Lời nói đầu
Trong những năm qua, tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật ngày càng
gia tăng đòi hỏi cần có một cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, để vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên, vừa nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh có
hiệu quả chống lại những hành vi vi phạm pháp luật do người chưa thành niên thực hiện. Tuy
nhiên cho đến nay, các quy định riêng, cụ thể về xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên cũng như các công trình nghiên cứu về vấn đề này không nhiều. Do đó em chọn đề
tài "Biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên" với mong muốn
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định đó
trong thực tiễn. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là người chưa thành niên bị áp dụng các biện
pháp xử lý vi phạm hành chính và các quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với họ. Trong
phạm vi và giới hạn cho phép, đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
Chương I: Khái niệm người chưa thành niên, đặc điểm người chưa thành niên và ảnh
hưởng của những đặc điểm đó đến việc quy định các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối
với người chưa thành niên.
Chương II: Thực trạng pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người
chưa thành niên.
Chương III: Thực tiễn áp dụng, phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật về biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên.
Đề tài có ý nghĩa là những nghiên cứu cơ bản, bước đầu, xuất phát từ thực trạng quy
định và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với người
chưa thành niên. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện các
quy định pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng các biện pháp xử lý vi
phạm hành chính đối với người chưa thành niên.
Chương I
đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi và tác động của những
đặc điểm đó đến việc quy định các biện pháp xử lý
vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
1. Khái niệm và đặc điểm người chưa thành niên
1.1. Khái niệm
"Người chưa thành niên" không phải là một khái niệm mới, nó được sử dụng phổ biến,
đặc biệt là trong các văn bản pháp luật. Bên cạnh khái niệm này chúng ta còn bắt gặp các khái
1
niệm "vị thành niên", "trẻ em".Vậy các khái niệm này có gì giống và khác nhau? Những người
ở độ tuổi nào thì được coi là người chưa thành niên?
Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học, năm 2004) thì "thành niên" là đến tuổi
được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ; "vị thành niên" là
chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ.
Từ điển Luật học (NXB Bách khoa, Hà Nội 1999) không đưa ra khái niệm "thành niên"
trước mà chỉ đưa ra khái niệm "vị thành niên" (với chú giải là: chưa thành niên) là người chưa
đến tuổi được pháp luật coi là có đủ khả năng để sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách
nhiệm. Theo đó người chưa đủ 18 tuổi là "vị thành niên".
Trong tiếng Hán "vị" được hiểu là "chưa tới". Như vậy khái niệm "chưa thành niên"
cũng chính là khái niệm "vị thành niên". Với định nghĩa thứ nhất thì việc được pháp luật công
nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ ở đây chỉ mang nghĩa tương đối (đầy đủ
một cách tương đối). Cá nhân khi đạt đến một độ tuổi nhất định sẽ được coi là người thành niên
và ngược lại được coi là người chưa thành niên, tuy nhiên là người thành niên không có nghĩa
là được hưởng tất cả mọi quyền và phải thực hiện mọi nghĩa vụ. Ví dụ, Điều 54 Hiến pháp năm
1992 quy định công dân Việt Nam đủ 21 tuổi có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân
dân hoặc Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định công dân Việt Nam từ đủ 21 tuổi có
quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, một người vừa đủ 20 tuổi tuy là người đã thành niên nhưng
không thể đòi hỏi các quyền ứng cử trên, nhưng cũng không vì thế mà coi họ là người chưa
thành niên. Định nghĩa này không xác định độ tuổi cụ thể.
Từ điển Luật học đưa ra định nghĩa cụ thể hơn, theo đó "người chưa thành niên" là
người dưới 18 tuổi, tuy nhiên theo định nghĩa này thì khi chưa thành niên sẽ không được pháp
luật coi là có đủ khả năng để sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm. Nhưng mỗi
ngành luật lại có những quy định khác nhau căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của người chưa
thành niên, ý thức của họ khi tham gia vào các quan hệ xã hội bị điều chỉnh bởi những quy
phạm của ngành luật đó. Ví dụ, Điều 68 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự…", tuy chưa
đủ 18 tuổi (chưa coi là thành niên) họ vẫn bị pháp luật quy định là phải chịu trách nhiệm hình
sự; Điều 18 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên.
Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên". Cũng theo quy định của Bộ luật người chưa
thành niên vẫn được tham gia vào các quan hệ dân sự, mà khi đó họ phải được pháp luật công
nhận là có khả năng "sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm"; Điều 119 Bộ luật Lao
động 2002 quy định: "người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi", theo đó
Bộ luật cũng quy định các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người lao động chưa thành niên.
Như vậy định nghĩa này là chưa chính xác.
2
Bên cạnh đó, còn có khái niệm "trẻ em". Theo Công ước về quyền trẻ em 1989: "Trẻ
em là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi
thành niên sớm hơn". Tại Điều 11 Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ
người chưa thành niên bị tước quyền tự do năm 1990 đã quy định: "Những người chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi". Có thể thấy qua hai văn bản pháp lý quốc tế trên, khái niệm "trẻ
em" và khái niệm "người chưa thành niên" đều để chỉ người dưới 18 tuổi.
Lại có ý kiến cho rằng, theo pháp luật Việt Nam thì khái niệm "trẻ em" và khái niệm
"người chưa thành niên" có sự khác nhau với dẫn chứng Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005
quy định: "Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên", còn Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em quy định: "Trẻ em được quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16
tuổi" (Điều 1). Theo đó, khoảng cách giữa "trẻ em" và "người chưa thành niên" là khoảng cách
2 năm.
Về độ tuổi của người chưa thành niên, có rất nhiều ý kiến khác nhau như: người chưa
thành niên là người ở độ tuổi 14 đến 17 tuổi (Spranger); từ 11 đến 15 tuổi (Bromlei); từ 12 đến
15 tuổi (J. Piagie) hay có sự phân biệt giữa nam và nữ như: nam là từ 14 đến 16 tuổi, nữ là 11
đến 13 (Buhler); nam 12 đến 17 tuổi, nữ là 12 đến 15 tuổi (Grimn)…[6, tr.60].
Có thể thấy rằng, việc xác định độ tuổi người chưa thành niên là rất khó, không thể
đồng nhất hai khái niệm "người chưa thành niên" và "trẻ em", cũng không nên xem khái niệm
nào có nội hàm rộng hay hẹp hơn. Nhìn chung các ý kiến đều thống nhất cho rằng giới hạn độ
tuổi cao nhất của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi. Chúng tôi cho rằng không nhất thiết
phải có một khái niệm cụ thể về người chưa thành niên, chỉ cần xác định người chưa thành niên
bao gồm những người ở lứa tuổi nào? hợp lý nhất đó là những người ở độ tuổi từ đủ 12 đến
dưới 18 tuổi, bởi đây là giai đoạn mà theo tâm lý học thì tâm sinh lí của người chưa thành niên
được thể hiện rõ nhất. Mặt khác, khi nghiên cứu về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối
với người chưa thành niên, theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, Điều 7 quy định về
Xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính thì: "người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi vi phạm
hành chính thì bị phạt cảnh cáo", "người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì
bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 12", và người chưa thành
niên từ đủ 12 tuổi có thể bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Pháp lệnh xử lí vi
phạm hành chính cũng không có một điều nào quy định cụ thể người chưa thành niên là người
ở độ tuổi nào nhưng có thể thấy đối tượng người chưa thành niên bị áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính là những người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Như vậy, có thể kết luận người chưa thành niên là người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18
tuổi.
