơn và phân tích dựa trên dữ liệu sẵn có. Phân tích
Sức mạnh-Điểm yếu-Cơ hội-Thách thức (SWOT) trong 4 lĩnh vực nói trên cho thấy sức mạnh
và điểm yếu ở cấp độ ngành cũng như các cơ hội và thách thức ở các cấp độ vĩ mô và bên
ngoài. Kết quả của phân tích về chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, phân tích chiến lược và định
lượng cần được xem xét trong quá trình xây dựng kế hoạch tổng thể lĩnh vực, chiến lược
ngành và chiến lược phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
3. Phát triển lĩnh vực bền vững và doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thành công trong thương
mại
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có sức cạnh tranh cao là xương sống của một nền kinh tế lành
mạnh. Đây là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp chuỗi cung ứng địa phương và gia tăng tỷ
lệ nội địa hóa trong hệ thống sản xuất của các công ty nước ngoài tại Việt Nam. Đổi mới và
thích ứng về công nghệ cũng như cải thiện hiệu quả trong hoạt động của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa sẽ góp phần thay thế nhập khẩu hàng tiêu dùng.
Cải thiện các yếu tố củng cố khả năng cạnh tranh là điều quan trọng để tránh “bẫy thu nhập
trung bình” và thoát khỏi sự phụ thuộc vào “chi phí lao động thấp” và giá trị gia tăng thấp của
hoạt động gia công trong các lĩnh vực da giày và dệt may.
1
4
Các yếu tố thành công quan trọng mà doanh nghiệp vừa và nhỏ cần đạt được bao gồm:
lợi thế so sánh trong lĩnh vực sản xuất;
lợi thế so sánh về giá cả và lợi nhuận;
tiềm năng của việc gia tăng giá trị khi tham gia vào chuỗi cung ứng;
khả năng cải thiện tiêu chuẩn về khả năng cạnh tranh, đổi mới, chất lượng, năng suất và
thủ tục hành chính;
đạt được tiến bộ liên quan đến hội nhập chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế;
tiềm năng thị trường trong nước và quốc tế cho các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
4. Khả năng cạnh tranh của xuất khẩu Việt Nam
Sự gia tăng liên tục hàng năm về giá trị xuất khẩu nhiều nhóm sản phẩm khác nhau của Việt
Nam ra các nước trên thế giới, dòng vốn vào thường xuyên của đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam và cán cân thương mại tương đối cân bằng (trừ đối với Trung Quốc) khẳng
định Việt Nam có những điều kiện tích cực cho thương mại.
Đáng lưu ý là hầu hết các nguồn thu từ xuất khẩu và cung ứng tại chỗ trong nước đều gắn với
lợi thế về chi phí lao động và các dịch vụ khác có mức chi phí thấp dưới hình thức chủ yếu là
gia công. Bất kể những tiến triển tích cực về doanh thu xuất khẩu, Việt Nam cần nỗ lực
chuyển đổi từ gia công với lợi thế tiền lương thấp sang sản xuất có giá trị gia tăng ở mức cao
hơn. Cách này sẽ đem lại hiệu quả gấp đôi: vừa nâng mức tiền lương vừa tạo ra giá trị gia
tăng cao hơn thông qua cải tiến công nghệ và thiết kế. Tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi nỗ
lực nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước trong
một số lĩnh vực cụ thể. Về khía cạnh này, có thể tham khảo nghiên cứu năng lực cạnh tranh
(CIEM, 2010). FTA với EU sẽ đóng vai trò tích cực không chỉ đối với thương mại trong và
ngoài nước mà còn đặt ra những tiêu chuẩn và yêu cầu kinh doanh ở mức cao, có tác động
đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.
5. Giá trị gia tăng của các sản phẩm và lĩnh vực xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
Cả 4 lĩnh vực đều có điểm chung là giá trị gia tăng chỉ đạt 10 - 15% tổng giá trị. Tới 90% giá
trị công nghiệp tạo ra trong cả 4 lĩnh vực này đều dựa vào gia công, lắp ráp. Chuyển giao
công nghệ hầu như không diễn ra trong hoạt động gia công. Hầu hết lợi nhuận thụ hưởng bởi
các doanh nghiệp FDI. Chỉ xấp xỉ 10% bán thành phẩm nhập khẩu trong lĩnh vực may mặc do
các doanh nghiệp gia công trực tiếp huy động, còn lại đều do các doanh nghiệp thuê gia công
cung ứng, do đó càng mang lại thêm lợi nhuận cho các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp
sản xuất xe máy ngày càng sử dụng nhiều các bộ phận và linh kiện trong nước, trên 50%, đặc
biệt là các nhãn hiệu xe máy trong nước.
Đáng chú ý là sự tương đồng về sản phẩm xuất khẩu giữa Việt Nam với các đối tác FTA khác
đã tăng lên (căn cứ theo dữ liệu COMTRADE), làm gia tăng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ.
Điều này đặt ra nhu cầu cấp thiết phải xem xét tăng cường giá trị gia tăng ở các khía cạnh
Việt Nam có lợi thế so sánh trong tương lai. Theo quan điểm lợi thế so sánh, sản lượng và quy
mô sản xuất rất quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất ô tô.
Đổi mới là một trong các tiêu chuẩn chủ yếu về khả năng cạnh tranh quốc tế theo quan điểm
của EU lại chưa được chú trọng ở Việt Nam, đặc biệt là thiết kế và nhãn hiệu, kể cả trong sản
xuất ô tô, dệt may và da giày.
5
Sau 4 năm gia nhập WTO, các yêu cầu về sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại vẫn chưa
được thực hiện một cách đầy đủ và vấn nạn hàng giả chưa được giải quyết triệt để
2
. Việc đăng
ký thương hiệu và đổi mới ở Việt Nam vẫn còn ở mức thấp. Chính phủ Việt Nam cần tập
trung nỗ lực bảo vệ thương hiệu quốc tế, tên thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài việc
xâm phạm các quyền hợp pháp về sở hữu trí tuệ, các loại hàng giả phụ tùng ô tô, dược phẩm,
phân bón, vật liệu xây dựng còn có nguy cơ gây nguy hiểm cho xã hội.
6. Ngành ô tô
Ngành ô tô được coi là rất nhạy cảm. Ngành ô tô của Việt Nam có sản lượng ít hơn 30.000
đơn vị sản phẩm sản xuất trong nước. Chính phủ đã coi đây là một ngành chủ chốt của Việt
Nam. Trong ASEAN, Việt Nam phải đối mặt với áp lực cạnh tranh mạnh mẽ, đặc biệt là theo
lộ trình cắt giảm thuế ASEAN vào năm 2018. Dưới sự bảo hộ bằng biện pháp thuế nhập khẩu
và thuế tiêu thụ đặc biệt, sản xuất trong nước dưới dạng lắp ráp (CKD) có thể phát triển.
Việc chuẩn bị đối phó với cạnh tranh gia tăng đặt ra yêu cầu phải tăng cường nội địa hóa, ứng
dụng công nghệ và hội nhập mạnh mẽ hơn vào chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp sản xuất
thiết bị gốc (OEM) nước ngoài. Điều này đặt ra khả năng xem xét đưa ngành ô tô trong FTA
và Chính phủ Việt Nam cần tạo thuận lợi cho nhập khẩu dạng CBU (lắp ráp hoàn chỉnh / nhập
khẩu xe mới hoặc đã qua sử dụng) và CKD. Nhiều khả năng là xe ô tô nhập khẩu từ EU, chủ
yếu trong phân khúc cao cấp, sẽ không cạnh tranh với sản xuất ô tô trong nước. Nhập khẩu
dạng CBU từ EU thậm chí còn có thể tạo thành lợi thế cho các ngành phụ trợ trong nước bởi
nhập khẩu sẽ tạo ra nhu cầu nâng cao năng lực trong lĩnh vực bảo dưỡng, cải thiện tiêu chuẩn
chuyên môn, nghiệp vụ của lao động, cũng như các kỹ năng và chuyên môn sau bán hàng.
Việc đặt ra các rào cản kỹ thuật đối với nhập khẩu dạng CBU đã khiến một số lượng lớn các
đại lý ô tô phải đóng cửa, người lao động mất việc làm.
FTA có thể cải thiện xuất khẩu phụ kiện phụ trợ, chẳng hạn như miếng đệm, giảm xóc, cần
gạt nước mưa, bộ lọc không khí, hệ thống ống xả, dầu và bộ lọc không khí, cụm cu-roa truyền
tải, ắc quy và bugi, v.v
Phân ngành xe máy tương đối cạnh tranh và đã đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ, có tiềm
năng xuất khẩu, đặc biệt nếu có FTA với EU. Nếu thuế nhập khẩu vào EU giảm xuống 0% thì
phân ngành này sẽ đạt được lợi thế bổ sung từ thuế tới 6%. Do yêu cầu thấp hơn về công nghệ
và chi phí đơn vị, các nhà cung ứng trong nước có thể và đã phát triển, củng cố thành chuỗi
cung ứng trong nước. Khi thuế ngày càng cắt giảm thông qua nhiều FTA trong ASEAN, các
nhà sản xuất xe máy lớn của Nhật Bản cho rằng không kinh tế nếu đặt cơ sở sản xuất ở từng
thị trường. Do thuế bằng nhau, họ sẽ cân nhắc đến các yếu tố khác khi đặt cơ sở sản xuất và
tránh việc lập các cơ sở sản xuất như nhau ở từng nước. Tóm lại, do xu hướng này, Việt Nam
sẽ hấp dẫn hơn với ý nghĩa là một trung tâm sản xuất.
