Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

luận văn luật pháp luật đất đai trong việc xử lý vi phạm pháp luật đối với người quản lý đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 105 trang )



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là quà tặng vô cùng quý giá của thiên nhiên dành cho con người
nhưng đất đai không phải là vô tận và nếu việc quản lý, sử dụng không hợp lý thì
con người sẽ phải trả giá cho những hành động của mình. Việc quản lý đất đai ở
nước ta trong những năm qua còn tồn tại rất nhiều vấn đề bất hợp lý gây nhiều phản
ứng gay gắt trong nhân dân và là nỗi trăn trở của các nhà lãnh đạo. Hiện tượng vi
phạm pháp luật của người quản lý đất đai ở Việt Nam hiện nay còn khá phổ biến,
nhất là tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về phẩm chất đạo đức là tương đối nghiêm
trọng. Các vi phạm pháp luật không giới hạn ở một lĩnh vực, một ngành, một địa
phương mà xảy ra trên phạm vi rộng, xảy ra ngay trong bộ máy các cơ quan bảo vệ
pháp luật.
Trong năm năm qua, “ có khoản 1334 cán bộ các cấp đã bị khởi tố do tham
nhũng đất đai”
(1)
. Tiêu cực đất đai là “địa chỉ nóng” cần đánh mạnh. Vừa qua hàng
loạt các vụ án lớn liên quan đến quản lý đất đai như vụ Đồ Sơn, Phú Quốc. Hiện
tượng Đồ Sơn không còn là cá biệt. Tuy mức độ cụ thể có thể khác nhau nhưng
chúng ta có thể khẳng định rằng không nơi nào không có hiện tượng tham nhũng về
đất đai, không có nơi nào cán bộ có chức, có quyền không được giao đất với giá rẻ.
Luật đất đai 2003 ra đời lần đầu tiên đã quy định quyền khởi kiện vụ án
hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai, quy định cụ thể việc xử lý vi phạm đối với trường hợp cán bộ công chức
nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật đất đai hoặc vi phạm về thực hiện trình tự,
thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất.
Đồng thời, vấn đề xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai vẫn là vấn đề
khá mới mẻ đối với các công trình nghiên cứu. Trước đây, chủ yếu nghiên cứu về
xử lý vi phạm nói chung và xử lý vi phạm đối với người sử dụng đất. Chưa có
nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai.


Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “ pháp luật đất đai
trong việc xử lý vi phạm pháp luật đối với người quản lý đất đai” trong bối cảnh
hiện nay là hợp lý và cần thiết. Đã đến lúc cán bộ cũng giống như người dân cần
phải được bị xử lý một cách nghiêm minh.


1
“Hơn 1300 cán bộ bị khởi tố vì tham nhũng đất đai”


2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Vi phạm pháp luật đất đai được chia thành hai dạng cơ bản sau:
+ Vi phạm pháp luật trong quản lý đất đai.
+ Vi phạm pháp luật trong sử dụng đất đai.
Trong khoá luận này, tôi sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu, khai thác về vi phạm
pháp luật đất đai của người quản lý đất đai.
Khoá luận bao gồm những nội dung sau:
- Những vấn đề lý luận về xử lý vi phạm và xử lý vi phạm đối với người
quản lý đất đai.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật đất đai về xử lý vi phạm đối với người
quản lý đất đai.
- Thực trạng vi phạm của người quản lý đất đai và xử lý vi phạm đối với
người quản lý đất đai, đồng thời tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến vi phạm và tình
trạng xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai chưa triệt để và nghiêm minh.
- Qua các vấn đề nghiên cứu trên, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm
ngăn ngừa và xử lý vi phạm nghiêm minh, triệt để đối với người quản lý đất đai.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề trên, người viết sử dụng phương pháp nghiên
cứu sau: phương pháp hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, so sánh.Với các phương
pháp nghiên cứu này tôi muốn làm rõ thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng

pháp luật trong việc xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai.
4. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề chung về vi phạm và xử lý vi phạm pháp luật đất
đai đối với người quản lý đất đai.
Chương II: Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật đất đai
đối với người quản lý.
Chương III: Một số kiến nghị góp phần áp dụng có hiệu quả và hoàn thiện
các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý đất đai.



Đây là một vấn đề khá mới mẻ và đòi hỏi kiến thức tổng hợp giữa lý luận và
đánh giá thực tiễn. Là sinh viên lần đầu tham gia vào nghiên cứu và còn thiếu kiến
thức thực tế nên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được thông
cảm và những ý kiến chỉ bảo của các thầy cô để em có thể rút ra kinh nghiệm và
hoàn thiện hơn về đề tài này.
Em xin gửi lời chân thành cảm ơn đến các thầy cô, Ban Lãnh đạo Khoa và
đặc biệt là cô Nguyễn Thị Thanh Xuân đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện giúp
đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Trân trọng kính chào !















CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ VI PHẠM VÀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI
ĐỐI VỚI NGƯỜI QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
1.1. Sơ lược về hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở
nước ta
Từ nhiều năm qua Đảng và Nhà nước ta trên cơ sở xây dựng chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai đã luôn quan tâm đến việc quản lý thống nhất vốn đất quốc gia
từ trung ương đến cho tới từng địa phương. Theo quy định tại Điều 64 khoản 1 Luật
Đất đai năm 2003 quy định “ Hệ thống cơ quan quản lý đất đai được thành lập
thống nhất từ trung ương đến cơ sở”. Có thể được phân chia theo các hệ thống cơ
quan sau:
1.1.1. Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước về đất đai
Hệ thống cơ quan quyền lực nhà nuớc từ trung ương đến địa phương có vai
trò vô cùng to lớn trong việc quản lý mọi mặt đời sống của xã hội.
Nói đến cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương đó chính là Quốc hội, đây
là cơ quan đứng đầu nhà nước trong mọi lĩnh vực nói chung và trong lĩnh vực quản
lý đất đai nói riêng. Quốc hội có quyền quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
của cả nước do Chính phủ trình
2
.
Ờ địa phương là Hội đồng nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân thông qua
quy hoạch, kế hoạch sử dụng của Ủy ban nhân dân các cấp lập
3
.