1.2. Đặc điểm
3
Dưới góc độ tâm lí học, con người phải trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển khác
nhau, mà mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm tâm sinh lí riêng, đặc trưng cùng với tác động
bên ngoài làm hình thành những những hành vi ứng xử khác nhau. Giai đoạn chưa thành niên là
giai đoạn có vị trí đặc biệt quan trọng trong cả quá trình phát triển và hoàn thiện ấy. Nghiên cứu
người chưa thành niên qua các đặc điểm về tâm lí, sinh lí sẽ giúp chúng ta lí giải được cơ sở
khoa học của những quy định pháp luật nói chung và của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính
nói riêng đối với đối tượng này. Sau đây là một vài đặc điểm đặc trưng về tâm sinh lí của người
chưa thành niên.
Người chưa thành niên gồm những người ở độ tuổi từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi. Cần phải
nói rằng, tuổi chỉ có ý nghĩa là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của con người. Với
người chưa thành niên, họ cần có thời gian chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang một giai đoạn
mới: giai đoạn trưởng thành (để lớn lên về cơ thể, mở rộng quan hệ xã hội, tích luỹ tri thức,
phương thức hoạt động…). Tuổi không quy định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Tuổi có thể
phù hợp với trình độ phát triển tâm lí của con người, tuổi cũng có thể đi chậm hơn hoặc đi
nhanh hơn là còn phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh xung quanh. Tuy nhiên người chưa thành
niên sống trong hoàn cảnh nào cũng có những đặc điểm chung, đặc trưng cho lứa tuổi. Đó là
đặc điểm của một giai đoạn mà cách gọi thôi cũng cho thấy tính phức tạp và tầm quan trọng
của nó: "thời kì quá độ" (chưa phải là người lớn cũng không còn là trẻ con), "tuổi khủng hoảng"
(cả về sinh lí lẫn tâm lí), "tuổi khó bảo" (các em ở độ tuổi này trở nên bướng bỉnh và khó bảo),
"tuổi bất trị"…
1.2.1. Đặc điểm sinh lí
Thời kì này, cơ thể phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều, biểu hiện bên ngoài là
các em lớn lên trông thấy. Tuỳ thuộc vào độ tuổi, ngay trong cùng giai đoạn mà sự phát triển
giữa nam và nữ là khác nhau, như cùng trong giai đoạn chưa thành niên nhưng ở độ tuổi 12-13,
các em nữ phát triển hơn các em nam về hình dáng thì ở độ tuổi 14-15, cơ thể các em nam lại
phát triển hơn. Tuy nhiên ở cả nam và nữ đều có những đặc điểm chung của lứa tuổi.
Sự phát triển của hệ xương mà chủ yếu là sự phát triển của xương tay, xương chân rất
nhanh nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển chậm. Do đó, cơ thể phát triển không
cân đối khiến các em trở nên lóng ngóng, vụng về và hay làm đổ vỡ…
Sự phát triển của hệ thống tim mạch không cân đối khiến các em dễ rơi vào tình trạng
rối loạn tạm thời với những biểu hiện như: mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu. Những biểu hiện này
diễn ra không lâu nhưng lại thường xuyên, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt
hàng ngày cũng như tâm lý của người chưa thành niên.
Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần
kinh làm cho các em dễ xúc động, hay bực tức hay nổi nóng, do đó các em hay có những phản
4
ứng mạnh mẽ và gay gắt về những người xung quanh, về những việc mà các em cảm thấy
không hài lòng.
Hệ thần kinh chưa có khả năng chịu được những kích thích mạnh và kéo dài, dẫn đến
cảm giác ức chế, uể oải, thờ ơ, lãnh đạm, tản mạn khiến các em đôi khi cư xử không đúng với
bản chất của mình, nghiêm trọng hơn là có những hành vi vi phạm đạo đức xã hội và đặc biệt là
vi phạm pháp luật.
Một đặc điểm sinh lí đặc trưng nữa của người chưa thành niên đó là sự phát dục, đây là
dấu hiệu cho thấy rõ ràng nhất sự lớn lên của các em. Điều này làm xuất hiện ở các em nhiều
biểu hiện mới như nhu cầu giao tiếp với bạn bè, đặc biệt là với bạn bè khác giới. Các em trưởng
thành hơn về mặt cơ thể, nhưng nhận thức vẫn còn hạn chế.