Xung đột và bất lợi đang diễn ra ở các nước khác không có lợi cho đầu tư (Ấn Độ: chi phí
cao, Trung Quốc: kiểm soát chặt chẽ, Indonesia: khá an toàn, Thái Lan: chính trị bất ổn).
Ngành ô tô ở EU là một đầu tàu quan trọng nhất về công nghệ và đổi mới. Tỷ trọng lao động
trong ngành ô tô ở EU như Đức lên đến 13%. Hầu hết các sáng chế và cải tiến công nghệ
công nghiệp sản xuất được áp dụng trong ngành ô tô. Việc mở rộng của chuỗi cung ứng quốc
tế ngày càng quan trọng. Thị trường cấp 1 và thị trường cấp OEM rất phức tạp và đòi hỏi tuân
thủ trong nhiều khía cạnh khác nhau. Việt Nam có sự lựa chọn là tập trung vào thị trường sau
bán hàng để cung ứng phụ kiện và phụ tùng.
2
Eurocham: Các vấn đề thương mại, đầu tư và khuyến nghị, 2011
6
7. Ngành dệt may
Việt Nam là nước sản xuất lớn thứ năm về dệt may trên thế giới với triển vọng tích cực trong
việc tăng doanh thu hoạt động CMT (cắt, may và tô - cut, make & trim). Doanh thu xuất khẩu
hàng năm dự kiến đạt 11 tỷ USD vào năm 2011 với mức tăng trưởng ổn định trong 10 năm
qua. Hầu hết doanh thu từ CMT với lợi nhuận ước tính là 4-10% (với xu hướng lợi nhuận
giảm). Ngoài ra, khoảng 4,2 tỷ USD doanh thu hàng hóa bán trên thị trường trong nước, với
giả định có giá trị gia tăng ở mức cao hơn nhờ nguồn cung sợi và vải trong nước. Không có
thông tin kiểm nghiệm về điểm này, do đây là thông tin từ hiệp hội và báo chí.
Việt Nam có khoảng 3.000 công ty dệt may trong nước, trong đó có 2.000 công ty lớn.
Khoảng 75% tổng số là công ty tư nhân hoặc công ty cổ phần; 24,5% là các công ty vốn FDI
và 0,05% là công ty nhà nước.
Ngành dệt may tăng trưởng dựa trên "số lượng" nhờ khả năng quay vòng nhanh và tận dụng
tốt công suất, nhưng chưa làm được “việc tạo dựng giá trị” dựa vào lợi nhuận trên mỗi đơn vị
và giá trị gia tăng theo chuỗi cung ứng. Lợi nhuận cơ bản ở mức thấp trong ngành sẽ không
tạo ra được tiền đề cho sự tăng trưởng và đầu tư dài hạn. Số lượng ngày càng tăng sản phẩm
thời trang ở EU với mẫu mã và yêu cầu sản xuất thay đổi nhanh chóng, thời gian giao hàng
nghiêm ngặt sẽ tạo áp lực về quản lý, sản xuất, tổ chức và vận chuyển đối với các công ty Việt
Nam.
Hiệp hội Dệt may (VITAS) có thể tham gia từng bước việc phân tích các tiêu chuẩn để cải
thiện khả năng tự đánh giá của các công ty dệt may. Các hiệp hội giày dép, ô tô và điện tử
cũng có thể áp dụng cách tiếp cận tương tự.
Tổng doanh thu nhập khẩu bông, sợi nhân tạo, sợi và vải và các phụ kiện chiếm 8,9 tỷ USD
trong năm 2010 (bao gồm cả bông nhập khẩu cho sản xuất sản phẩm phục vụ thị trường trong
nước), như vậy phần lời còn lại là 3,3 tỷ USD, cho thấy mức lợi nhuận thấp. Xem xét mức lợi
nhuận này trong mối liên hệ với việc làm cho 3 triệu công nhân và khoảng 3.000 công ty dệt
may cho thấy ngành dệt may không thể đầu tư lớn cho phát triển sản xuất theo chiều dọc,
chẳng hạn như phát triển các công đoạn kéo sợi, dệt và hoàn thiện.
Do đó, đầu tư vào ngành dệt có triển vọng hơn ở các doanh nghiệp FDI. Đầu tư vào các nhà
máy cũ hiện có bị hạn chế bởi bố trí xưởng, công nghệ sản xuất, hạ tầng, thiếu hệ thống bảo
vệ môi trường thường phức tạp và không khả thi. Tuy vậy, một số doanh nghiệp lớn trong
nước vẫn có thể thành công trong việc chuyển đổi các nhà máy của mình.
Việt Nam xuất khẩu hàng may mặc cho Hoa Kỳ (55%), EU (18%), Nhật Bản (11%), Hàn
Quốc (3%) và các nước ASEAN khác (2% ). EU là thị trường lớn nhất thế giới về quần áo
may sẵn với 500 triệu người tiêu dùng tiềm năng cho xuất khẩu CMT sau khi có FTA. Nếu
không có FTA, Việt Nam có thể sẽ mất thị phần trong thị trường EU hoặc phải chia sẻ với các
nước cạnh tranh trong khu vực ASEAN.
Lợi ích của FTA Việt Nam-EU là sẽ làm tăng đáng kể xuất khẩu CMT sang EU. Chẳng hạn
như nhờ giảm thuế theo FTA ASEAN-Hàn Quốc mà Việt Nam tăng xuất khẩu sang Hàn
Quốc đến 240% trong vòng một năm. Giả định FTA sẽ giảm thuế EU cho hàng may mặc
xuống 0% thì lợi ích về thuế cho Việt Nam có thể tới 12%.
8. Ngành da giày
Ngành da giày Việt Nam cung cấp khoảng 670.000 việc làm trực tiếp và 500.000 việc làm
trong các ngành phụ trợ.
7
Theo rà soát của Hiệp hội Da giày Việt Nam (LEFACO) năm 2008, ngành da giày có 825
doanh nghiệp vừa và nhỏ, cộng thêm ước tính khoảng 1.000 hộ sản xuất.
Năng lực sản xuất khoảng 1.600 dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh có sản lượng hàng năm
khoảng 800 triệu đôi giày dép, 120 triệu túi xách, 270 triệu đôi giày da thành phẩm và
1.400m2 PVC và PU.
Tiêu thụ trong nước chỉ chiếm 9% tổng sản lượng trong năm 2010, qua đó khẳng định da giày
là một ngành xuất khẩu quan trọng. Hầu hết các công ty Việt Nam hoạt động theo hợp đồng
thầu phụ và gia công, còn lại doanh nghiệp FDI sẽ cung cấp nguyên liệu, phụ kiện. Khoảng
80% nguyên liệu là nhập khẩu. Các doanh nghiệp FDI của Đài Loan và Hàn Quốc chiếm hơn
một nửa tổng doanh thu xuất khẩu
3
.
Vị trí vững chắc của xuất khẩu Việt Nam trong các thị trường EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản cho
thấy ngành này có tính cạnh tranh, mặc dù dựa vào lợi thế lao động rẻ với kỹ năng cơ bản.
Các hợp đồng thầu phụ thường gắn với các thương hiệu giày nổi tiếng, như Nike. Nike chiếm
khoảng 25-30% vốn đầu tư nước ngoài trong ngành. Thuế nhập khẩu da không đáng kể
(khoảng 5%) và được hoàn khi xuất khẩu.
Ngành da giày Việt Nam không thể cạnh tranh với Trung Quốc về giá thành trên thị trường
trong nước do chi phí nguyên vật liệu cao, năng lực thiết kế mẫu mã hạn chế và năng suất
nhìn chung thấp. Tuy nhiên, theo LEFASO, chất lượng da giày Việt Nam cơ bản tốt hơn
Trung Quốc
Doanh thu xuất khẩu trong 10 năm qua gia tăng một cách vững chắc. Tỷ trọng xuất khẩu da
giày sang EU đã giảm trong 10 năm qua từ 75% xuống khoảng 47%. Xuất khẩu sang Hoa Kỳ
chiếm khoảng 27% tổng xuất khẩu.
Năm 2010, tổng nhập khẩu da giày EU là 13,5 tỷ euro (khoảng 18 tỷ USD theo tỷ giá hiện
hành), tương đương 10% tổng nhập khẩu da giày của EU. Hiện nay, EU đánh thuế ở mức
16,5% trên giá cập cảng đối với da giày xuất khẩu Việt Nam, do đó việc có được FTA với EU
sẽ có nhiều lợi ích.
EU áp thuế chống bán phá giá năm 2006, kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm 2011. Kể từ tháng
4 năm 2011, xuất khẩu sang EU đã tăng lên đáng kể. Điều thú vị là Hiệp hội các nhà nhập
khẩu và chuỗi bán lẻ da giày châu Âu (FAIR) cho rằng điều tra chống bán phá giá của EU đối
với da giày Việt Nam là một việc làm “sai lầm và định kiến”. Hiệp hội này cho rằng sự khác
biệt lớn giữa giá nhập khẩu trung bình của 9 euro và giá bán trung bình 30 euro chỉ phản ánh
chi phí lao động và nguyên vật liệu. Mức gia tăng đến 300% từ giá FOB tới giá CIF là do chi
phí phân phối, tiếp thị thương hiệu, thiết kế, phát triển công nghệ, kiểm soát chất lượng, hoạt
động tiếp thị, chi phí điểm bán hàng và lợi nhuận cũng như biên lợi của nhà nhập khẩu và bán
lẻ.