1.1.2. Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước về đất đai
Với chức năng quản lý nhà nước về đất đai, Chính phủ và Ủy ban nhân dân
các cấp có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các nội dung của chế độ quản lý
nhà nước về đất đai. Có thể khái quát chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của hệ thống
cơ quan có thẩm quyền như sau:
Thứ nhất, thống nhất việc quản lý đất đai ở trung ương và ở từng địa phương
Thứ hai, tổ chức chỉ đạo và thực hiện các nội dung cụ thể của chế độ quản lý
nhà nước về đất đai.
1.1.3. Hệ thống các cơ quan chuyên ngành quản lý đất đai

2
Khoản 1 Điều 26 Luật đất đai
3
Khoản 6 Điều 25 Luật đất đai


Cơ quan chuyên ngành quản lý đất đai đã trải qua ba thời kỳ, Tổng cục quản
lý ruộng đất năm 1979 đến năm 1994, Tổng cục quản lý ruộng đất năm 1994 đến
năm 2002 và hiện nay là Bộ tài nguyên và môi trường.
Bộ tài nguyên và mội trường: Là cơ quan giúp việc cho Chính phủ trong việc
quản lý đất đai trên phạm vi cà nước.
Sở tài nguyên và môi trường: là cơ quan giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh trong vấn đề quản lý đất đai.
Phòng tài nguyên và môi trường: Là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, có chức năng quản lý nhà nước
về đất đai và môi trường.
Cán bộ địa chính xã là người giúp việc cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn trong công tác quản lý đất đai.
Ngoài ra, còn có các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực quản lý và sừ dụng
đất như: Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Tổ chức phát triển quỹ đất, Tổ

chức hoạt động tư vấn trong quản lý và sử dụng đất.
1.2. Vi phạm pháp luật đất đai của người quản lý đất đai
1.2.1. Vi phạm pháp luật đất đai
1.2.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Theo từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa Hà Nội năm 1999, “vi phạm”
được hiểu là các việc sai trái nói chung.
Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của khoa Luật trường Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2001 định nghĩa: “vi phạm là một loại sự kiện pháp lý
đặc biệt, đó là hành vi do các chủ thể pháp luật thực hiện trái với các yêu cầu của
quy phạm pháp luật được pháp luật bảo vệ”.
Như vậy: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể
có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ.
1.2.1.2. Khái niệm vi phạm pháp luật đất đai
Để giữ vững, duy trì sự hoạt động của bộ máy chính quyền, bảo đảm sự phát
triển toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội thì bất kỳ Nhà nước nào đều sử dụng pháp
luật như là một công cụ hữu hiệu nhất đảm bảo sự vận hành cho các quan hệ xã hội
trong một trật tự ổn định. Các quan hệ pháp luật đất đai cũng không nằm ngoài quy
luật đó. Để duy trì trật tự quản lý đất đai, đảm bảo đất đai được sử dụng, khai thác


có hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể thực hiện quan hệ, bảo đảm
tính nghiêm minh trong lĩnh vực đất đai được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh,
Nhà nước đề ra các quy phạm pháp luật để điều chỉnh những hành vi xử sự của các
chủ thể trong từng mối quan hệ đất đai cụ thể, buộc các chủ thể phải tuân theo
những khuôn mẫu, những quy tắc cụ thể, nghĩa là phải tuân theo sự điều chỉnh của
pháp luật dưới hình thức xác lập quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên, không phải lợi ích
cá nhân và lợi ích của Nhà nước, xã hội cũng luôn luôn đồng nhất. Trong một số
trường hợp vì lợi ích cá nhân mà một số chủ thể đã không tuân thủ thậm chí còn
làm trái quy định của pháp luật đất đai, đó chính là hiện tượng vi phạm pháp luật

đất đai.
Các quan hệ pháp luật đất đai rất đa dạng về chủ thể, mục đích, về phương
thức thực hiện. Đó có thể là mối quan hệ giữa Nhà nước mà đại diện là các cơ quan
quản lý đất đai với các chủ thể sử dụng đất trong quá trình giao đất, cho thuê đất,
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất… Đó cũng có thể là mối quan
hệ giữa những chủ thể sử dụng đất với nhau trong các giao dịch dân sự về đất đai.
Trong quá trình thực hiện các mối quan hệ về đất đai các chủ thể đã không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp luật đất đai hoặc thực hiện
những điều pháp luật đất đai cấm, đó chính là các vi phạm pháp luật đất đai.
Vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật, được thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm tới quyền lợi của Nhà nước, với vai trò là đại diện của
chủ sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, cũng như các quy
định về chế độ sử dụng các loại đất.
1.2.1.3. Dấu hiệu của vi phạm pháp luật đất đai
Vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp
luật và có lỗi do chủ thể có trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã
hội được pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo vệ. Vi phạm pháp luật có bốn dấu hiệu sau:
là hành vi xác định của con người, hành vi đó trái với các quy định của pháp luật,
chứa đựng lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó và chủ thể thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật có năng lực chịu trách nhiệm pháp lý.
Khác với căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với một hành vi vi phạm
trong các quan hệ xã hội khác, đối với một hành vi vi phạm pháp luật đất đai, trong
đa số các trường hợp chỉ cần hai dấu hiệu là hành vi trái pháp luật và có lỗi là đủ
căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý mà không cần phải có những yếu tố như: có
thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả. Bởi vì, Luật đất đai
điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội phát sinh trực tiếp từ quan hệ sở hữu, quản lý và sử


dụng đất đai. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, mọi
hành vi nhằm xâm hại đến quyền sở hữu đó đều là những hành vi vi phạm pháp

luật. Hơn nữa đất đai là tài sản đặc biệt không mất đi sau khi sử dụng, thiệt hại do
hành vi vi phạm gây ra không biểu hiện rõ ràng nhưng để lại hậu quả nặng nề. Việc
khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra hết sức khó khăn, phức tạp. Vì những
lý do nêu trên mà không thể quy định dấu hiệu có thiệt hại xảy ra và có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của một vi
phạm pháp luật đất đai.
1.2.2. Vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai
1.2.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai
Quan hệ pháp luật đất đai là mối quan hệ vô cùng phức tạp và nhạy cảm,
biến động từng ngày cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Tham gia
mối quan hệ này gồm có cơ quan quản lý đất đai và người sử dụng đất. Khi tham
gia mối quan hệ này, các chủ thể luôn hướng tới mục tiêu, lợi ích riêng. Theo Hiến
pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992: “Nhà nước thống
nhất quản lý đất đai theo quy hoạch, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu
quả.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Tổ
chức cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiệt kiệm đất,
được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, cơ quan quản lý đất đai là đại diện của Nhà nước, thay mặt Nhà
nước để đảm bảo quyền sở hữu toàn dân về đất đai, đảm bảo quyền sử dụng đất
đúng theo quy định của pháp luật đất đai phát huy vai trò vô cùng quan trọng của
đất đai. Và tổ chức cá nhân cũng có trách nhiệm bảo vệ, sử dụng đất đai hợp lý tuân
thủ pháp luật đất đai. Tuy nhiên, trong quá trình tham gia mối quan hệ này, trong
một số trường hợp vì lợi ích trước mắt của bản thân mình mà có chủ thể đã cố tình
vi phạm pháp luật đất đai.
Vi phạm pháp luật đất đai của người quản lý đất đai là hành vi cố ý hoặc vô
ý của người quản lý đất đai vi phạm các quy định của pháp luật phải chịu trách
nhiệm kỷ luật, trong trường hợp hành vi có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì sẽ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.