Chính những đặc điểm về sinh lí ảnh hưởng đến những đặc điểm về tâm lí, từ đó quyết
định đến hành vi của người chưa thành niên.
1.2.2. Đặc điểm tâm lí
Song song với sự phát triển về sinh lí, ở người chưa thành niên đã bắt đầu hình thành sự
"tự ý thức" với các câu hỏi: mình như thế nào? mình đang làm gì? có những ai quan tâm đến
mình?…Quá trình này diễn ra dần dần, cùng với diễn biến tâm lí phức tạp, dễ xúc động, dễ bị
kích động, chợt vui, chợt buồn, tình cảm bồng bột, hăng say, hoạt động thần kinh không cân
bằng, quá trình hưng phấn mạnh hơn quá trình ức chế, do đó khiến các em không thể tự kiềm
chế nổi bản thân khi gặp tình huống bất ngờ. Điều này sẽ dẫn đến những lỗi không đáng mắc
phải, kể cả việc vi phạm pháp luật.
Do có thể tự ý thức về bản thân, các em cũng có thể nhận thấy sự thay đổi về sinh lí của
mình và đôi khi các em có thái độ, tâm lí khó chịu với chính những thay đổi đó. Các em biết
những việc nào thì được phép làm, những việc nào không nhưng vẫn làm theo cách của mình
với những lý do rất riêng. Do đó, khi mắc lỗi, thay vì nhìn nhận thẳng vào vấn đề để sửa chữa
khắc phục thì các em lại cố che dấu, thể hiện ra cử chỉ điệu bộ ở bên ngoài không tự nhiên, tỏ ra
mạnh dạn, can đảm để người khác không chú ý đến mình; hay chỉ vì một hành động chế giễu,
mỉa mai về hình thể dáng vẻ đi lại bên ngoài cũng gây cho các em những phản ứng mạnh mẽ…
Các em luôn muốn bộc lộ cá tính, tự khẳng định mình, muốn nhanh chóng được trở
thành người lớn và cố gắng để được đối xử như người lớn, do đó hay phóng đại năng lực bản
thân mình…nhưng thực chất kết thúc giai đoạn chưa thành niên các em mới chỉ phát triển khá
hoàn thiện về mặt sinh lí, còn quá trình nhận thức vẫn chưa đầy đủ. Nhận thức về xã hội, đạo
đức, pháp luật… còn hạn chế, đặc biệt là nhận thức về pháp luật. Đôi khi những nhận thức
quan điểm về pháp luật không được hình thành hoặc có nhưng bị lệch lạc theo cách hiểu chủ
quan của các em.
5
Mặc dù sống độc lập hơn và muốn tỏ ra mình là người lớn nhưng các em ở độ tuổi này
vẫn cần có sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ, bởi những khó khăn, rắc rối về mặt tâm lí, sinh
lí là không tránh khỏi. Cha mẹ phải là người hiểu rõ điều đó để quan tâm cho đúng mức, sao
cho các em vẫn có thể phát huy được tính độc lập của mình nhưng không thể tách rời sự quản
lý chặt chẽ cần thiết của cha mẹ.
Khi trở thành đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính thì những đặc điểm
tâm sinh lí trên phải được xem xét để pháp luật có những quy định phù hợp, đảm bảo việc bảo
vệ hiệu quả nhất những quyền lợi của đối tượng "đặc biệt" này.