FAIR đại diện cho hơn 100 nhà nhập khẩu da giày và các nhà bán lẻ lớn ở Pháp, Hoa Kỳ,
Anh, Đức, Áo, Hà Lan với tổng cộng khoảng 90,000 lao động.
9. Ngành điện tử
Ngành điện tử là một trong những lĩnh vực trọng tâm của Việt Nam, chiếm lĩnh bởi các doanh
nghiệp FDI Nhật Bản và Hàn Quốc, cung cấp hơn 95% xuất khẩu và thống lĩnh sản phẩm
trong nước.
3
LEFASO
8
Từ năm 2003, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm đặc biệt đến ngành này. Trong khuôn khổ
Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Việt Nam đã giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập
nhập khẩu của 755 sản phẩm nhập khẩu từ các nước ASEAN khác, gồm nhiều sản phẩm điện
tử. Đến nay, các doanh nghiệp FDI của EU rất ít đầu tư tại Việt Nam, trừ Siemens, Schneider
và Phillips. Các doanh nghiệp của EU ở Việt Nam đã nhìn ra triển vọng về thị trường liên
ASEAN. Electrolux là một ví dụ tích cực về việc tìm cách từng bước liên kết các nhà sản xuất
trong nước vào dây chuyền sản xuất đồ gia dụng của họ, là lĩnh vực mà đầu tư của các công ty
điện tử Nhật Bản tại Việt Nam đang diễn ra một cách rầm rộ. Những lý do chính cho việc đầu
tư theo các nhà đầu tư là chi phí sản xuất thấp, lao động trẻ dưới 30 tuổi chiếm 60%, chi phí
lao động thấp (35-45% rẻ hơn so với ở các thành phố lớn của Trung Quốc). Một lý do quan
trọng khác là sự ổn định chính trị và xã hội trong nước.
Ngành viễn thông đang bùng nổ với nhiều dịch vụ được cung cấp bởi các công ty trong nước.
Theo Chiến lược phát triển CNTT&TT đến 2010 và định hướng đến năm 2020, mục tiêu đặt
ra cho ngành này đến năm 2015 là:
Đạt xếp hạng thứ 70 trong bảng xếp hạng của Liên minh Viễn thông quốc tế;
Đóng góp của CNTT vào GDP từ 17-20%;
Cung cấp dịch vụ băng thông rộng tới tất cả các xã, phường trong cả nước, bao gồm cả
dịch vụ TV;
Công nghệ phát thanh chiếm 70%;
Phủ sóng điện thoại toàn quốc 100%.
Phần lớn các mục tiêu đề ra nói trên khó trở thành hiện thực nếu chỉ dựa vào các doanh
nghiệp trong nước do sức mạnh áp đảo về thị trường và năng lực sản xuất của các doanh
nghiệp FDI nước ngoài. Hợp tác giữa doanh nghiệp FDI và các nhà cung cấp địa phương phải
được cải thiện và các nhà sản xuất địa phương phải tập trung vào lĩnh vực có lợi thế, từng
bước xóa bỏ các sản phẩm không có lợi nhuận. Các loại sản phẩm không có lợi nhuận khó có
khả năng mang lại lợi nhuận trong tương lai vì khoảng cách về công nghệ sẽ gia tăng và chi
phí sản xuất tăng do quy mô nhỏ.
400 doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế về công nghệ. Các doanh nghiệp nhỏ đầu tư không
quá 0,5% doanh thu vào thiết bị và công nghệ (F&E) so với 10% ở các công ty đa nước châu
Á, đặc biệt là các công ty của Nhật Bản và Hàn Quốc tại Việt Nam.
Ngành điện tử có tiềm năng phát triển về phần mềm theo quy mô nhỏ dưới hình thức cấp phép
(ví dụ như sản xuất phần mềm cho các hệ thống tự động hóa, an ninh dân dụng và các thiết bị
thông minh).
10. Các khuyến nghị chính
- Chính phủ cần tạo dựng các đầu mối phát triển khu vực công / tư hiệu quả với định hướng
thương mại và tính cạnh tranh. Các đầu mối này bao gồm các nhà hoạch định chính sách đại
diện cho khu vực công và lãnh đạo các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân (theo ngành)
cũng như đại diện của các hiệp hội ngành và các tổ chức hỗ trợ thương mại. Mục tiêu là xác
định được quan điểm chung về các vấn đề nổi bật cần được giải quyết thông qua hợp tác chặt
chẽ giữa khu vực tư nhân và khu vực công. Những người đại diện cần lập ra một nhóm công
tác để giải quyết các vấn đề ưu tiên. Một mục tiêu đặt ra là đáp ứng tốt hơn các lợi ích khác
biệt và thống nhất về các lĩnh vực ưu tiên.
- Thực hiện phân tích chi tiết chuỗi giá trị khu vực.
9
- Đàm phán FTA cần được bổ trợ bằng các chiến lược, biện pháp phát triển ngành một cách
thực tế để khắc phục được những hạn chế đã nêu.
- Chính phủ cần xác định một cách tiếp cận cân bằng giữa nhu cầu thay thế nhập khẩu và nhu
cầu tăng trưởng xuất khẩu giữa các ngành.
- Viện Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và các viện, tổ chức công / tư thích hợp khác cần
triển khai các nghiên cứu tổng quát, chi tiết cơ bản về các ngành chủ chốt có định hướng xuất
khẩu hoặc thay thế nhập khẩu khác. Phân tích phải đánh giá được tác động ở các cấp độ vi
mô, trung mô và vĩ mô.
- Mục tiêu và lợi ích dự kiến là xác định, mô tả được các hàm số giá trị gia tăng, các điểm tắc
nghẽn, cũng như các tiềm năng về kinh tế và tổ chức trong các ngành này.
- Phối hợp thực hiện xúc tiến FDI giữa các hiệp hội công nghiệp ở các nước EU thông qua các
thương vụ đặt tại đại sứ quán Việt Nam ở các nước này.
- Các hiệp hội ngành cần được củng cố và kết nối tốt hơn với tư cách là đại diện và nhà cung
cấp dịch vụ ở cấp độ trung mô.
- Cải thiện xuất khẩu và xúc tiến thương mại công bằng cho các ngành tại các thị trường EU.
- Tiến hành phân tích đầu tư dựa trên phân tích chuỗi giá trị.
- Chính phủ thực hiện cơ chế "một cửa" cho các nhà đầu tư từ EU và các đối tác kinh doanh.
10
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
EU
Liên minh châu Âu
FTA
Hiệp định thương mại tự do
SME
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
SWOT
Sức mạnh, Điểm yếu, Cơ hội
và Thách thức
CIEM
Viện Quản lý kinh tế trung ương
CMT
Cắt-May-Tô
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới
CKD
Dạng linh kiện lắp ráp
CBU
Dạng nguyên chiếc nhập khẩu
OEM
Nhà sản xuất thiết bị gốc
VITAS
Hiệp hội Dệt may Việt Nam
LEFACO
Hiệp hội Da giày Việt Nam
FAIR
Hiệp hội các nhà nhập khẩu và chuỗi
bán lẻ da giày châu Âu
FOB
Giá giao trên bong tàu
CIF
Giá FOB + Bảo hiểm + Vận tải
AFTA
Khu vực thương mại tự do
ASEAN
R & D
Nghiên cứu & Phát triển
VC
Chuỗi giá trị
CSR
Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp
LPI
Chỉ số hậu cần
SPPP
Tiền lương theo sức mua tương
đương
IPR
Quyền sở hữu trí tuệ
MOIT
Bộ Công Thương
GSP
Ưu đãi thuế quan phổ cập
VEIA
Hiệp hội Doanh nghiệp điện
tử Việt Nam
PU
Nhựa tổng hợp dùng chế tạo sơn
PVC
Nhựa PVC
VGCL
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
ILO
Tổ chức Lao động Quốc tế
LLDC
Các nước kém phát triển
RMG
Hàng may sẵn
EVA
Giá trị kinh tế gia tăng
SVA
Chiến lược về giá trị gia tăng
ISO
Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế
RAPEX
Hệ thống cảnh báo nhanh
châu Âu
BSCI
Sáng kiến tuân thủ kinh doanh xã hội
SA8000
Hệ thống quản lý trách nhiệm
doanh nghiệp với xã hội
QS
Hệ thống quản lý chất lượng
11
VDA
Hiệp hội ô tô ở Đức
IT
Công nghệ thông tin
CLEPA
Hiệp hội các nhà cung cấp ô
tô châu Âu
TEC
Hội đồng Kinh tế Đại Tây Dương
ITA
Hội thảo công nghệ thông tin
ES
Hệ thống phần mềm tích hợp
OHS
Sức khỏe và an toàn nghề
nghiệp
EICC
Quy tắc ứng xử ngành điện tử
12
I. GIỚI THIỆU
I.1. Lịch sử và tình hình hiện tại quan hệ song phương giữa Việt Nam và EU
Nhìn chung, quan hệ Việt Nam-EU dựa trên Hiệp định khung về Hợp tác được ký ngày 17
tháng 7 năm 1995 và có hiệu lực vào ngày 1 tháng 6 năm 1996.