1.2.2.2. Dấu hiệu của vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai
1.2.2.2.1. Có hành vi trái pháp luật


C.Mác đã nói: “Ngoài hành vi của mình ra tôi hoàn toàn không tồn tại đối
với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó”
(4)
Pháp luật được ban
hành để điều chỉnh hành vi của con người. Hành vi trái pháp luật của người quản lý
đất đai là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những quy định của
pháp luật về quản lý đất đai. Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật, vi phạm
pháp luật trong quản lý đất đai không chỉ là hành vi xác định của con người hoặc là
hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội mà hành vi đó phải trái với các
quy định của pháp luật đất đai, xâm hại tới khách thể được Luật đất đai bảo vệ và
gây nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi đó có thể bằng hành động hoặc không hành động nhưng phải được
biểu hiện ra bên ngoài hiện thực khách quan, nghĩa là có thể nhìn thấy, nghe thấy,
nhận thức được hành động hay không hành động đó.
Một hành vi chỉ bị coi là trái pháp luật đất đai khi hành vi đó không phù hợp
hoặc trái ngược với các quy định của pháp luật đất đai.
Hành vi vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai có thể là hành vi không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp luật đất đai trong quá
trình thực hiện việc quản lý đất đai. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản giữa vi
phạm pháp luật đất đai của người sử dụng đất và người quản lý đất đai vì vi phạm
pháp luật của người sử dụng đất là những hành vi trái pháp luật đất đai trong quá
trình sử dụng đất còn vi phạm pháp luật đất đai của người quản lý là trong quá trình
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai.
Hành vi vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai không thực hiện những
quy định của pháp luật đất đai như: không công bố hoặc chậm công bố quy hoạch
sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt; không thông

báo cho người có đất bị thu hồi; không công khai phương án bồi thường, tái định
cư…
Hành vi vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai thực hiện không đúng
những quy định của pháp luật đất đai như: cắm mốc chỉ giới quy hoạch sử dụng đất
chi tiết sai vị trí trên thực địa; giao đất, giao lại đất không đúng vị trí và diện tích đất
trên thực địa; thu hồi đất không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không
đúng quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét
duyệt…
1.2.2.2.2. Yếu tố lỗi

4
C.Mác – Ăng ghen, tuyển tập 1 NXB Sự thật năm 1980, trang 19


Với một hành vi vi phạm của người quản lý đất đai, dấu hiệu hành vi trái
pháp luật chỉ là dấu hiệu bên ngoài. Để xem xét hành vi đó có là vi phạm pháp luật
đất đai hay không thì phải xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, nghĩa là xác định
lỗi (xác định trạng thái tâm lý) của chủ thể quản lý đất đai khi thực hiện hành vi trái
pháp luật đó. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái
pháp luật của mình. Trong quy phạm pháp luật, Nhà nước đã đưa ra trước những
cách xử sự có tính khuôn mẫu mà chủ thể được phép hoặc buộc phải lựa chọn khi ở
vào hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu. Và chủ thể khi ở vào hoàn cảnh, điều
kiện đã được Nhà nước dự liệu thì chỉ được phép hoặc buộc phải lựa chọn cho mình
cách xử sự phù hợp từ những cách xử sự mà quy phạm pháp luật đã dự liệu cho
những trường hợp đó. Các chủ thể pháp luật có lý trí và tự do ý chí nhưng trong
hoàn cảnh đó họ lại lựa chọn cách xử sự trái với ý chí của Nhà nước do đó chủ thể đã
có lỗi và phải chịu trách nhiệm về xử sự của mình.
Lỗi có thể là cố ý hoặc vô ý. Sẽ không bị coi là có lỗi nếu bản thân người
thực hiện hành vi vi phạm không nhận thức được hành vi của mình cũng như hậu
quả do hành vi gây ra trong các trường hợp như: phòng vệ chính đáng, sự kiện bất

ngờ Nhưng đối với chủ thể vi phạm là người quản lý đất đai thì vấn đề không
nhận thức được hành vi của mình là không thể xảy ra. Xét yếu tố lỗi một cách chính
xác sẽ xác định được hình thức xử lý phù hợp nhất đối với một hành vi vi phạm.
1.2.2.3. Cấu thành của vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai
* Mặt khách quan:
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai là những
biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm pháp luật. Khác với căn cứ để truy cứu trách
nhiệm pháp lý đối với một hành vi vi phạm pháp luật khác thì đối với hành vi vi
phạm pháp luật đất đai nói chung, với hành vi vi phạm của người quản lý đất đai nói
riêng trong đa số trường hợp không bắt buộc phải có dấu hiệu hậu quả gây thiệt hại
của hành vi và quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của nó. Nói cách khác chỉ
cần tồn tại “dấu hiệu hình thức” của nó là đủ căn cứ để áp dụng biện pháp xử lý
hành chính. Ngoài ra còn có các dấu hiệu như: thời gian, địa điểm, phương tiện vi
phạm…

* Mặt chủ quan:
Mặt chủ quan của hành vi vi phạm pháp luật đất đai là những biểu hiện tâm
lý bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật. Mặt chủ quan của hành vi vi phạm pháp
luật của người quản lý đất đai thể hiện ở yếu tố lỗi. Lỗi là dấu hiệu bắt buộc của vi


phạm pháp luật đất đai. Một hành vi trái pháp luật không đồng nghĩa với vi phạm
pháp luật nếu chưa xác định yếu tố lỗi. Hành vi vi phạm pháp luật đất đai của người
quản lý được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý như: Cắm mốc địa giới hành chính sai
vị trí trên thực địa; thu hồi đất không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng,
không đúng quy hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt…
* Chủ thể:
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực chịu
trách nhiệm pháp lý. Chủ thể của vi phạm pháp luật đất đai chính là các chủ thể có
thẩm quyền trong việc quản lý đất đai như: Người đứng đầu tổ chức, Thủ trưởng cơ

quan có thẩm quyền quyết định về quản lý đất đai mà có hành vi vi phạm về quản lý
đất đai; Cán bộ, công chức thuộc cơ quan quản lý đất đai các cấp và cán bộ địa
chính, xã, phường, thị trấn có hành vi vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục
hành chính trong quản lý đất đai
5
.
* Khách thể:
Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Khách thể của vi phạm luật do
người quản lý đất đai thực hiện là những quan hệ đất đai được các quy phạm pháp
luật đất đai bảo vệ.
1.3. Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của xử lý vi phạm đối với người quản
đất đai
1.3.1.1. Khái niệm xử lý vi phạm đối với người quản đất đai
Theo Điều 17 Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm
1992 thì đất đai là thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước đóng vai trò là người đại diện
chủ sở hữu. Các cơ quan Nhà nước phải có trách nhiệm quản lý chặt chẽ không để
xảy ra các vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai và quyền của
người sử dụng đất. Do đó, các cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái với các
quy định pháp luật đất đai, thiếu trách nhiệm trong quản lý đất đai thì sẽ bị xử lý vi
phạm theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, những cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý đất đai là đại
diện cho công lý và pháp luật, được nhân dân tín nhiệm và tin tưởng thì phải thật sự

