Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

văn hoá sa huỳnh ở lưu vực sông thu bồn và vai trò của nó trong quá trình hình thành cảng thị hội an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.28 KB, 26 trang )

VĂN HOÁ SA HUỲNH Ở LƯU VỰC SÔNG THU BỒN VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
CẢNG THỊ HỘI AN
Nguyễn Chiều
Lưu vực sông Thu Bồn là một khu vực rộng lớn, bao
gồm hầu như toàn bộ địa phận tỉnh Quảng Nam và
thành phố Đà Nẵng. Sông Thu Bồn được hình thành
bởi sự hợp lưu của một hệ thống sông ngòi chằng chịt
và bắt nguồn từ dãy Trường Sơn hùng vĩ ở phía Tây,
chảy ngoằn ngoèo về phía Đông, qua dải đồng bằng
hẹp xen lẫn núi đồi thấp rồi đổ nước ra Cửa Đại.
Đồng bằng sông Thu Bồn không được rộng lớn và
màu mỡ như đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam
hay đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc. Nhưng nó vẫn
là một vùng đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu vào bậc
nhất ở miền Trung.
Với vị thế tựa lưng vào núi ở phía Tây, ngoảnh mặt
nhìn ra biển ở phía Đông, khí hậu quanh năm ấm áp,
cây cối bốn mùa tốt tươi nên lưu vực sông Thu Bồn đã
sớm thu hút được con người đến cư ngụ. Đặc biệt là
từ khi đồ sắt xuất hiện (văn hoá Sa Huỳnh) thì mật độ
dân cư ở đây đã tăng lên nhanh chóng. Chỉ từ khi đất
nước Việt Nam thống nhất (1975) đến nay, chúng ta
đã phát hiện được gần 100 địa điểm có di tích văn hoá
Sa Huỳnh ở khu vực này. Trong đó có 25 địa điểm đã
được khai quật hoặc đào thám sát, 24 địa điểm tuy
chưa được khai quật hoặc đào thám sát nhưng đã
được xác định chắc chắn. Còn lại hàng chục địa điểm
khác đã phát hiện thấy dấu vết nhưng chưa được
nghiên cứu kỹ càng và đầy đủ.
Những di tích văn hoá Sa Huỳnh ở lưu vực sông Thu


Bồn phân bố trên nhiều địa hình khác nhau: từ đồng
bằng ven biển đến núi cao. Phần lớn những di tích đó
là những khu mộ táng, còn những di chỉ cư trú được
phát hiện chưa nhiều. Những di chỉ cư trú đã được
phát hiện chủ yếu phân bố trên các cồn cát ven sông,
ven biển nên phần lớn các di chỉ đó có tầng văn hoá
không rõ ràng và thường bị xáo trộn nặng nề. Tuy
vậy, các di chỉ đó cùng với việc phát hiện một số di tích
văn hoá Tiền Sa Huỳnh cũng đủ để khẳng định chắc
chắn rằng: cư dân - chủ nhân của văn hoá Sa Huỳnh
là người bản địa chứ không phải là người từ biển vào
như một số học giả trước đây đã từng quan niệm.
Mộ táng của cư dân văn hoá Sa Huỳnh ở lưu vực sông
Thu Bồn chủ yếu là mộ quan tài gốm. Tất cả các quan
tài gốm được chôn ở tư thế đứng, miệng quay lên
trên. Chúng thường được chôn thành từng cụm hoặc
thành hàng lối rõ ràng. Có những nghĩa địa chôn tập
trung hàng trăm ngôi mộ. Mỗi quan tài thường có
một nắp đậy. Tuy hiếm thấy nhưng cũng có trường
hợp một số mộ quan tài gốm được chôn chồng lên
nhau như ở Gò Mả Vôi hoặc một số mộ có quan tài kép
(hai chum gốm lồng vào nhau - trong quan ngoài
quách) như ở Hậu Xá, Đại Lộc, Gò Dừa, Gò Mả Vôi. Đồ
tuỳ táng bằng gốm thường được đặt xung quanh, sát
bên ngoài quan tài. Đồ tuỳ táng bằng kim loại và đồ
trang sức thường được đặt bên trong quan tài. Một số
quan tài được kê đá hoặc gốm ở dưới như địa điểm
Gò Dừa, Gò Mả Vôi, Gò Miếu Ông, Hậu Xá, Lai Nghi.
Các quan tài gốm có nhiều kiểu, dạng và kích cỡ khác
nhau. Chúng có thể được chia thành bốn kiểu chính:

Kiểu 1: Chum hình trụ. Đây là kiểu quan tài phổ biến
nhất. Chúng thường có kích thước lớn, chiều cao gần
gấp đôi đường kính thân (cao trung bình từ 85 - 95
cm, đường kính thân từ 50 - 55 cm). Thân thẳng,
miệng loe, phía trong cổ có hoặc không có gờ đỡ nắp,
phía ngoài cổ có hoặc không có gờ đắp nổi chạy vòng
quanh, đáy hình chỏm cầu, hoa văn chủ yếu là văn
thừng chạy dọc từ trên xuống dưới. Kiểu chum này có
ba dạng.
- Dạng 1: Không có vai, thân thẳng đều, xương gốm
dày. Dạng này phổ biến ở nhiều địa điểm có niên đại
muộn.
- Dạng 2: Không có vai, thân thuôn nhỏ lên cổ. Dạng
này xuất hiện không tập trung ở riêng địa điểm nào
mà thường xuất hiện rải rác, xen lẫn với các dạng
chum khác (một số nhà nghiên cứu xếp dạng chum
này vào loại chum hình trứng).
- Dạng 3: Có vai gãy, thân hơi thuôn xuống đáy, xương
gốm mỏng. Dạng này là đặc trưng của khu mộ táng
Tam Mỹ và nó cũng xuất hiện rải rác ở một số địa
điểm khác.
Kiểu 2: Chum hình trái xoan. Đây là kiểu chum xuất
hiện nhiều ở Gò Mả Vôi và Gò Miếu Ông, chúng chiếm
tới khoảng 60% số chum của hai địa điểm này. Chúng
cũng là một dạng chum có kích thước lớn, nhưng tỷ lệ
giữa chiều cao và đường kính thân chênh lệch nhau
không nhiều (cao trung bình từ 65 - 75 cm, đường
kính giữa thân khoảng 55 - 60cm), miệng loe xiên, cổ
gãy góc, vai xuôi tạo với thân thành một góc tù lớn
hơi tròn, thân hình ống tương đối thẳng nhưng ngắn,

phần dưới của thân bóp nhỏ lại và gần như đối xứng
với phần vai qua mặt cắt ngang giữa thân chum, đáy
chum hình chỏm cầu hơi dẹt, hoa văn chủ yếu là văn
thừng thô phủ kín phía ngoài thân và đáy chum (cũng
có nhà nghiên cứu xếp kiểu chum này vào loại chum
hình trứng).
Kiểu 3: Chum hình trái đào. Đây là kiểu chum mới
xuất hiện ở Gò Mả Vôi (bốn chiếc). Chúng cũng có
miệng loe hơi xiên, phía ngoài vành miệng thường có
những rãnh sâu, rộng, chạy song song vòng quanh
toàn bộ miệng chum. Cổ gãy góc, vai nở rộng và cong
tròn. Thân vát nhỏ dần xuống đáy. Đáy hơi nhọn, kích
thước của các chum chênh lệch nhau nhiều: có chiếc
kích thước tương tự như kiểu chum hình trái xoan
nhưng có chiếc chỉ như một chiếc nồi lớn.
Kiểu 4: Kiểu quan tài nồi. Trong nhiều khu mộ táng ở
lưu vực sông Thu Bồn xuất hiện kiểu quan tài này.
Thân nhân của người chết đã dùng những chiếc nồi
gốm lớn với nhiều hình dáng khác nhau: hình cầu,
hình quả lê, nồi có gãy góc ở thân… để mai táng người
chết. Một số quan tài kiểu này bị bẻ gẫy hết phần
miệng trước khi chôn. Có nhà nghiên cứu cho rằng
kiểu quan tài này thường được dùng để chôn trẻ em,
hoặc cải táng, hoặc hoả táng… Việc sử dụng nồi làm
quan tài phổ biến ở địa điểm Tam Giang.
Nắp quan tài cũng có bốn kiểu chính:
Kiểu 1: Nắp hình nón cụt. Kiểu nắp này rất phổ biến ở
nhiều khu mộ táng. Phần đỉnh của nắp đều bằng
phẳng, hình tròn, không có hoa văn, đường kính
khoảng trên dưới 20cm. Phần thân của nắp cao