1.2. ảnh hưởng của những đặc điểm của người chưa thành niên đối với việc quy định các biện
pháp xử lý vi phạm hành chính
Pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng có
những quy định rất đặc thù với đối tượng là người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Tiêu biểu phải kể đến Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, là một đạo luật chỉ
quy định những vấn đề liên quan đến trẻ em, trong đó có cả người chưa thành niên, gồm những
quy định chung, những quy định về quyền và nghĩa vụ của trẻ em cũng như của những đối
tượng liên quan đảm bảo mang lại cho trẻ em những điều tốt đẹp nhất: "Các quyền của trẻ em
phải được tôn trọng và thực hiện" (khoản 1 Điều 6); "Gia đình, Nhà nước và xã hội có trách
nhiệm bảo vê tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em; thực hiện các biện pháp
phòng ngừa tai nạn cho trẻ em" (khoản 1 Điều 26)…
Trong Bộ luật hình sự 1999, chương X là chương quy định riêng với người chưa thành
niên, gồm các quy định về nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội: "Việc truy
cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng các hình phạt đối với họ
được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm
tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm" (khoản 2 Điều
69), hoặc "không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội"
(khoản 5 Điều 69); hay quy định về hình phạt tiền: "mức phạt tiền đối với người chưa thành
niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định"…
Trong Bộ luật Lao động, khi quy định về thời giờ làm việc của người lao động chưa
thành niên thì "Thời giờ làm việc của người lao động chưa thành niên không được quá bảy giờ
một ngày hoặc 42 giờ một tuần" (khoản 1 Điều 122), trong khi đối với người lao động đã thành
niên thời gian đó là "không quá 8 giờ trong một ngày hoặc 48 giờ trong một tuần" (khoản 1
Điều 68), quy định như vậy để đảm bảo tránh ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể lực và trí
lực của người chưa thành niên, tránh tình trạng người chưa thành niên bị lạm dụng sức lao
động.
6
Bộ luật dân sự 2005 quy định: "Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý" (khoản 1
Điều 20)…
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng có những quy định riêng đối với người chưa
thành niên vi phạm hành chính, không phải bất kì người chưa thành niên nào cũng bị áp dụng
các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, họ chỉ có thể bị áp dụng các biện pháp đó khi thoả
mãn một số điều kiện nhất định, gồm: thứ nhất, phải đạt đến một độ tuổi nhất định; thứ hai, có
khả năng nhận thức và có khả năng điều khiển hành vi; thứ ba, họ phải thực hiện hành vi trái
pháp luật mà theo quy định bị áp dụng cưỡng chế hành chính. Khi họ bị áp dụng các biện pháp
cưỡng chế hành chính thì việc áp dụng cũng có những điểm khác biệt với việc áp dụng các biện
pháp cưỡng chế này đối với người đã thành niên.
- Phần lớn người chưa thành niên còn sống phụ thuộc vào gia đình, họ không có tài sản
riêng, quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính phải phù hợp với những đặc điểm đó để
đảm bảo tính khả thi khi áp dụng. Khoản 1 Điều 7 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002
quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo, khác
với trước đây quy định là phạt tiền dến 50.000 đồng, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi
phạm hành chính mà bị áp dụng hình thức phạt tiền thì mức tiền phạt đối với họ không được
quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên. Biện pháp xử phạt với người chưa thành
niên chỉ mang tính chất răn đe, giáo dục là chính, ở độ tuổi đủ 14 đến dưới 16, việc quy định
hình thức phạt tiền là không cần thiết, bởi những người chưa thành niên không có khả năng để
chấp hành biện pháp xử phạt này, thường thì cha mẹ họ là những người có trách nhiệm nộp
thay. Điều đó sẽ không có tác dụng nhiều đến nhận thức của họ, bởi vốn có nhận thức chưa đầy
đủ và sâu sắc, họ được cha mẹ thực hiện thay sẽ không thể hiểu được mục đích chính của việc
áp dụng xử phạt vi phạm hành chính đối với họ là răn đe, giáo dục. Còn ở độ tuổi từ đủ 16 đến
dưới 18, các em đã có thể có nhận thức đầy đủ hơn, việc phạt cảnh cáo với các em đôi khi lại
chưa đủ, cần phải áp dụng hình thức xử phạt cao hơn là phạt tiền.
- Chỉ riêng những đặc điểm tâm sinh lí chưa đủ để dẫn đến những hành vi vi phạm pháp
luật, chính những yếu tố bên ngoài từ phía gia đình, bạn bè và xã hội khi có tác động tiêu cực
đến khả năng nhận thức của các em khiến các em thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật.