Ngày 25-27 tháng 11 năm 2007, hai bên đã nhất trí về một thỏa thuận tiếp theo với mục tiêu
tăng cường hơn nữa quan hệ song phương. Đây là cuộc đàm phán đầu tiên cho Hiệp định
khung về Đối tác và Hợp tác toàn diện. Thương mại song phương giữa EU và Việt Nam
khoảng 13 tỷ euro trong năm 2010. Trong ASEAN, Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ
ba của EU.
Các cơ quan Chính phủ và phía EU mong đợi một sự nhảy vọt về đầu tư FDI từ EU sau khi ký
kết FTA với EU. Theo nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại - ông Trương Đình Tuyển, các
doanh nghiệp của EU đầu tư khoảng 16 tỷ USD cho 1079 dự án đầu tư tại Việt Nam.
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU sẽ bao gồm dệt may, giày dép, hải sản
và cà phê. Các ngành ô tô và điện tử / cơ điện tử có phần nhạy cảm (ô tô) hoặc sẽ phải chịu áp
lực cạnh tranh mạnh mẽ.
I.2. Mức độ hấp dẫn của thị trường 27 nước EU
Theo kết quả khảo sát các doanh nghiệp Việt Nam do Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI) thực hiện, 97% doanh nghiệp được phỏng vấn (các ngành được phỏng vấn
chưa rõ) đều muốn có FTA EU-Việt Nam trong thời gian sớm nhất. FTA với mức cắt giảm
thuế xuống 0% cho ít nhất 90% mặt hàng xuất khẩu sẽ mang lại cơ hội xuất khẩu sang 27
nước thành viên EU với khoảng 500 triệu người tiêu dùng có sức mua cao ở các nước EU và
Nga.
Sức mua của các nước EU - kể cả Moldowa, Nga
Nước
Sức mua mỗi
năm
Nước
Sức mua mỗi
năm
Nước
Sức mua mỗi
năm
Liechtenstein
32,203
Tây Ban Nha
12,997
Serbia
3,573
Luxemburg
22,331
Hy Lạp
12,447
Bosnia
3,306
Thụy Sĩ
19,658
Slowenia
11,614
Mazedonia
3,163
Áo
17,531
Bồ Đào Nha
11,115
Ukraine
1,853
Vương quốc
Anh
16,710
Malta
10,158
Belarus
1,815
Pháp
16,706
Cộng hòa Séc
8,265
Albania
1,482
Norway
16,559
Hungary
7,805
Moldova
783
Bỉ
16,260
Lithuania
7,197
Đức
16,207
Poland
6,949
Trung bình
của EU
14,255
13
Italy
16,162
Croatia
6,313
Số tham chiếu:
Thu nhập ròng + các khoản
chuyển từ chính phủ sang hộ gia
đình
Sức mua điều chỉnh theo giá,
có tính đến chi phí sinh hoạt và
mức giá khác nhau ở các nước
Ireland
16,050
Slovakia
6,267
Netherlands
14,696
Estonia
5,963
Iceland
14,687
Latvia
5,632
Thụy Điển
13,975
Romania
4,567
Phần Lan
13,886
Bulgaria
4,313
Đan Mạch
13,634
Thổ Nhĩ Kỳ
4,257
Cyprus
13,167
Nga
3,750
Nguồn: www.krone.at , 2011
EU là đối tác xuất khẩu lớn thứ hai với 16,6% tổng xuất khẩu từ Việt Nam và là đối tác nhập
khẩu lớn thứ sáu với 7,1% tổng nhập khẩu từ Việt Nam
4
.
Có thể thấy rằng Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực một cách tham vọng nhằm đàm phán FTA
đồng thời với nhiều nước cũng như thúc đẩy thương mại trên toàn thế giới. Mặc dù Việt Nam
dường như ưu tiên nhiều hướng đàm phán mới, Chính phủ Việt Nam cần nhận thức được
những lợi ích dự kiến của FTA với EU. Thương mại song phương, trao đổi công nghệ và đầu
tư trực tiếp nước ngoài có nhiều khả năng cải thiện đáng kể trong các ngành đề cập ở nhiều
cấp độ và cường độ khác nhau.
I.3. Bài học từ việc gia nhập WTO
CIEM
5
đã tóm lược một số hạn chế và bài học kinh nghiệm sau ba năm gia nhập WTO. Các
hạn chế sau khi gia nhập WTO gồm có:
Về hoạch định chính sách (nhằm tạo ra một môi trường bền vững cho phát triển kinh tế -
xã hội, thực hiện các kế hoạch tổng thể tham vọng đã đề ra): thiếu sự phối hợp liên Bộ ("là
các đầu mối tiếp xúc với cộng đồng doanh nghiệp")
Khả năng cạnh tranh thấp của doanh nghiệp, quốc gia và các sản phẩm (so sánh trong
ASEAN)
Bất cập trong thu hút FDI (mặc dù giải ngân vốn đầu tư nước ngoài thường giữ ở mức ổn
định với mục tiêu đề ra là 11-11,5 tỷ USD, theo nguồn tin chính thức
6
)
Gia tăng bất bình đẳng xã hội
Một số vấn đề này cũng được đại diện các ngành đề cập đến trong các buổi tham vấn với
chuyên gia.
Ngược lại, báo Việt Nam News ngày 9 tháng 12 năm 2011 thông tin về một cuộc khảo sát
3.300 doanh nghiệp vừa và nhỏ do VCCI thực hiện trong các ngành xây dựng, dệt may, nông
nghiệp, chế biến thủy sản, điện tử, dược phẩm, kỹ thuật, ngân hàng và bất động sản cho biết
sau bốn năm Việt Nam trở thành thành viên WTO, 80% công ty được phỏng vấn cho rằng
4
5
CIEM/Center for Information and Documentation, working paper 1-2010
6
Việt Nam News, ngày 28 tháng11, 2011
14
kinh doanh tiến triển tích cực đi kèm lợi nhuận cao và doanh số bán hàng, xuất khẩu gia tăng.
9% cho rằng kinh doanh không có thay đổi, trong khi 8% có doanh thu không ổn định và 3%
suy giảm kinh doanh. Khảo sát cũng cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều cho rằng việc
thiếu thông tin là trở ngại lớn nhất.
Nhìn chung, các FTA có khả năng thúc đẩy thương mại và cải thiện năng lực cạnh tranh quốc
gia và quốc tế. Mở cửa thị trường sẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội, giao lưu chia sẻ ý tưởng và chính
sách, hỗ trợ vận dụng công nghệ mới và ứng dụng rộng rãi vào nhiều lĩnh vực. Các biện pháp
bảo hộ như rào cản kỹ thuật cản trở nhập khẩu xe ô tô cao cấp từ EU hoặc các rào cản đối với
dịch vụ trung gian (bất kể không phân biệt đối xử hay có phân biệt đối xử) đều có thể cản trở
sự phát triển tự do về kinh tế của các ngành
7
.
Việc nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế thường diễn ra dưới áp
lực thị trường và các đối thủ cạnh tranh. Bảo hộ và thiết lập rào cản phi thuế và rào cản kỹ
thuật nhằm bảo hộ các ngành hoặc phân ngành nhất định đồng thời sẽ tạo ra văn hóa tự cô lập
trước những chuyển biến nhanh chóng về cạnh tranh toàn cầu, cản trở sự sáng tạo và đổi mới.
I.4. Các hiệp định thương mại tự do song phương khác
Bên cạnh nỗ lực nhằm đàm phán FTA với EU, Chính phủ Việt Nam cũng tham gia vào việc
đàm phán nhiều FTA, thỏa thuận thương mại song phương và hiệp định đối tác khác trên thế
giới. Thông tin chi tiết về tiến trình đàm phán cũng như tác động dự kiến đối với Việt Nam có
thể tham khảo trong tài liệu “Hội nhập khu vực và các cơ hội, thách thức đối với doanh
nghiệp Việt Nam” do hai chuyên gia Claudio Dordi và Frederico Lup Pasini xuất bản năm
2011.
II. BỐI CẢNH CỦA NGHIÊN CỨU
Phân tích tác động hoặc tác động tiềm năng của Hiệp định thương mại tự do trong một số lĩnh
vực cụ thể đã được thực hiện qua một số nghiên cứu tác động vi mô/vĩ mô khác, như hoạt
động FTA/HOR/2010. Mục đích của nghiên cứu này là xem xét chi tiết hơn các ngành dệt
may, da giày, điện tử và ô tô. Nghiên cứu này tìm hiểu hiện trạng của từng ngành, các vấn đề
về chuỗi cung ứng và đưa ra nhận xét về các khía cạnh liên quan đến FTA Việt Nam-EU.