khoảng hơn 20cm, loe rộng xuống phía miệng. Phía
trong các nắp thường được tô đen ánh chì. Phía ngoài
phần thân của một số nắp được trang trí hoa văn
khắc vạch thành những hình tam giác lớn hoặc những
hình thoi lồng vào nhau hoặc hình chữ S có đệm tam
giác nhỏ… Cũng có nhiều nắp hoàn toàn không được
trang trí ở phía ngoài.
Miệng của kiểu nắp hình nón cụt thường có đường
kính dài khoảng trên dưới 50cm - tương ứng với
miệng quan tài. Một số nắp có vành miệng được phân
biệt rõ ràng với phần thân bởi một góc hơi gãy giống
như vành miệng của một số mâm bồng cỡ lớn. Vài
chiếc nắp có vành miệng bóp vào thành gờ nổi phía
trong. Một số ít miệng nắp do quá rộng nên đã bị cắt
gọt bớt phần rìa mép để đậy vừa quan tài. Cũng có vài
chiếc nắp không được dùng để đậy quan tài mà được
dùng để đậy lên đầu thi hài người chết trong mộ đất
(ở Gò Mả Vôi và Lai Nghi).
Kiểu 2: Nắp hình lồng bàn/mâm bồng. Nắp hình lồng
bàn có dáng khum tương tự như chiếc lồng bàn, cao
khoảng 20cm, miệng rộng khoảng 50cm, có núm lớn
giống như chân của một bát bồng cỡ trung bình. Núm
cao khoảng 10cm và đường kính miệng cũng khoảng
10cm, được chế tạo riêng và gắn chắp vào giữa đỉnh
của nắp. Vì vậy, phần núm này thường bị tách rời khỏi
nắp.
Người Sa Huỳnh ở lưu vực sông Thu Bồn cũng dùng
phần trên của những chiếc mâm bồng cỡ lớn để làm
nắp đậy quan tài. Khi dùng mâm bồng làm nắp quan
tài, người ta thường cố ý bẻ gẫy phần chân đế. Chính

vì vậy, khi phát hiện được những nắp đậy này, chúng
ta khó phân biệt được với nắp đậy hình lồng bàn.
Kiểu 3: Nắp đậy hình nồi úp: Kiểu nắp này là những
chiếc nồi gốm cỡ lớn (thường là những chiếc nồi thấp,
vai rộng, miệng khum vào hoặc bị bẻ gãy) được dùng
để đậy những quan tài hình trụ nhỏ hoặc quan tài nồi.
Kiểu 4: Nắp tận dụng. Vốn là phần đáy của một chiếc
chum lớn, được cắt gọt cẩn thận để làm nắp đậy cho
quan tài. Kiểu nắp này mới thấy xuất hiện một chiếc ở
Gò Mả Vôi, một chiếc ở Gò Dừa.
Bên cạnh các mộ quan tài gốm còn có một số mộ đất
được chôn xen kẽ như ở địa điểm Gò Mả Vôi, Lai
Nghi…
Các mộ đất thường được chôn theo hướng cơ bản Tây
- Đông. Đồ tuỳ táng bằng gốm thường được đặt thành
hàng thẳng ở bên cạnh thi hài, còn đồ kim loại thường
được đặt ở giữa. Đã thấy mộ đất song táng ở địa điểm
Lai Nghi nhưng chưa thấy các mộ đất cắt phá nhau và
cũng chưa thấy hiện tượng các mộ đất và mộ quan tài
gốm cắt phá nhau.
Hiện vật chôn theo trong các mộ quan tài gốm và mộ
đất đều khá đồng nhất về loại hình, chất liệu và niên
đại. Chúng gồm có đồ gốm, đồ sắt, đồ đồng, đồ trang
sức…
Đồ gốm là loại hiện vật có số lượng nhiều nhất trong
cả di chỉ cư trú và mộ táng. Trong các mộ táng có
nhiều hiện vật được xếp đặt cẩn thận nhưng cũng có
một số hiện vật có hiện tượng bị đập vỡ trước khi
chôn. Đồ gốm tuỳ táng có nồi, bát, đĩa, cốc, mâm bồng,
“đèn”, bình, dọi xe sợi… tương tự như đồ gốm ở các