5
Khoản 1, 2 Điều 166 Nghị định 181.


gương mẫu để không phụ lòng nhân dân. Khi những cán bộ, công chức này có hành

vi vi phạm trong quản lý đất đai thì càng phải xử lý thích đáng, đúng pháp luật.
Những cán bộ, công chức quản lý đất đai là những người nắm trong tay
quyền lực Nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước trong quá trình thực hiện
công vụ. Tuy nhiên, một số người lại lợi dụng quyền lực Nhà nước để làm những
việc trái pháp luật và có tính nguy hiểm rất cao, có thể gây ra những hậu quả
nghiêm trọng. Do đó xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai là vấn đề nóng
bỏng, đang được dư luận toàn xã hội quan tâm.
Theo giáo trình Luật đất đai 2005 của trường Đại học Luật Hà Nội: “Xử lý
vi phạm pháp luật đất đai là việc áp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lý đối với
người vi phạm nhằm mục đích buộc họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý do
hành vi và hậu quả của hành vi vi phạm gây ra”.
Khi một tổ chức hay cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đất đai, về
nguyên tắc Nhà nước sẽ buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất định.
Trong khoa học pháp lý “trách nhiệm pháp lý” được hiểu là hậu quả bất lợi (sự
trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật xác
lập và điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và chủ thể vi phạm, trong đó chủ thể
vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế
được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật.
(6)
Chỉ những cơ quan Nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hay các chủ thể
được trao quyền thì mới có quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức, cá
nhân nào đó. Nó thể hiện ở việc các cơ quan Nhà nước, nhà chức trách hay các chủ
thể có thẩm quyền theo trình tự thủ tục luật định yêu cầu chủ thể bị truy cứu trách
nhiệm pháp lý giải thích rõ về hành vi vi phạm pháp luật đất đai của mình và buộc
các chủ thể vi phạm đó chịu những thiệt hại nhất định.
Xử lý vi phạm pháp luật là nhằm mục đích ngăn ngừa và trừng phạt những
hành vi vi phạm đồng thời giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, bảo vệ những quan
hệ, những giá trị được pháp luật ghi nhận. Đó cũng là vấn đề có tính quyết định để
duy trì trật tự kỷ cương và nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản lý đất đai ở nước
ta hiện nay.

Như vậy: Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai là hoạt động của các
chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về xử lý vi
phạm đối với người quản lý đất đai, quyết định áp dụng các biện pháp trách nhiệm

6
Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật năm 2005 của trường Đại học luật Hà Nội


kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người quản lý đất đai nhằm đảm
bảo duy trì trật tự, kỷ cương và nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản lý đất đai.
1.3.1.2. Đặc điểm của xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai
Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai có những đặc điểm chung của
xử lý vi phạm pháp luật nói chung và cũng có những đặc điểm riêng để giúp ta phân
biệt với vi phạm pháp luật khác, đặc biệt là đối với xử lý vi phạm hành chính đối
với người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai.
Hoạt động xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai có những đặc điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai chỉ được tiến hành khi
có hành vi vi phạm trong khi thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai của
cán bộ, công chức.
Cơ sở của trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai chính là các vi
phạm pháp luật trong hoạt động công vụ. Không có vi phạm pháp luật thì không
được truy cứu trách nhiệm pháp lý. Như vậy, để thực hiện hoạt động xử lý vi phạm
đối với người quản lý đất đai thì trước hết phải xác định các vấn đề sau:
Đối tượng của xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai chỉ có thể là
những người thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai có hành vi vi phạm
như: lợi dụng chức vụ quyền hạn làm trái với các quy định của pháp luật trong giao
đất, cho thuê đất, thu hồi đất, thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm
pháp luật đất đai hoặc có hành vi khác gây thiệt hại đến quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất.

Các hành vi vi phạm của người quản lý đất đai phải là hành vi được thực
hiện trong khi thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai thường gắn với lợi
dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn. Đây chính là những điểm khác biệt đối với
việc xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai
bởi vì cơ sở của xử lý vi phạm hành chính là vi phạm hành chính trong quá trình sử
dụng đất và đối tượng xử lý chính là những người sử dụng đất.
Thứ hai, xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai được thể hiện bằng
quyết định xử lý kỷ luật thực hiện theo quy định chung về phân cấp quản lý cán bộ
hoặc bản án hình sự của Tòa án nếu có hành vi cấu thành tội phạm.
Việc xử lý cán bộ công chức có hành vi vi phạm trong khi thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước về đất đai do người đứng đầu cơ quan quản lý công chức có
hành vi vi phạm xử lý kỷ luật.


Nếu người đứng đầu cơ quan, đơn vị vi phạm kỷ luật thì người đứng đầu cơ
quan đơn vị quản lý cấp trên trực tiếp ra quyết định kỷ luật.
Đối với người quản lý có hành vi vi phạm đất đai đã bị xử lý kỷ luật mà tái
phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý hình sự thể hiện qua bản án
hình sự. Hoạt động xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải tiến hành theo
trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Và kết quả của quá trình điều tra, tìm hiểu được
thể hiện bằng quyết định xử lý kỷ luật và bản án hình sự nếu có dấu hiệu cấu thành
tội phạm.
Khi tiến hành xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai cơ quan Nhà nước,
cán bộ Nhà nước có thẩm quyền xử lý đều phải tuân theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy đinh. Trình tự xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai cũng mang
những nét đặc thù khác biệt so với thủ tục hành chính trong xử lý vi phạm đối với
người sử dụng đất. Trình tự xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai sẽ tuân theo
quy định tại Nghị định số 54/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 của Chính Phủ về chế độ
thôi việc đối với cán bộ công chức và Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày
17/11/1998 của Chính Phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với cán bộ

công chức ( Và hiện nay là Nghị định 118/2006/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2006
thay thế cho Chương III của nghị định này ).
Đối với hành vi vi phạm có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì sẽ tuân thủ thủ
tục tố tụng hình sự nói chung.
Trình tự áp dụng cưỡng chế kỷ luật và cưỡng chế hình sự phức tạp hơn so
với việc áp dụng trình tự hành chính trong xử lý vi phạm hành chính đối với người
sử dụng đất.
Thứ ba, xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai là hoạt động cưỡng chế
mang tính quyền lực Nhà nước.
Trách nhiệm pháp lý luôn gắn với những biện pháp cưỡng chế. Chủ thể vi
phạm pháp luật bị buộc phải thực hiện những biện pháp cưỡng chế được quy định ở
bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý chính là những hậu
quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm, do đó không một chủ thể nào lại mong muốn
hay tự nguyện chịu trách nhiệm pháp lý. Để đảm bảo pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh, đảm bảo tính răn đe của pháp luật thì trong xử lý vi phạm Nhà nước
buộc phải sử dụng biện pháp cưỡng chế, buộc đối tượng phải chấp hành vô điều
kiện mà không có sự lựa chọn nào khác. Việc xử lý vi phạm đối với người quản lý
đất đai chỉ do các cơ quan Nhà Nước, cán bộ Nhà nước có thẩm quyền nhân danh