Nghiên cứu này cũng đồng thời đề cập đến các chính sách khuyến khích doanh nghiệp vừa và
nhỏ nhằm đưa ra đề xuất để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, gia tăng giá trị trong chuỗi
cung ứng. Nghiên cứu này cũng phân loại các rào cản kỹ thuật và phi thuế, đánh giá việc tuân
thủ tiêu chuẩn trong các ngành nêu trên. Nghiên cứu cũng chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu
và các nhân tố thành công trong 4 ngành này. Nghiên cứu đánh giá các yếu tố về năng lực
cạnh tranh và mức độ hấp dẫn của thị trường trong thương mại với EU.
III. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN NGÀNH
III.1. Các phương pháp phân tích
Mục tiêu của phân tích chuỗi giá trị truyền thống là nhằm cải thiện hoạt động của các doanh
nghiệp hoặc ngành để phát triển nội lực, liên kết với bên ngoài và thị trường. Việc phân tích
này đòi hỏi dữ liệu tin cậy và thông tin đầu vào khách quan (như các nhà cung cấp đầu vào,
các nhà sản xuất, logistics hỗ trợ, thương nhân và đại lý bán lẻ, người tiêu dùng cuối cùng),
các kênh liên quan (như nghiên cứu, thiết bị và công nghệ, các nhà sản xuất, các công ty chế
biến, các cụm công nghiệp với các nhà cung cấp và quản lý dịch vụ, các đơn vị nhập khẩu,
xuất khẩu, nhà bán lẻ, người tiêu dùng). Các dữ liệu cần thiết bao gồm nghiên cứu thống kê
7
Viện Kiel của nền kinh tế thế giới / Đức, bản giấy 1293
15
cấp độ doanh nghiệp và thị trường, như số lượng người tham gia chuỗi giá trị, số lượng việc
làm hoặc tiền lương, khối lượng sản xuất và nhập khẩu vật tư, thông tin về các điểm tắc nghẽn
(bottlenecks), chi phí trên mỗi đơn vị, phân bổ chi phí trong phạm vi chuỗi giá trị, các nhà
cung cấp đầu vào, các nhà sản xuất chính, các trung tâm logistic, phân phối và người tiêu
dùng cuối cùng. Những thông tin này cần thiết để xác định được giá trị gia tăng, các yếu tố về
lợi nhuận trong phạm vi chuỗi giá trị, xác định các điểm can thiệp trong chuỗi giá trị ngành và
chuỗi cung ứng.
Chuỗi giá trị và cung ứng toàn cầu cho thấy sự hội nhập của sản xuất trong nước vào thị
trường toàn cầu. Các chuỗi giá trị và cung ứng thường do một số công ty đầu ngành điều phối.
Chuỗi giá trị toàn cầu là kết quả của mối quan hệ hợp đồng trong quản lý cung ứng, sản xuất,
gia công, tiếp thị sản phẩm và dịch vụ trên toàn cầu
8
.
Xét về phương diện toàn cầu trong mối liên hệ với FTA giữa EU và Việt Nam, chuỗi giá trị
và cung ứng là việc tổ chức mua bán, trao đổi công nghệ và sản xuất qua biên giới. Điều này
nghĩa là các bên chính tham gia chuỗi giá trị (VC) thường ở cách xa nơi xuất xứ của sản
phẩm.
Phương pháp đánh giá lý tưởng nhất bao gồm các bước sau, tùy thuộc mức độ sẵn có của dữ
liệu:
Lập sơ đồ chuỗi VC (thể hiện chuỗi giá trị bằng hình ảnh, xác định các hoạt động hoặc
chức năng kinh doanh chính, các bên tham gia chuỗi giá trị, các liên kết và các bên phụ trợ
cho chuỗi giá trị)
Định lượng và mô tả chi tiết chuỗi VC (gán số vào sơ đồ chuỗi như các nhân tố, khối
lượng sản phẩm hoặc thị phần. Tập trung các vấn đề cần quan tâm hoặc liên quan đến các
yếu tố của FTA, như đặc điểm hoặc điều kiện chính trị, thể chế hoặc pháp lý tạo điều kiện
hoặc cản trở sự phát triển của chuỗi giá trị)
Thông tin hạn chế, phạm vi quyền hạn và trách nhiệm đan xen phức tạp.
Phân tích tính kinh tế của chuỗi giá trị (đánh giá chuỗi trên phương diện hiệu quả kinh tế,
giá trị gia tăng qua từng giai đoạn, chi phí sản xuất, thu nhập của các bên tham gia chuỗi,
chi phí giao dịch / chi phí kinh doanh. Lý tưởng nhất là vận dụng phân tích kinh tế thành
tiêu chí áp dụng với các nước đối thủ cạnh tranh trong khu vực ASEAN.
Mặc dù đây là bước cần thiết nhất nhưng không thể thực hiện do thiếu thông tin đáng tin
cậy hoặc hoàn toàn không có thông tin.
Phân tích hạn chế (để xây dựng chiến lược dựa trên các nghiên cứu vi mô hoặc vĩ mô)
Phân tích hạn chế giới hạn áp dụng cho can thiệp để tạo dựng môi trường cho đàm phán
FTA.
(nguồn và phương pháp luận: phương pháp tiếp cận GIZ ValueLink có điều chỉnh)
Để có thông tin tối thiểu về các yếu tố đầu vào/đầu ra của chuỗi giá trị, cần gặp gỡ và phỏng
vấn các bên tham gia chuỗi giá trị. Việc này bao gồm phân tích:
Các nhà cung ứng nguyên liệu và bán thành phẩm theo ngành và phân ngành, nguồn gốc
xuất xứ
Các doanh nghiệp sản xuất, đại diện cho các phân ngành; phân loại theo quy mô và địa
điểm của doanh nghiệp, phản ánh các công đoạn hoặc cấp độ cung ứng khác nhau; phân
biệt giữa nhà cung ứng trong nước, nước ngoài và doanh nghiệp OEM. Cần gặp gỡ vài
trăm doanh nghiệp mỗi ngành để nắm được tổng quan về các bên tham gia chuỗi giá trị
8
UNIDO / Humphrey và Schmitz 2008
16
Các công ty thương mại và cửa hàng bán lẻ (theo tổ chức và định hướng marketing,
thương mại trong nước và xuất khẩu)
Khu vực dịch vụ, các doanh nghiệp dịch vụ và hiệp hội theo thực tế của từng khu vực
(như các tổ chức và công ty cấp chứng chỉ, ngân hàng, nhà cung cấp dịch vụ phát triển
kinh doanh - BDS, các hiệp hội).
Nghiên cứu này theo phân loại sản xuất (ví dụ các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn và nhạy cảm) và
người mua (như hàng tiêu dùng, CMT, thầu phụ và các hoạt động cần ít vốn). Các chuỗi cung
ứng theo người mua bao gồm dệt may và da giày. Nghiên cứu không nhằm mục tiêu cải thiện
chuỗi cung ứng mà tập trung việc xác định xem FTA giữa Việt Nam và EU có mang lại lợi
ích cho các bên hay ưu đãi quan hệ hợp tác giữa các bên hay không, trong trường hợp nào.
Do không có dữ liệu cấp doanh nghiệp và ngành, nhóm nghiên cứu lựa chọn phương pháp
tiếp cận thực tế và đơn giản hơn để phân tích 4 ngành trong thời hạn của hoạt động nghiên
cứu. Các dữ liệu cấp vi mô, như lợi nhuận, giá trị gia tăng của các bên tham gia chuỗi giá trị
v.v… cần được bổ sung bằng các nghiên cứu riêng, bao gồm các chuyến khảo sát thực tế đến
một số doanh nghiệp trong các ngành hoặc trong các công đoạn liên quan của chuỗi cung ứng
và các nhà thầu phụ.
Các doanh nghiệp FDI châu Á chiếm vị trí thống lĩnh trong sản xuất ở Việt Nam, đặc biệt
trong các lĩnh vực cơ khí ô tô, điện tử và một phần ngành da giày rất dè dặt trong việc cung
cấp thông tin nhạy cảm của họ. Các hiệp hội và cơ quan quản lý liên quan của Việt Nam thì
lại không nắm được thông tin về cấu trúc chi phí, lợi nhuận và giá trị gia tăng trong chuỗi giá
trị. Phó Chủ tịch Hiệp hội da giày cho rằng chỉ có thể thu thập được thông tin khi trực tiếp gặp
gỡ doanh nghiệp trên cơ sở mối quan hệ lâu dài và đáng tin cậy giữa các bên.
Nghiên cứu này dựa trên 3 phương pháp phân tích định tính với sự hỗ trợ của thông tin định
lượng nếu sẵn có:
Phân tích sơ đồ chuỗi giá trị/chuỗi cung ứng. Phân tích này tập trung vào:
Các vấn đề định tính với sự hỗ trợ của thông tin định lượng sẵn có
Các bên liên quan đến chuỗi giá trị trong các ngành
Các nhân tố chính của chuỗi giá trị
Quan hệ giữa các nhà cung ứng và các doanh nghiệp đa quốc gia quốc tế
Các vấn đề khác về chuỗi cung ứng
Phân tích SWOT về hiện trạng và tác động của FTA theo từng ngành:
Thể hiện Điểm mạnh, Điểm yếu, Cơ hội và Thách thức đối với ngành, kèm theo bình luận về
tác động của FTA từ quan điểm của Việt Nam và EU.
Phân tích các yếu tố thành công chủ yếu:
Xác định các điều kiện tiên quyết để phát triển ngành một cách tích cực, tăng cường và phát
triển thương mại.