Pháp luật cũng tính đến cả những yếu tố này khi quy định biện pháp cưỡng chế đối với người
chưa thành niên.
Trong mối quan hệ với gia đình mà cụ thể là mối quan hệ với cha mẹ, sự hiểu biết của
cha mẹ về những thay đổi tâm sinh lí của con chưa thành niên có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy
nhiên, sự hiểu biết này mới chỉ dừng lại ở những thay đổi bên ngoài, được thể hiện rõ nét trong
một thời gian dài; còn những thay đổi tâm sinh lí có tính chất bên trong thì cha mẹ ít quan tâm
7
hơn. Do đó khi ý thức của người chưa thành niên bị lệch lạc dẫn đến vi phạm pháp luật, cha mẹ
họ thường cho rằng nguyên nhân là do chính bản thân chúng gây ra, họ không hề phải chịu
trách nhiệm về điều đó, rất nhiều trong số đó bỏ mặc và không quan tâm đến đời sống của con
ở lứa tuổi này. Khi thiếu vắng tình cảm của cha mẹ, người chưa thành niên chỉ còn tìm thấy sự
cân bằng, an ủi của những người thân khác trong gia đình, họ hàng và bạn bè. Tuy nhiên điều
đó không phải lúc nào cũng có thể mang lại cảm giác thanh thản, yên ổn thật sự và có thể thay
thế tình cảm giữa cha mẹ và con cái trong gia đình. Khi đó, các em nhanh chóng tìm đến sự giải
toả tâm lí bằng những hành động thể hiện sự nông nổi, bồng bột của người chưa thành niên. Có
thể đưa ra một ví dụ về trường hợp của Trương Hữu Thân. Sinh năm 1992 tại Phong Điền
(Thừa Thiên Huế), Thân vốn là một cậu bé ngoan ngoãn sống hiếu thuận cùng gia đình. Nhưng
sau đó bố mẹ Thân chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh kiếm sống. Không còn sự quan tâm,
chăm sóc của bố mẹ, Thân dần bê trễ học hành và bước vào con đường ham mê cờ bạc rồi trộm
cắp vặt từ khi chưa đầy 12 tuổi. Sau đó, lại được gửi đến cho ông bà nội quản lí. Không dạy nổi
cháu, mỗi lần đi đâu vắng ông nội lại đào một cái hố rồi chôn đứng đứa cháu 12 tuổi xuống, khi về
lại đào lên. Sự việc kéo dài cho đến một đêm, thấy ông nội đã ngủ say và biết dưới gối của ông có
275.000 đồng Thân nghĩ đến chuyện lấy cắp, bị ông nội tỉnh dậy, phát hiện, tát mấy cái vào mặt,
Thân lẳng lặng bỏ đi ngủ nhưng đến 3 giờ sáng Thân đã dùng búa bổ củi bổ nhiều nhát vào mặt ông
khiến ông chết ngay tại chỗ. Hành vi của Thân là do cố ý nhưng ở độ tuổi này Thân chưa thể ý thức
được sự cố ý của mình. Chính hoàn cảnh gia đình (bố mẹ mải mê kiếm tiền, không quan tâm để ý;
ông nội ngược đãi) là nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của Thân. Có
rất nhiều người chưa thành niên chịu tác động tiêu cực từ chính gia đình dưới nhiều góc độ khác
nhau. Do đó, hành vi của Thân đã có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng (quy định tại
Điều 93 Bộ luật Hình sự) nhưng căn cứ vào đặc điểm nhân thân, Thân không phải chịu trách
nhiệm hình sự, thay vào đó bị áp dụng một trong những biện pháp xử lý vi phạm hành chính là
đưa vào trường giáo dưỡng.