Nhà nước, được Nhà nước trao quyền tiến hành. Do đó, xử lý vi phạm đối với người
quản lý đất đai là hoạt động cưỡng chế mang tính quyền lực Nhà nước.
Thứ tư, trong xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai thể hiện sự bình
đẳng trong các trách nhiệm pháp lý với công dân. Nếu công chức vi phạm pháp luật
đất đai thì cũng phải bị xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật. Hơn thế,
trong nhiều trường hợp họ phải chịu trách nhiệm pháp lý nặng hơn so với công dân
không phải công chức. Và trong xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai công
chức lãnh đạo phải chịu trách nhiệm liên đới về hành vi vi phạm pháp luật của công
chức thuộc quyền quản lý.
1.3.2. Yêu cầu đối với pháp luật về xử lý vi phạm đối với người

quản lý đất đai
- Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải thể hiện được bản chất
Nhà nước của dân, do dân, vì dân, phải thể hiện công chức là công bộc của nhân
dân.
- Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải bảo đảm sự bình đẳng
trước pháp luật giữa cán bộ, công chức quản lý và người sử dụng đất khi vi phạm
pháp luật.
- Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải hướng tới bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh không khoan nhượng với những biểu
hiện độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, cửa quyền, tham nhũng và sách nhiễu của
đội ngũ cán bộ, công chức quản lý đất đai.
- Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải mang tính khả thi và được
đảm bảo thực hiện trên thực tế.
- Việc xây dựng chế định về xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai cần
được sự tham gia, đóng góp của rộng rãi nhân dân.
- Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải đảm bảo tính công khai,
minh bạch, dễ tiếp cận.
1.3.3. Các hình thức xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai
Theo nguyên tắc mọi vi phạm pháp luật phải được phát hiện, đình chỉ, xử lý
kịp thời, việc xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất phải được tiến hành nhanh
chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm gây ra phải được khắc phục
theo quy định của pháp luật thì việc xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai
phải được tiến hành theo đúng trình tự và nguyên tắc mà pháp luật quy định. Tuỳ
theo tính chất, mức độ của từng loại vi phạm mà người quản lý đất đai có hành vi vi


phạm sẽ phải chịu những hình thức trách nhiệm như: trách nhiệm kỷ luật, trách
nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.
1.3.3.1. Trách nhiệm kỷ luật
Trách nhiệm kỷ luật là hình thức trách nhiệm cơ bản nhất của cán bộ, công

chức trong hoạt động công vụ. Cơ sở của trách nhiệm kỷ luật là vi phạm kỷ luật.
Hình thức xử lý kỷ luật đối với người quản lý đất đai được quy định tại Khoản 1
Điều 168 Nghị định 181.
* Đối tượng chịu trách nhiệm kỷ luật:
Đối tượng bị chịu trách nhiệm kỷ luật là những người thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về đất đai có hành vi vi phạm như: lợi dụng chức vụ quyền hạn,
làm trái với các quy định của pháp luật trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất, xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai, quản lý hồ sơ địa chính,
ra quyết định hành chính trong quản lý đất đai hoặc có hành vi khác gây thiệt hại
đến tài nguyên đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Đó là những hành
vi vi phạm nhưng ở mức độ nhẹ, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự,
xảy ra khi thực hiện chức năng quản lý đất đai, vi phạm ý thức tổ chức kỷ luật của
các cán bộ, công chức Nhà nước.
* Thẩm quyền áp dụng trách nhiệm kỷ luật:
Chủ thể áp dụng trách nhiệm kỷ luật là thủ trưởng cơ quan, đơn vị nơi có
công chức vi phạm. Nếu người đứng đầu dơ quan, đơn vị vi phạm kỷ luật thì người
đứng đầu cơ quan đơn vị quản lý cấp trên trực tiếp ra quyết định kỷ luật. Giữa chủ
thể áp dụng và người vi phạm có quan hệ trực thuộc về tổ chức.
Việc xử lý kỷ luật đối với người quản lý đất đai thông qua việc thành lập hội
đồng kỷ luật. Người đứng đầu cơ quan quản lý công chức có hành vi vi phạm ra
quyết định kỷ luật sau khi có quyết định, biên bản và các hồ sơ, tài liệu có liên quan
của hội đồng kỷ luật.
* Hình thức kỷ luật:
Người quản lý đất đai vi phạm kỷ luật thì tuỳ theo mức độ vi phạm phải gánh
chịu một trong những biện pháp kỷ luật sau:
- Khiển trách: là hình thức kỷ luật áp dụng với người quản lý đất đai có hành
vi vi phạm lần đầu, ở mức độ nhẹ.



- Cảnh cáo: được áp dụng đối với người quản lý đất đai đã bị khiển trách về
hành vi vi phạm pháp luật đất đai mà còn tái phạm hoặc vi phạm ở mức độ nhẹ
nhưng khuyết điểm có tính chất thường xuyên hoặc tuy mới vi phạm lần đầu nhưng
có tính chất tương đối nghiêm trọng.
- Hạ bậc lương: áp dụng đối với người quản lý đất đai có hành vi vi phạm
nghiêm trọng trong khi thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai.
- Hạ ngạch: áp dụng đối với người quản lý đất đai có hành vi vi phạm
nghiêm trọng, xét thấy không đủ phẩm chất đạo đức và tiêu chuẩn nghiệp vụ
chuyên môn của ngạch đang đảm nhiệm.
- Cách chức: áp dụng đối với người quản lý đất đai có chức vụ mà hành vi vi
phạm pháp luật nghiêm trọng xét thấy không thể tiếp tục đảm nhận chức vụ được
giao.
-Buộc thôi việc: đây là hình thức kỷ luật nặng nhất áp dụng đối với người
quản lý đất đai khi có hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật đất đai.
1.3.3.2. Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm nghiêm khắc nhất trong các loại trách
nhiệm pháp lý. Cơ sở pháp lý của truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người quản
lý đất đai là Điều 138 Luật đất đai và Điều 174 Bộ luật hình sự.
* Đối tượng chịu trách nhiệm hình sự:
Trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với người quản lý đất đai thực hiện
hành vi phạm tội trong khi thi hành công vụ hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi
phạm hoặc vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng.
* Thẩm quyền áp dụng trách nhiệm hình sự:
Các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người
có hành vi vi phạm pháp luật đất đai bị coi là tội phạm theo quy định của Bộ luật
hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự . Viện kiểm sát nhân dân sẽ truy tố trước tòa và
Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật hình sự.
* Khung hình phạt được áp dụng:
Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, pháp luật quy định ba
khung hình phạt:



- Khung hình phạt thứ nhất
7
: Phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc
phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm áp dụng đối với người phạm tội có hành vi lợi dụng
chức vụ hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn giao đất, thu hồi đất, cho thuê, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà
còn vi phạm.
- Khung hình phải thứ hai
8
: Phạt tù từ 2 năm đến 7 năm áp dụng cho người
phạm tội trong trường hợp đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn, phạm tội gây hậu
quả nghiêm trọng.
- Khung hình phạt thứ ba
9
: Phạt tù từ năm năm đến mười hai năm áp dụng
cho người phạm tội trong trường hợp đất có diện tích đặc biệt lớn hoặc có giá trị
đặc biệt lớn, phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Ngoài ba khung hình phạt trên, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ
mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
1.3.3.3. Trách nhiệm dân sự
Cở sở của trách nhiệm vật chất áp dụng đối với người quản lý đất đai là sự
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ, gây thiệt hại tài sản
cho Nhà nước hoặc công dân. Vấn đề này được quy định tại Điều 142 Luật đất đai
và Khoản 2 Điều 168 Nghị định 181. Theo đó, người quản lý Nhà nước về đất đai
mà có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho Nhà nước, cho người khác thì còn phải
buộc bồi thường cho Nhà nước, cho người bị thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra và
buộc hoàn trả cho cơ quan, tổ chức khoản tiền mà cơ quan, tổ chức đã bồi thường

cho người bị thiệt hại.
* Đối tượng chịu trách nhiệm dân sự:
Là người có trách nhiệm quản lý đất đai có hành vi vi phạm pháp luật đất đai
gây thiệt hại cho Nhà nước, người khác.

* Nguyên tắc xử lý:
Việc bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm dân sự được áp dụng theo
nguyên tắc ngang giá, toàn bộ và kịp thời. Nghĩa là người gây thiệt hại tới đâu thì
phải bồi thường đến đó, việc bồi thường phải đầy đủ và thực hiện nhanh chóng.

7
Khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
8
Khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
9
Khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009



Khác với các hình thức trách nhiệm khác, trong trách nhiệm dân sự có một đặc điểm
nổi bật là các bên có thể tự thỏa thuận với nhau về việc bồi thường thiệt hại. Nếu
không thỏa thuận được về mức bồi thường thiệt hại thì bên bị thiệt hại có quyền
khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết.
Trên đây là các hình thức xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai. Tuy
nhiên, khi quyết định các biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm trên cơ sở quy
định của pháp luật còn phải căn cứ vào thái độ, ý thức chấp hành pháp luật và trình
độ hiểu biết pháp luật của người vi phạm để giải quyết. Thông qua đó mà tăng
cường tính giáo dục, thuyết phục, tính cưỡng chế của pháp luật đối với các quan hệ
pháp luật đất đai.























CHƯƠNG 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI ĐỐI VỚI NGƯỜI QUẢN LÝ
2.1. Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm đối với người
quản lý đất đai
2.1.1. Nguyên tắc xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai
Việc đưa ra những nguyên tắc có tính định hướng trong xử lý vi phạm đối
với người quản lý đất đai có vai trò rất quan trọng góp phần không nhỏ trong quá
trình xử lý vi phạm. Vì vậy, khi xây dựng pháp luật đất đai Nhà nước đã rất chú

trọng vấn đề này. Cụ thể được quy định tại Điều 167 Nghị định 181:
- Mọi vi phạm phải được phát hiện, đình chỉ, xử lý kịp thời. Việc xử lý kỷ
luật và trách nhiệm vật chất phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để,
mọi hậu quả do vi phạm gây ra phải được khắc phục theo quy định của pháp luật.
- Hình thức kỷ luật được áp dụng độc lập, biện pháp xử lý trách nhiệm vật
chất được áp dụng kèm theo hình thức kỷ luật đối với những hành vi vi phạm có
quy định biện pháp xử lý trách nhiệm vật chất.
Hình thức, mức độ kỷ luật được xác định căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu
quả của hành vi vi phạm, nhân thân người có hành vi vi phạm.
- Các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai của cán bộ, công chức khi thực
hiện công vụ có liên quan đến quản lý đất đai mà không thuộc các trường hợp quy
định tại Mục 2 của Chương XIII Nghị định 181 thì bị xử lý kỷ luật và trách nhiệm
vật chất theo quy định của pháp luật có liên quan.
- Việc xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất phải do người có thẩm quyền
quyết định.
- Một hành vi vi phạm chỉ áp dụng một hình thức kỷ luật. Nhiều người cùng
thực hiện một hành vi vi phạm thì từng người vi phạm đều phải bị xử lý. Một người
cùng một lúc thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì bị xử lý về từng hành vi vi phạm
và chịu hình thức kỷ luật cao hơn một mức so với hình thức kỷ luật tương ứng với
hành vi vi phạm nặng nhất.
- Thời hạn xử lý kỷ luật trong lĩnh vực quản lý đất đai là ba tháng kể từ ngày
phát hiện ra hành vi vi phạm; trường hợp hành vi vi phạm có những tình tiết phức
tạp cần có thời gian để thẩm tra, xác minh thì thời hạn được xem xét kéo dài nhưng
không quá sáu tháng, trừ trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 9 Nghị định


97/1998/NĐ-CP ngày 17 thàng 11 năm 1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và
trách nhiệm vật chất đối với công chức.
Trong thời hạn xử lý kỷ luật mà cá nhân có hành vi vi phạm mới thuộc các
hành vi quy định trong Nghị định 181 hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử lý kỷ

luật thì thời hạn được tính lại kể từ ngày phát hiện hành vi vi phạm mới hoặc từ
ngày chấm dứt hành vi cố tình trốn tránh, cản trở việc xử lý kỷ luật.
- Trường hợp hành vi vi phạm có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
Trong quá trình xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai, những nguyên
tắc trên được quán triệt một cách đầy đủ, thống nhất sẽ giúp cho hoạt động của các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền xử lý vi phạm được triệt
để, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật đất đai. Mặt khác, thông qua những
nguyên tắc này cũng là cơ chế đảm bảo sự xử lý công bằng, đúng pháp luật, hạn chế
sự lạm quyền hoặc bao che, dung túng của các cơ quan chức năng trong quá trình
thực thi nhiệm vụ.
2.1.2. Đối tượng bị xử lý vi phạm
Đối tượng bị xử lý vi phạm trong hoạt động xử lý vi phạm đối với người
quản lý đất đai chính là những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động quản
lý đất đai như cán bộ công chức làm việc ở Uỷ ban nhân dân (UBND) các cấp, cán
bộ thuộc các cơ quan Tài nguyên và Môi trường, cán bộ địa chính…
Điều 141 Luật đất đai 2003 đã có quy định chung về đối tượng bị xử lý vi
phạm: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái với quy định của pháp luật
trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển
quyền sử dụng dất, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định nghĩa vụ
tài chính về đất đai, quản lý hồ sơ địa chính, ra quyết định hành chính trong quản
lý đất đai; thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về đất đai
hoặc có hành vi khác gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai, quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, để xác định có phải là đối tượng bị xử lý vi phạm trong hoạt động
quản lý đất đai hay không phải xem xét những dấu hiệu sau:
- Có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Những người quản lý vi phạm
phải là những người nắm trong tay quyền lực Nhà nước và trong quá trình thực thi