III.2. Lựa chọn ngành
Tiêu chí lựa chọn:
Việc lựa chọn các ngành có khả năng phát huy thương mại trong nước và quốc tế sau khi có
FTA đã được phân tích trong các nghiên cứu trước đây. Theo báo cáo nghiên cứu “Đánh giá
tác động của các Hiệp định thương mại tự do đối với nền kinh tế Việt Nam” - Mã hoạt động:
FTA-HOR, các ngành được lựa chọn trên cơ sở:
17
- Các sản phẩm quan trọng đối với Việt Nam
- Các sản phẩm có lợi thế so sánh
- Các sản phẩm có lợi thế so sánh trong lĩnh vực sản xuất
- Các ngành gặp khó khăn
Chỉ các ngành có lợi thế so sánh và cạnh tranh trên cơ sở nghiên cứu chiến lược hay kinh tế
mới có thể tận dụng lợi thế dài hạn từ việc ký kết FTA, bao gồm hoạt động thầu phụ hoặc sản
xuất giá trị gia tăng, xuất khẩu sang EU.
Ngành dệt may và da giày có thế chủ động trong các FTA do thành công trong xuất khẩu vào
EU. Ngành ô tô và điện tử vẫn ở thế bị động mặc dù Việt Nam đã có chiến lược từ trung đến
dài hạn để cải thiện năng lực cạnh tranh và xuất khẩu.
Sự phát triển bền vững của các ngành, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đòi hỏi cải thiện năng lực
cạnh tranh để tránh “bẫy thu nhập trung bình” và gia tăng phụ thuộc vào các hợp đồng thầu
phụ có mức lợi nhuận thấp.
Một số yếu tố thành công bao gồm:
Lợi thế so sánh trong sản xuất
Lợi thế so sánh về giá và biên lợi nhuận
Khả năng tạo giá trị bổ sung khi tích hợp chuỗi cung ứng
Tiêu chuẩn (tiêu chuẩn về xã hội và môi trường - CSR) phải đạt được theo lộ trình và thời
hạn xác định
Tiềm năng cải thiện các chỉ số năng lực cạnh tranh, tiêu chuẩn về chất lượng của sản
phẩm và dịch vụ, năng suất, thời gian hoàn thành các thủ tục hành chính, khả năng thay
đổi thiết kế và yêu cầu nguyên vật liệu, nghiên cứu thị trường, tiếp cận nguồn vốn,
phương thức gửi hàng và hạ tầng, lao động và đào tạo
9
Các lợi thế có thể đạt được về chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế, bao gồm tích hợp
chuỗi cung ứng trong nước
Các thị trường trong nước, thị trường ASEAN hoặc EU hiện tại và tiềm năng, phù hợp với
cơ cấu sản phẩm hiện tại, nội dung và mục tiêu hợp tác hiện nay hoặc trong tương lai (có
hoặc không có FTA) giữa các doanh nghiệp của EU và Việt Nam. Hợp tác và đầu tư của
EU hoặc quốc gia vào Việt Nam dựa trên lợi thế kỳ vọng (2 bên cùng có lợi).
IV. PHÂN TÍCH NGÀNH - VIỆT NAM
IV.1. Năng lực cạnh tranh quốc tế của xuất khẩu Việt Nam - tập trung vào thương mại
với EU
Các nhân tố cạnh tranh của xuất khẩu Việt Nam:
Năng lực cạnh tranh của xuất khẩu ngày càng trở thành yếu tố quan trọng để thành công. Chỉ
khi nào nâng cao được năng lực cạnh tranh, thể hiện qua gia tăng doanh thu nhờ cải thiện giá
trị gia tăng và lợi nhuận thì các ngành xuất khẩu mới có thể tăng cường đầu tư và đổi mới.
Các nhân tố cạnh tranh ở cấp vĩ mô, trung mô và vi mô (doanh nghiệp) bao gồm:
10
9
Báo cáo hoạt động FTA-HOR, trang 102
10
Europaid, Chính sách Phát triển Thương mại và Khu vực tư nhân, 2010
18
Tích lũy vốn - đầu tư vào quy trình, nghiên cứu và phát triển, sản xuất và tiếp thị
Cải tiến sản phẩm - giới thiệu sản phẩm mới, đổi mới thiết kế để tạo sự thu hút
Cải tiến quy trình - giới thiệu các quy trình sản xuất và tạo ra giá trị mới
Tập trung vào marketing - đáp ứng xu hướng thị trường mới và thích ứng với các yêu cầu
của khách hàng EU
Cung ứng và dịch vụ - tối ưu hóa nguồn cung đầu vào như năng lượng, các dịch vụ phát
triển kinh doanh, các dịch vụ tài chính
Môi trường kinh doanh - tối ưu hóa chi phí giao dịch và cơ sở hạ tầng, tăng cường dịch
vụ xúc tiến xuất khẩu, cải thiện khả năng tiếp cận vốn, đối thoại công tư liên quan đến
xuất khẩu
Logistics và hạ tầng vận giao thông vận tải:
Một nghiên cứu đánh giá chỉ số hoạt động logistics (LPI) của Việt Nam và các nước châu Á
khác
11
đã xếp Việt Nam đứng thứ 53 trên toàn thế giới về logistics và thuận lợi hóa thương
mại nói chung, đứng thứ 65 về mức độ kịp thời của ngành logistics. Điểm 5 là điểm số đánh
giá cao nhất cho Singapore. Đánh giá này ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của Việt Nam đối với
các nhà cung ứng hoặc nhà thầu có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của EU trong lĩnh vực dệt
may và da giày sau khi ký FTA. Trong số 10 nước châu Á, Việt Nam xếp thứ 7 theo chỉ số
hoạt động logistics.
Chỉ số hoạt động logistics:
Tên quốc
gia
LPI
Hải
quan
Cơ sở
hạ
tầng
Giao
hàng
quốc tế
Năng lực
logistics
Tìm kiếm
và theo
dõi
Chi phí
logistic trong
nước
Đúng
hạn
Singapore
4,19
3,9
4,27
4,04
4,21
4,25
2,7
4,53
Hàn Quốc
3,52
3,22
3,44
3,44
3,63
3,56
2,73
3,86
Malaysia
3,84
3,36
3,33
3,36
3,4
3,51
3,13
3,95
Trung
Quốc
3,32
2,99
3,2
3,31
3,4
3,37
2,97
3,68
Thái Lan
3,31
3,03
3,16
3,24
3,31
3,25
3,21
3,91
Indonesia
3,01
2,73
2,83
3,05
2,9
3,3
2,84
3,28
Việt Nam
2,89
2,89
2,5
3
2,8
2,9
3,3
3,22
Campuchia
2,5
2,19
2,3
2,47
2,47
2,53
3,21
3,05
Philippines
2,69
2,64
2,26
2,77
2,65
2,65
3,27
3,14
Lào
2,25
8
2
2,4
2,29
1,89
2,13
2,83
11
Báo cáo của EU, dự án 2007/146105 “Hội nhập và Phát triển kinh tế của Việt Nam”
19
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Chỉ số hoạt động logistics (LPI)
Giá trị gia tăng:
Cả bốn ngành có ít nhất một điểm chung ở chỗ hiện đều là các ngành xuất khẩu có khả năng
tạo ra giá trị. Sản xuất tại Việt Nam chỉ chiếm khoảng 10 - 15% tổng giá trị sản xuất trong
nước. Các hoạt động thầu phụ, CMT hoặc lắp ráp chiếm tới 90% tổng giá trị trong các ngành
này. Hầu như không có chuyển giao công nghệ trong hoạt động thầu phụ sản xuất.
Đáng chú ý là sản phẩm sản xuất tại Việt Nam được xuất khẩu sang các nước đối tác FTA
ngày càng giống nhau (theo cơ sở dữ liệu COMTRADE), qua đó có thể so sánh quy trình sản
xuất, sản phẩm và dịch vụ với các nước cạnh tranh. Điều này cho thấy cần phải xem xét giá trị
gia tăng so sánh (lợi thế so sánh) trong tương lai. “Lao động chi phí thấp” sẽ không còn là yếu
tố phát triển bền vững. Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước
thành viên ASEAN cố ý xây dựng cơ sở sản xuất cách xa các khu công nghiệp và thành phố
lớn để tiết kiệm chi phí lao động nên khó có thể kiểm soát tuân thủ luật lao động và các tiêu
chuẩn khác.
Thông tin định lượng về giá trị gia tăng của các yếu tố trong chuỗi giá trị như chi phí đầu vào
và giá đầu ra không sẵn có. Dường như việc thu thập các thông tin này chưa có. Những người
được phỏng vấn xác nhận là rất khó để tiếp cận hoặc thu thập thông tin từ các doanh nghiệp.
GDP bình quân đầu người tại Việt Nam: Từ năm 2000 đến 2008, GDP bình quân đầu người
liên tục tăng. GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện đã vượt mức các nước thu nhập
thấp. Điều này có thể ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh CMT (ngành may mặc đòi hỏi nhiều
nhân lực) trong trung hạn hoặc dài hạn và đặt ra yêu cầu phải nâng cấp công nghệ trong dài
hạn, cải thiện sản xuất và tiếp thị vào EU, bên cạnh việc phát triển ngành CMT đã và đang
trên đà tăng trưởng.