Bạn bè và những tác động bên ngoài xã hội cũng là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ
đến người chưa thành niên, họ rất dễ bị bạn bè lôi kéo, kích động, bất kì điều gì mới lạ diễn ra
xung quanh cũng khiến họ thấy tò mò tìm hiểu trong khi nhận thức đúng đắn chưa được hình
thành một cách vững chắc. Những lúc đó họ thậm chí không thể nhận thức được hành vi của
mình là đúng hay sai. Ví dụ, một cậu bé tên Tứ, sinh năm 1991, quê ở Bình Định, khi chỉ mới
vừa 14 tuổi, đã phải vào trường giáo dưỡng cải tạo 24 tháng về tội hiếp dâm và giết người. Chỉ
vì muốn "thử" một hành động như người lớn, Tứ đã hiếp dâm một bé gái nhà hàng xóm mới chỉ
lên 2. Với những trường hợp đó, việc quy định và áp dụng các biện pháp cưỡng chế không thể
như với người thành niên, do vậy có thể hành vi của họ đã có dấu hiệu của một tội phạm
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì căn cứ vào độ tuổi, vào các yếu tố nhân thân,
8
người chưa thành niên cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ phải chịu trách nhiệm
hành chính, cụ thể Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định: "Người từ đủ 12 tuổi
đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự" là một trong những đối tượng bị áp dụng biện
pháp xử lí hành chính khác là đưa vào trường giáo dưỡng (điểm a khoản 2 Điều 24) hoặc chỉ áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với "Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi
thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình
sự" (điểm a khoản 2 Điều 23) mà không truy cứu trách nhiệm hình sự với đối tượng này.
- Người chưa thành niên luôn cần được giúp đỡ về mọi mặt, ngay cả khi họ vi phạm
pháp luật. Đôi khi họ cũng là người bị tổn thương do thực hiện chính những hành vi vi phạm
của mình, "người bán dâm có tính chất thường xuyên" là một ví dụ. Với lí do đó, Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính 2002 quy định biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh áp dụng với người
nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên và người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi.
Đặc biệt Pháp lệnh còn quy định cơ sở chữa bệnh phải tổ chức khu vực dành riêng cho người
dưới 18 tuổi, quy định đó là căn cứ vào đặc điểm riêng của người chưa thành niên là những
người cần chăm sóc đặc biệt hơn. Tại đây họ được lao động, được học văn hoá, học nghề và
chữa bệnh.
- Cũng do những đặc điểm riêng về tâm sinh lí, những hạn chế về nhận thức, Pháp lệnh
xử lí vi phạm hành chính quy định không áp dụng một số biện pháp cưỡng chế đối với người
chưa thành niên; khoản 2 Điều 25: "…Không đưa vào cơ sở giáo dục người chưa đủ 18
tuổi…", khoản 2 Điều 27: "Không áp dụng quản chế hành chính đối với người dưới 18 tuổi"
(hiện nay, theo Pháp lệnh sửa đổi một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, biện
pháp quản chế hành chính đã bị bãi bỏ).
Qua phân tích trên có thể thấy những đặc điểm về tâm sinh lí của người chưa thành niên
có ảnh hưởng rất quan trọng đến quy định pháp luật nói chung và pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính nói riêng. Hiện tại và lâu dài, chúng ta cần phải dựa vào những đặc điểm này để xây
dựng và ngày càng hoàn thiện quy định của pháp luật, đảm bảo được mục đích của pháp luật là
phòng ngừa, ngăn chặn, giáo dục những người có hành vi vi phạm đồng thời bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên.
9
Chương II
Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử lý
hành chính đối với người chưa thành niên
1. Quá trình hình thành các quy định pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đối với
người chưa thành niên
Trải qua 40 năm kể từ khi những quy định đầu tiên về xử lý vi phạm hành chính ra đời,
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã và đang được xây dựng ngày càng hoàn thiện hơn về
mặt nội dung cũng như hình thức pháp lý. Tuy nhiên những quy định về xử lý vi phạm hành
chính đối với người chưa thành niên chỉ thực sự ra đời vào năm 1977 với Điều lệ xử phạt vi
cảnh được ban hành kèm theo NĐ 143/CP ngày 27/05/1977.