nhiệm vụ họ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi vi
phạm.
- Làm trái với các quy định của pháp luật đất đai: Làm trái có nghĩa là pháp
luật quy định phải thực hiện một số hành vi nhất định nhưng không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng với quy định của pháp luật. Trong hoạt động quản lý đất đai,
người quản lý đã làm trái với các quy định của pháp luật trong giao đất, cho thuê
đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng, thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định nhiệm vụ tài chính về đất đai, quản lý hồ sơ
địa chính, ra quyết định hành chính trong quản lý đất đai. Do đó, họ phải chịu trách
nhiệm về hành vi sai trái của mình.
- Thiếu trách nhiệm trọng quản lý đất đai để xảy ra vi phạm pháp luật về đất
đai. Cán bộ, công chức Nhà nước hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và có nhiệm
vụ nhất định trong quản lý Nhà nước và như vậy nếu họ thiếu trách nhiệm trong
công việc của mình thì đương nhiên họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
- Có hành vi khác gây thiệt hại đối với tài nguyên đất đai, quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng đất.
Trên đây chính là những dấu hiệu chung nhất về hành vi vi phạm pháp luật
đất đai của người quản lý. Những cán bộ, công chức có những hành vi trên sẽ bị xử
lý theo đúng pháp luật. Nhưng cụ thể đối tượng bị xử lý vi phạm là ai? Điều 166
Nghị định 181 đã quy định cụ thể về đối tượng bị xử lý vi phạm:
- Người đứng đầu tổ chức, thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền quyết định về
quản lý đất đai mà có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.
- Cán bộ, công chức thuộc cơ quan quản lý đất đai các cấp và cán bộ địa
chính xã, phường, thị trấn có hành vi vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục hành
chính trong quản lý đất đai.
- Người đứng đầu, cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên của tổ chức được
Nhà nước giao để quản lý trong các trường hợp sau mà có hành vi vi phạm pháp
luật về đất đai đối với đất được giao để quản lý:
+ Tổ chức được giao quản lý các công trình công cộng mà Nhà nước giao đất

để quản lý mà không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Tổ chức kinh tế được giao quản lý diện tích đất để thực hiện các dự án đầu
tư theo hình thức xây dựng - chuyển giao (BT).
+ Tổ chức phát triển quỹ đất được giao quản lý quỹ đất đã thu hồi theo quyết
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.


Hệ thống tổ chức của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức quản lý đất đai
được thiết lập theo một mô hình thống nhất hợp lý với sự phối hợp chặt chẽ trong
hoạt động của người đứng đầu tổ chức, thủ trưởng cơ quan và các cán bộ, công
chức dưới quyền. Bất kể là thủ trưởng hay nhân viên mà có hành vi vi phạm pháp
luật đều phải bị xử lý nghiêm minh. Hơn nữa, cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm
liên đới về hành vi vi phạm pháp luật của công chức thuộc quyền quản lý. Vì vậy
pháp luật đất đai cần quy định cụ thể hơn nữa về vấn đề chịu trách nhiệm liên đới
giữa người lãnh đạo và cán bộ, công chức dưới quyền để tăng sự giám sát lẫn nhau,
nâng cao trách nhiệm của người lãnh đạo trong quá trình điều hành công việc.
2.1.3. Các hành vi vi phạm của người quản lý đất đai và biện pháp
xử lý
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật đất đai trong đó có chế định về xử lý vi phạm đối với người quản
lý đất đai. Để khắc phục tình trạng yếu kém trong quản lý đất đai, chống tiêu cực,
tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật khác của cán bộ, công chức có thẩm
quyền trong quản lý Nhà nước về đất đai, Luật đất đai 2003 đã quy định cụ thể, chi
tiết những hành vi vi phạm của người quản lý đất đai và biện pháp xử lý. Nếu như ở
Luật đất đai 1993 chỉ quy định duy nhất ở Điều 86 về xử lý vi phạm đối với người
quản lý đất đai thì nay Luật đất đai 2003 và Nghị định 181 về thi hành luật đất đai
đã quy định chi tiết, cụ thể hơn nhiều.
Hệ thống cơ quan quản lý đất đai ngày càng được kiện toàn với sự xuất hiện
của cơ quan, tổ chức mới. Mỗi cơ quan, tổ chức, mỗi cán bộ quản lý mới được đảm
nhiệm chức trách riêng và kéo theo đó hành vi vi phạm của người quản lý đất đai

cũng rất đa dạng và phức tạp. Nghị định 181 đã dành riêng Mục 2 Chương XIII quy
định về các hành vi vi phạm và hình thức xử lý vi phạm đối với người quản lý đất
đai. Đó là những hành vi sau:
2.1.3.1. Vi phạm quy định về hồ sơ và mốc giới địa giới hành chính
10

Vi phạm về hồ sơ và mốc địa giới hành chính bao gồm các hành vi sau: Làm
sai lệch sơ đồ vị trí, bảng tọa độ, biên bản bàn giao mốc địa giới hành chính; cắm
mốc địa giới hành chính sai vị trí trên thực địa.
Với những hành vi trên hình thức trách nhiệm kỷ luật được áp dụng là: có
hành vi làm sai lệch sơ đồ vị trí, bảng tọa độ, biên bản bàn giao mốc địa giới hành
chính do thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị

10
Điều 169 Nghị Định 181 về hướng dẩn thi hành Luật đất đai 2003


cảnh cáo; cố ý thì bị hạ bậc lương; tái phạm do cố ý thì hạ ngạch. Có hành vi cắm
mốc địa giới hành chính sai vị trí trên thực địa do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo,
tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị hạ bậc lương; cố ý thì bị hạ ngạch; tái phạm do
cố ý thì bị cách chức hoặc thôi việc.
2.1.3.2. Vi phạm quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
11