Giả định tiền lương sẽ tăng tương ứng với gia tăng GDP bình quân đầu người. Áp lực tăng
lương đẩy tỷ lệ lạm phát tăng nhanh đến mức 18,5% của tháng 10/2011 so với tháng 10/2010.
20
(Nguồn: Dữ liệu của VUFO và GSO)
Tên quốc gia
Đô la Mỹ
Xếp hạng trong nhóm (SPPP)
Xếp hạng trên thế giới (SPPP)
Singapore
36.537
1
4
Nhật Bản
39.727
2
20
Hàn Quốc
17.078
3
26
Malaysia
6.975
4
49
Thái Lan
3.894
5
80
Trung Quốc
3.744
6
83
Indonesia
2.349
7
106
Philippines
1.745
8
110
Việt Nam
1.052
9
113
Lào
940
10
125
Campuchia
677
11
131
Nguồn: Các chỉ số phát triển thế giới/ Báo cáo Năng lực Cạnh tranh của Việt Nam-CIEM, 2010
(SPPP= Tiền lương theo sức mua tương đương)
Tăng trưởng GDP bình quân đầu người có liên quan đến năng lực cạnh tranh quốc gia và quốc
tế của nền kinh tế, đặc biệt trong các ngành tạo ra nhiều giá trị gia tăng hay công nghệ cao
như dệt (không phải may mặc), cơ khí ô tô và điện tử. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành, nâng thu nhập của lao động có trình độ lên mức trung bình và cải thiện môi trường
21
kinh doanh cùng với các yếu tố khác sẽ góp phần thu hút FDI và tăng cường liên kết chuỗi
cung ứng thông qua sự hỗ trợ của các FTA và thỏa thuận thương mại khác.
Đổi mới trở thành tiêu chí cạnh tranh:
12
Ngoài các tiêu chí khác về năng lực cạnh tranh, đổi mới là yếu tố thúc đẩy sự phát triển và thể
hiện tính độc đáo của doanh nghiệp. Thương hiệu sản phẩm tiêu dùng, bằng sáng chế, nhãn
hiệu, thương hiệu và các quyền sở hữu trí tuệ sẽ tạo ra giá trị gia tăng dài hạn. Văn hóa “bắt
chước chứ không phải đổi mới” của Việt Nam và các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
không những làm suy giảm hình ảnh của đất nước mà còn không nâng cao được năng lực
cạnh tranh. Thiếu đổi mới trong các ngành trọng điểm tạo ra một nền văn hóa phòng thủ,
không khuyến khích sáng tạo trong việc phát triển sản phẩm và cải tiến công nghệ. Tại EU, số
lượng các bằng sáng chế được đăng ký là một trong các chỉ số kinh tế. Đổi mới là yếu tố làm
nên sự khác biệt cơ bản của châu Âu.
Ngoài các khía cạnh pháp lý không phù hợp với quy tắc của WTO về các vấn đề thương mại
liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, hình ảnh và văn hóa thiếu đổi mới có ảnh hưởng tiêu cực
đến các đối tác thương mại, cản trở sự phát triển giá trị gia tăng của thương hiệu, thiết kế và
công nghệ.
IV.2. Ngành ô tô
IV.2.1 Bối cảnh ngành ô tô Việt Nam
Thông tin chung về ngành ô tô:
Thông tin từ Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) cho thấy như sau:
So với các nước thành viên ASEAN khác như Malaysia và Thái Lan, ngành ô tô của Việt
Nam tương đối nhỏ và không có tác động lớn đến GDP như ở các nước khác. Ngành ô tô
được coi là nhạy cảm, bị hạn chế nhập khẩu và áp dụng các biện pháp bảo hộ, phần nào loại
trừ khỏi các hiệp định thương mại hiện hành. Đây là ngành được bảo hộ nhiều nhất so với ở
các nước thành viên ASEAN khác.
Năm 2009 chỉ có 25.480 ô tô được sản xuất trong nước. Trong khi đó, Trung Quốc sản xuất
được gần 14 triệu ô tô
13
. Thái Lan có 7 trong số 11 nhà máy sản xuất ô tô lớn nhất khu vực
Đông Nam Á với công suất hàng năm vào khoảng 1,4 triệu xe. Bốn nhà máy còn lại được đặt
tại Indonesia và Malaysia với công suất hàng năm khoảng 1 triệu xe.
14
Ba thị trường ô tô lớn nhất khu vực ASEAN là Thái Lan (chiếm 8.1% GDP, sản xuất khoảng
1 triệu xe trong năm 2009, tỷ lệ xuất khẩu chiếm khoảng 55%), Malaysia (489 nghìn xe trong
năm 2009) và Indonesia.
Ngành ô tô tạo việc làm cho ít nhất 60.000 người. Khi thuế đối với nhập khẩu ô tô từ các nước
ASEAN vào Việt Nam sẽ được xóa bỏ trong năm 2018, hành động của ngành ô tô trong nước
đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị cho làn sóng nhập khẩu từ các nước thành viên
ASEAN khác. Dưới sự bảo hộ thuế và thuế nhập khẩu, thị trường ô tô lắp ráp (CKD) trong
nước đã có thể phát triển
15
.
Cạnh tranh ngày càng tăng đòi hỏi phải gia tăng hàm lượng nội địa, ứng dụng công nghệ và
liên kết vào chuỗi cung ứng cho các OEM nước ngoài. Bối cảnh này đặt ra vấn đề liên kết
12
Đầu vào từ Eurocham
13
Báo cáo MUTRAP III: Hoạt động FTA-9EU - Phân tích tác động định lượng và định tính, 2011
14
Bộ Công Thương
15
Eurocham
22
ngành ô tô trong FTA. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cần tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho
nhập khẩu ô tô nguyên chiếc mới hoặc đã qua sử dụng và linh kiện để lắp ráp. Thời gian để
đầu tư vào ngành ô tô hoàn tất cũng rất quan trọng trong việc xây dựng một nền tảng vững
vàng cho ngành khi dỡ bỏ thuế bảo hộ trong khu vực ASEAN.
Việt Nam khó có khả năng thành công trong ngắn hạn và trung hạn trong việc sản xuất, xuất
khẩu xe du lịch trừ khi theo mô hình lắp ráp cho các OEM nước ngoài. Giá trị gia tăng có thể
được tạo ra qua việc liên kết vào chuỗi cung ứng. FTA có thể đóng góp tích cực vào việc giúp
ngành ô tô vượt qua áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng.
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Dương Quang, trong số các mục tiêu năm 2010 đề ra
trong Quyết định 177/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 5/10/2004 (Kế hoạch
phát triển ngành ô tô đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020), Việt Nam chỉ mới đạt mục tiêu
doanh thu xuất khẩu phụ tùng và xe ô tô nhờ các doanh nghiệp FDI.
Năm 2009 có khoảng 90.000 ô tô được nhập khẩu nguyên chiếc so với 25.480 ô tô được lắp
ráp trong nước.
16
Các OEM của EU không chỉ tìm kiếm nguồn lao động rẻ hoặc ưu đãi nhờ cắt giảm thuế
(trong tương lai). Lao động rẻ và cắt giảm thuế chưa đủ để đảm bảo tăng trưởng đầu tư bền
vững tại Việt Nam. Họ sẽ xem xét cơ sở hạ tầng, các điều kiện đầu tư, công nghệ, khả năng
sản xuất bằng công nghệ sạch, các tiêu chuẩn về môi trường và xã hội v.v…). Thực tế này cho
thấy Chính phủ cần triển khai hành động bổ sung FTA để hỗ trợ phát triển ngành ô tô. Các
biện pháp bảo hộ không tác động nhiều đến quá trình chuyển giao công nghệ và không có tác
dụng củng cố chuỗi cung ứng.
Ngành ô tô có thể đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược nâng tầm Việt Nam khỏi việc
phụ thuộc vào các ngành thu nhập thấp, đòi hỏi nhiều lao động hiện nay sang các ngành có
thu nhập trung bình, sử dụng nhiều vốn và công nghệ. Do ngành ô tô sẽ phải đối mặt với sức
ép cạnh tranh gay gắt sau năm 2018 (AFTA) khi thuế dự kiến sẽ giảm từ 29,2% xuống còn
3,8%. Dự kiến ngành ô tô sẽ không thể xuất khẩu sản phẩm với số lượng lớn một cách cạnh
tranh cho đến khi AFTA 2018 có hiệu lực. Việc củng cố cơ sở thị trường trong nước cho ô tô
sản xuất trong nước có thể góp phần làm giảm rủi ro mất thị phần do áp lực ngày càng tăng từ
các nước thành viên ASEAN. Tăng cường sản xuất ở các cấp độ cung ứng trong nước sẽ làm
tăng hàm lượng nội địa cho các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam.