khu vực khác trong văn hoá Sa Huỳnh nhưng cũng có
một số đặc trưng riêng.
Đồ sắt gồm các loại dao, rựa, kiếm, giáo, dao găm,
thuổng, rìu, cuốc, đục, xà beng, liềm… Chúng có hình
dạng ổn định như thường thấy ở Đông Nam Á đầu
thời đại đồ sắt và vẫn được chế tạo và sử dụng cho
đến tận ngày nay. Ngoài những đồ sắt có nguồn gốc
bản địa và Đông Nam Á còn thấy xuất hiện dao sắt có
chuôi hình vành khăn - một loại dao sắt đặc trưng của
Trung Quốc thời Tây Hán. Cũng có hiện tượng một số
đồ sắt kích thước lớn bị bẻ gãy gập hoặc bị bẻ cong
trước khi chôn.
Đồ đồng tuy không nhiều về số lượng như đồ sắt
nhưng cũng khá phong phú về loại hình. Bao gồm rìu,
giáo, lao, dao găm, đồ đựng, lục lạc, khuyên tai, vòng
tay… Điều đáng quan tâm nhất là phần lớn số đồ đồng
ở đây có mối quan hệ rất mật thiết với đồ đồng trong
văn hoá Đông Sơn và một số đồ đồng có nguồn gốc
Trung Quốc thời Hán.
Đồ trang sức rất đa dạng về loại hình như khuyên tai
ba mấu, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai hình vành
khăn, khuyên tai hình con đỉa, vòng tay, hạt cườm, hạt
chuỗi… đồng thời cũng rất phong phú về số lượng. Có
những cuộc khai quật đã thu lượm được hàng ngàn
hiện vật là đồ trang sức bằng các chất liệu khác nhau
như đá quý, thủy tinh, vàng, đất nung…
Qua các di tích và di vật đã phát hiện được cho thấy
cư dân Sa Huỳnh ở lưu vực sông Thu Bồn có mối quan
hệ giao lưu trong một không gian rộng lớn. Bên cạnh
quan hệ giao lưu trong nội bộ cư dân Sa Huỳnh ở

miền Trung, họ còn mở rộng quan hệ giao lưu với cư
dân văn hoá Đông Sơn, với Hán ở phía Bắc; với Tiền
Óc Eo ở phía Nam; với Lào, Campuchia và Thái Lan ở
phía Tây, Tây Bắc; với quần đảo Philippin và
Inđônêxia ở phía biển Đông.
Có được mối quan hệ giao lưu rộng rãi như vậy bởi
lưu vực sông Thu Bồn có vị trí địa lý rất thuận lợi,
không những chỉ là trung tâm của không gian văn
hoá Sa Huỳnh mà nó còn án ngữ con đường biển nối
Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, nối Nam Á với
Đông Á, nối hai nền văn minh lớn thời cổ đại là Trung
Quốc và Ấn Độ. Mặt khác, do có một nền tảng sản xuất
nông nghiệp vững chắc, sức sản xuất của xã hội khá
cao nên trong sự tiếp xúc, giao lưu với bên ngoài, cư
dân Sa Huỳnh ở lưu vực sông Thu Bồn có được thế
chủ động hơn các vùng khác. Đường thuỷ là phương
tiện giao thông thuận lợi nhất đối với họ. Trong đời
sống của họ, dòng Thu Bồn và các chi lưu của nó là cái
gạch nối rất quan trọng giữa các vùng núi đồi - đồng
bằng - biển cả. Với những thuyền bè thô sơ, nương
theo các dòng hải lưu và gió mùa, họ có thể đến được
các vùng xa xôi và ngược lại, thuyền bè của cư dân
nơi khác cũng có thể ngược dòng Thu Bồn rồi theo các
chi lưu mà lan toả, thâm nhập sâu vào các làng bản
trong khắp khu vực để trao đổi, buôn bán những sản
phẩm cần thiết.
Sự có mặt của nhiều hiện vật có nguồn gốc ngoại
nhập trong các di tích đã chứng tỏ nền thương mại ở
khu vực này đã khá phát triển. Đặc biệt là sự xuất
hiện những đồng tiền Ngũ Thù của Trung Quốc thời

Hán ở Gò Tây An (Duy Xuyên) và Hậu Xá (Hội An) đã
khẳng định chắc chắn rằng trong thời gian cận kề
công nguyên, việc buôn bán ở khu vực này không chỉ
dừng lại ở hình thức vật đổi vật - hình thức thương
mại nguyên thủy - mà đã đạt đến trình độ cao. Có thể
lúc bấy giờ đã có một số trung tâm thương mại sơ
khai xuất hiện trong khu vực này. Vùng đất Hội An cổ
là nơi hội tụ các dòng sông, có cửa biển lớn, có nhiều
bến bãi, là nơi đủ điều kiện trở thành một trung tâm
thương mại thường xuyên hơn để người Sa Huỳnh ở
lưu vực sông Thu Bồn giao thương với bên ngoài. Như
vậy, một cảng thị sơ khai ra đời và phát triển để rồi
chính thức trở thành cảng thị Lâm Ấp phố - Đại Chiêm
hải khẩu - Hải phố - FaiFo - Hội An sau này.

×