Vi phạm quy định về quy hoạch sử dụng đất bao gồm các hành vi sau:
Không công bố hoặc chậm công bố quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch
sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt; không công bố hoặc chậm công bố việc điều
chỉnh hoặc hủy bỏ kế hoạch sử dụng đất; làm mất, làm sai lệch bản đồ quy hoạch sử
dụng đất chi tiết. Nếu có hành vi trên do thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách, tái
phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo; cố ý thì bị hạ bậc lương; tái phạm do cố

ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức.
Cắm mốc chỉ giới quy hoạch sử dụng đất chi tiết sai vị trí trên thực địa; để
xảy ra việc xây dựng, đầu tư bất động sản trái quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế
hoạch sử dụng đất chi tiết trong khu vực đất phải thu hồi để thực hiện quy hoạch sử
dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt. Có hành vi này do
thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách hoặc cảnh cáo, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì
bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức; tái
phạm do cố ý thì bị cách chức hoặc buộc thôi việc.
2.1.3.3. Vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích
sử dụng đất
12

Vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
bao gồm những hành vi sau:
Nếu có hành vi giao đất, giao lại đất, cho thuê đất không đúng vị trí và diện
tích đất trên thực địa do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo; tái phạm do thiếu trách
nhiệm thì bị hạ bậc lương; cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức, tái phạm do cố ý thì
bị cách chức hoặc buộc thôi việc.
Hành vi giao đất, giao lại đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không phù hợp với quy
hoạch sử dụng đất chi tiết hoặc quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng
điểm dân cư nông thôn đã được xét duyệt. Nếu có hành vi này do thiếu trách nhiệm

11
Điều 170 Nghị Định 181 về hướng dẩn thi hành Luật đất đai 2003
12
Điều 171 Nghị Định 181 về hướng dẩn thi hành Luật đất đai 2003


thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị hạ ngạch

hoặc cách chức; do cố ý thì bị cách chức; tái phạm do cố ý thì bị buộc thôi việc.
2.1.3.4. Vi phạm quy định về thu hồi đất
13

Khi tiến hành thu hồi đất mà không thông báo trước cho người có đất bị thu
hồi theo quy định của Luật đất đai; không công khai phương án bồi thường, tái định
cư do thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh
cáo, cố ý thì bị hạ bậc lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch.
Nếu có hành vi thực hiện bồi thường không đúng đối tượng, diện tích, mức
bồi thường cho người có đất bị thu hồi; làm sai lệch hồ sơ thu đất; xác định sai vị trí
diện tích đất bị thu hồi trên thực địa do thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách hoặc
cảnh cáo, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; cố ý thị
bị hạ ngạch hoặc cách chức, tái phạm do cố ý thì bị cách chức hoặc buộc thôi việc.
Việc thu hồi đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không
đúng với quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét
duyệt do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; tái phạm do thiếu
trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ ngạch; cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức, tái
phạm do cố ý thì bị buộc thôi việc.
2.1.3.5. Vi phạm quy định về trưng dụng đất
14

Trường hợp thực hiện bồi thường không đúng đối tượng, diện tích, mức bồi
thường, thời hạn bồi thường cho người có đất bị trưng dụng do thiếu trách nhiệm thì
bị khiển trách, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo; cố ý thì bị hạ bậc
lương, tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức.
Nếu trưng dụng đất không đúng các trường hợp bị trưng dụng theo Luật đất
đai do thiếu trách nhiệm thì bị hạ bậc lương; cố ý thì bị hạ ngạch; tái phạm do cố ý
thì bị cách chức hoặc buộc thôi việc.
2.1.3.6. Vi phạm quy định về quản lý đất được Nhà nước giao để quản


15

Để xảy ra tình trạng người được pháp luật cho phép sử dụng đất tạm thời mà
sử dụng sai mục đích thì bị khiển trách hoặc cảnh cáo; tái phạm thì bị hạ bậc lương.
Sử dụng đất sai mục đích thì bị cảnh cáo; tái phạm thì bị hạ ngạch hoặc cách
chức.

13
Điều 172 Nghị Định 181 về hướng dẩn thi hành Luật đất đai 2003
14
Điều 173 Nghị Định 181 về hướng dẩn thi hành Luật đất đai 2003
15
Điều 174 Nghị Định 181 về hướng dẩn thi hành Luật đất đai 2003


Để đất bị lấn chiếm, bị thất thoát thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; tái phạm
thì bị hạ ngạch hoặc cách chức.
2.1.3.7. Vi phạm quy định về thực hiện trình tự, thủ tục hành chính
trong quản lý và sử dụng đất
16

Luật đất đai 2003 đã quy định rất cụ thể chi tiết về các hành vi vi phạm trong
việc thực hiện trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý đất đai. Bao gồm những
hành vi sau: không nhận hồ sơ đã hợp lệ, đầy đủ, không hướng dẫn cụ thể khi tiếp
nhận hồ sơ, gây phiền hà đối với người nộp hồ sơ, nhận hồ sơ mà không ghi vào sổ
theo dõi; tự đặt ra những thủ tục hành chính ngoài quy định gây phiền hà đối với
người xin làm các thủ tục hành chính; từ chối hoặc không thực hiện thủ tục hành
chính mà theo quy định của pháp luật đã đủ điều kiện để thực hiện….Và tương ứng
với mỗi hành vi vi phạm, mức độ lỗi mà phải chịu những mức kỷ luật nặng hay nhẹ.
Ngoài những hình thức kỷ luật trên người có các hành vi vi phạm còn phải bị

áp dụng biện pháp xử lý trách nhiệm vật chất nếu gây thiệt hại cho Nhà nước, cho
người khác. Và trong quá trình xem xét kỷ luật cán bộ, công chức mà phát hiện có
dấu hiệu tội phạm, người có thẩm quyền xử lý kỷ luật đề nghị cơ quan có thẩm
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự.
Với những quy định của pháp luật đất đai về xử lý vi phạm đối với người
quản lý đất đai về cơ bản đã tạo ra hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, giải quyết
tốt các mối quan hệ đất đai, bước đầu đáp ứng được cho công tác xử lý vi phạm.
Tuy nhiên, pháp luật đất đai hiện hành vẫn bộc lộ một số tồn tại chủ yếu như: chưa
quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý liên đới của công chức lãnh đạo khi công chức
thuộc quyền vi phạm. Về trách nhiệm hình sự của công chức, mặc dù đã được quan
tâm hoàn thiện trong những năm gần đây, tuy nhiên những quy định như: “đã bị xử
phạt kỷ luật” hoặc “gây hậu quả nghiêm trọng” chưa được cụ thể hóa. Đồng thời,
chế tài xử lý người quản lý đất đai có hành vi vi phạm pháp luật đất đai còn chưa đủ
mạnh, tính răn đe chưa cao.


2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong xử lý vi phạm đối với
người quản lý đất đai
2.2.1. Thực trạng chung

16
Điều 175 Nghị Định 181 về hướng dẩn thi hành Luật đất đai 2003

×