Thống kê dưới đây về ngành ô tô của Vụ Công nghiệp nặng, Bộ Công Thương được trích từ
dự thảo đề án “Quy hoạch phát triển ngành ô tô tại Việt Nam đến năm 2020” tháng 11 năm
2011. Thống kê này không có thông tin về ngành sản xuất xe máy.
Số lượng doanh nghiệp tham gia ngành ô tô:
Năm / Số công ty
Tỷ lệ tăng trưởng hàng
năm từ 2001-2005
Tỷ lệ tăng trưởng hàng
năm từ 2006-2009
2000
2005
2007
2008
2009
177
377
328
392
397
16,3%
1,36%
Nguồn: Bộ Công Thương, 2011
Đóng góp của các doanh nghiệp sản xuất vào sản lượng của ngành (%):
16
Vietnamnet, 29/11/2011
23
Nguồn: Bộ Công Thương, 2011
Tổng số ô tô đăng ký tại Việt Nam:
Loại xe
2009
2010
Tổng số
1,510.891
1,624.406
Ô tô đăng ký theo loại xe (%)
Xe 9 chỗ
42,50
43,71
Xe 10 chỗ
9,10
7,65
Xe tải
41,87
43,34
Các loại xe đặc biệt
3,99
1,33
Loại khác
2,56
3,96
Nguồn: Bộ Công Thương, 2011
Xuất khẩu phụ tùng:
Nước
2008
2009
2010
Nhật Bản
731,17
634,29
871,14
Hoa Kỳ
173,65
192,43
315,69
Trung Quốc
12,74
40,26
59,45
Thái Lan
36,99
31,65
52,36
Indonesia
16,94
19,46
28,60
24
Hàn Quốc
8,59
21,19
28,27
Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất
2,63
9,22
18,68
Singapore
11,43
12,95
18,44
Canada
5,03
8,05
15,10
Các nước khác
106,69
124,55
200,07
Tổng số
1.098,10
1.076,77
1.574,01
Nguồn: Bộ Công Thương, 2011
XE MÁY:
Xe máy phân khối nhỏ dưới 125cc đóng một vai trò thiết yếu trong đời sống của người dân
Việt Nam và châu Á nói chung. Thị trường châu Mỹ Latinh và châu Á tiếp tục tăng trưởng
trong khi thị trường tại Hoa Kỳ và châu Âu trì trệ với tỷ lệ tăng trưởng thấp. Tại châu Âu, do
xe máy loại 125cc yêu cầu phải có bằng lái xe ô tô, nên loại xe máy nhỏ, cụ thể là xe tay ga
ngày cảng trở nên hấp dẫn đối với giới trẻ.
Thị trường Việt Nam thống lĩnh bởi năm nhãn hiệu FDI lắp ráp tại Việt Nam (theo quy mô):
Dẫn đầu thị trường là Honda; đứng thứ 2 là Yamaha; thứ 3 là SYM (của Đài Loan); thứ 4:
Piagio; thứ 5: Suzuki.
Không có thông tin chính thức như các dự báo về thị trường, thông tin thị phần, thông tin
doanh số bán hàng và xu hướng v.v…để phục vụ cho công tác quy hoạch và giám sát ngành.
5 doanh nghiệp trao đổi lẫn nhau các thông tin cơ bản về thị trường. Mỗi doanh nghiệp tự
quyết định cách tiếp cận thị trường riêng của mình. Piaggio thành công trong việc thâm nhập
thị trường cao cấp (mức giá đơn vị xấp xỉ 3.500 USD so với mức giá cơ bản gần 2.000 USD
của thị trường xe máy thông dụng). Các xu hướng mới như xe tay ga v.v… đã mở ra các phân
đoạn thị trường mới. Quy mô thị trường trong năm 2010 xấp xỉ 3,5 triệu xe.
Kỳ vọng về tăng trưởng trong tương lai được khẳng định thông qua việc Honda có kế hoạch
đầu tư tăng gấp đôi công suất trong vài năm tới.
Thị trường xe máy Việt Nam tương đương khoảng 200% thị trường xe máy của EU mặc dù
không thể so sánh hai thị trường này do sự khác biệt về mức giá và mẫu mã.
Việt Nam đứng thứ 4 thế giới về số lượng đăng ký xe máy hàng năm:
Nguồn: Piaggio
Tóm lại, ngành ô tô trong nước sẽ phải đối mặt
với các thách thức lớn trong tương lai. Trong
giai đoạn hiện tại, ngành ô tô có thể coi là
ngành công nghệ thấp, sản lượng thấp và chi
phí sản xuất cao. Ngành ô tô của Việt Nam phải
đối mặt với áp lực cạnh tranh từ nhiều nước
cạnh tranh trong khu vực
17
.
17
Báo cáo EU, dự án số 2007/146105 “Hội nhập kinh tế và sự phát triển của Việt Nam”
Nước
Số lượng xe mới hàng năm
Trung Quốc
70 triệu
Ấn Độ
10 triệu
Indonesia
10 triệu
Việt Nam
3.5 triệu
25
Môi trường chính sách bảo hộ với mức thuế cao. Đến nay, ngành ô tô chưa thuộc phạm vi
cam kết theo FTA của ASEAN hoặc ASEAN+. Chính phủ đã cam kết đưa ô tô ra khỏi danh
mục loại trừ vào năm 2018. Áp lực cạnh tranh từ các nước sản xuất ô tô của châu Á do đó sẽ
gia tăng hơn nữa. Vì vậy, ngành ô tô phải tìm cách thích nghi với cạnh tranh bằng cách tăng
quy mô sản xuất, liên doanh v.v… hoặc có thể phải tiếp tục cắt giảm.
Vai trò trung tâm sản xuất xe máy:
Ngành sản xuất xe máy tương đối cạnh tranh và đã đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ, có tiềm
năng xuất khẩu. Do yêu cầu thấp hơn về công nghệ và chi phí đơn vị, các nhà cung ứng trong
nước có thể và đã phát triển, củng cố thành chuỗi cung ứng trong nước. Khi thuế ngày càng
cắt giảm thông qua nhiều FTA trong ASEAN, các nhà sản xuất xe máy lớn của Nhật Bản cho
rằng không kinh tế nếu đặt cơ sở sản xuất ở từng thị trường. Do thuế bằng nhau, họ sẽ cân
nhắc đến các yếu tố khác khi đặt cơ sở sản xuất và tránh việc lập các cơ sở sản xuất như nhau
ở từng nước, ngoại trừ các nhãn hiệu OEM có số lượng lớn hoặc các yêu cầu thích ứng với
tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia cụ thể. Tóm lại, do xu hướng này, Việt Nam sẽ hấp dẫn hơn với
ý nghĩa là một trung tâm sản xuất trên cơ sở triển vọng thị trường chung ASEAN từ năm
2018. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn một số rào cản đáng kể cản trở việc trở thành trung tâm
sản xuất xe máy như môi trường kinh doanh chưa thuận lợi, chi phí giao dịch cao, chậm trễ về
thủ tục hải quan và chi phí vận chuyển cao. Trong khi đó xung đột và bất lợi đang diễn ra ở
các nước khác không có lợi cho đầu tư (Ấn Độ: chi phí cao, Trung Quốc: kiểm soát chặt chẽ,
Indonesia: khá an toàn, Thái Lan: chính trị bất ổn).
IV.2.2. Các chuỗi cung ứng và phân tích về ngành ô tô của Việt Nam
Nhận xét chung:
Lực lượng lao động: Theo báo cáo nghiên cứu “Đánh giá tác động của các hiệp định thương
mại tự do đối với nền kinh tế Việt Nam”, số lượng lao động giản đơn trong ngành ô tô tăng
không đáng kể. Tuy nhiên, chi phí lao động thấp ảnh hưởng bất lợi đến mức lương cho các vị
trí quản lý và kỹ thuật. Điều này khiến việc thuê lao động có tay nghề cao vào các vị trí quản
lý hành chính, tiếp thị và sản xuất trở nên khó khăn.
Hiệu ứng kinh tế theo quy mô: Cấu trúc chi phí trong ngành sản xuất ô tô bị ảnh hưởng nhiều
bởi hiệu ứng kinh tế theo quy mô. VAMA nhận xét khái quát rằng chi phí cố định cao do
năng suất sản xuất thấp là bất lợi chủ yếu về năng lực cạnh tranh so với các nước ASEAN và
Trung Quốc. Khó xác định được chi phí do tính chất phức tạp của việc so sánh các ngành
giống nhau. Các yêu cầu đa dạng hóa sản phẩm ngày càng tăng tác động tiêu cực đến tính
kinh tế theo quy mô. Chuyên môn hóa thích hợp các phân đoạn thị trường có thể hữu ích
trong việc làm giảm hiệu ứng tiêu cực của tính kinh tế theo quy mô. Các nhà sản xuất Việt
Nam khó có thể cạnh tranh ở cấp độ sản phẩm cuối cùng trên cơ sở hiệu ứng kinh tế theo quy
mô. Các nhà sản xuất lớn cũng tỏ ra do dự khi tham gia các thị trường quy mô nhỏ, chi phí
thấp.
Số lượng sản xuất trên một dây chuyền tối thiểu phải đạt 50.000 đơn vị để đạt được lợi ích
kinh tế theo quy mô.
Tích hợp chuỗi cung ứng và giá trị gia tăng: Việt Nam không có các nhà cung ứng cấp 1 hoặc
cấp 2 để cung ứng các cụm link kiện hoặc cơ cấu bổ trợ cho các công ty sản xuất ô tô OEM
nước ngoài vận hành dây chuyền lắp ráp ô tô tại Việt Nam.
Nhà cung cấp cụm hệ thống và sản xuất lốp xe của Đức - Continental (Schaeffler Group) là
một trong các nhà cung cấp hệ thống công nghệ cao và phụ tùng lớn nhất trong ngành ô tô tại