Trước đó, ngày 18/02/1967 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 217 TTg/NC về tổ
chức lại các trường giáo dục thiếu niên hư, trường phổ thông công nghiệp là tiền thân của
trường giáo dưỡng ngày nay. Đối tượng của quyết định này là những người chưa thành niên có
hành vi nguy hại cho xã hội và lưu manh chuyên nghiệp. Tuy nhiên đây lại là những đối tượng
phạm pháp hình sự.
Điều lệ xử phạt vi cảnh là văn bản đầu tiên quy định có hệ thống về xử phạt vi phạm
hành chính. Trong đó, Điều 6 quy định: "Đối với người dưới 14 tuổi thì giáo dục rồi báo cho
cha mẹ hay người có trách nhiệm nuôi dạy biết, yêu cầu họ phải thi hành trách nhiệm quản lý
giáo dục con em họ. Đối với người từ đủ 14 đến 16 tuổi thì nặng nhất là phạt tiền, đối với
người từ đủ 16 đến 17 tuổi không có tài sản riêng, cha mẹ hay người có trách nhiệm nuôi
dưỡng phải nộp thay".
Như vậy đối tượng bị phạt vi cảnh là người từ đủ 14 tuổi trở lên, cụ thể là: từ đủ 14 đến
16 tuổi thì có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền; từ đủ 16 đến 17 tuổi có thể bị phạt cảnh cáo,
phạt tiền hoặc phạt lao động công ích, phạt giam như với người lớn. Cần phải chú ý rằng, Điều
lệ xử phạt vi cảnh chỉ quy định về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Với một phạm vi điều chỉnh không rộng như vậy thì
những quy định đối với người chưa thành niên chưa nhiều và chưa cụ thể.
Sau một thời gian khá dài, ngày 30/11/1989, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực từ ngày 1/1/1990
đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chế định pháp luật
về trách nhiệm hành chính. Lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật Việt Nam, việc quy định những
vấn đề cơ bản mang tính nguyên tắc về xử phạt vi phạm hành chính được thể hiện tập trung
trong một văn bản, làm cơ sở để xây dựng những văn bản quy định cụ thể hành vi vi phạm
hành chính, hình thức và mức xử phạt trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Đặc biệt những quy
10
định đối với người chưa thành niên cũng được kế thừa và phát huy. Điều 29 của Pháp lệnh quy
định về xử phạt đối với người chưa thành niên như sau:
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi
vi phạm hành chính do mình gây ra. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị
phạt đối với những vi phạm hành chính thực hiện do cố ý; hình thức và mức
phạt đối với họ là cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 10.000 đồng. Đối với người dưới
14 tuổi thì không xử phạt mà áp dụng biện pháp giáo dục. Trong trường hợp
người chưa thành niên không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ
phải nộp phạt thay. Quyết định xử phạt với người chưa thành niên khi chưa đủ
16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm.
Sau hơn năm năm thực hiện, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội,
Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính không còn phù hợp với thực tiễn áp dụng. Do đó, ngày
06/07/1995 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thay
thế cho Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực từ ngày 01/08/1995. Ngoài việc quy
định về các biện pháp xử phạt, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 còn quy định về
việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Đây là điểm mới hoàn toàn so với những
quy định trước. Để thi hành pháp lệnh này Chính phủ đã ban hành 45 nghị định quy định cụ thể
về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước và 5 nghị định ban
hành các quy chế quy định chi tiết trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
khác. Ngoài ra còn một khối lượng lớn những thông tư, chỉ thị hướng dẫn thi hành những quy
định của Pháp lệnh nhưng nhìn chung các quy định cụ thể về biện pháp xử lý vi phạm hành
chính với người chưa thành niên không nhiều. Điều 5 Pháp lệnh quy định về đối tượng bị xử lý
vi phạm hành chính, mà người chưa thành niên là một trong những đối tượng đó: "Người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý, người
từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây
ra (điểm a khoản 1). Quy định này được kế thừa từ Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm
1989. Điều 6 quy định riêng về xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính, trong đó mức
phạt tiền đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã được nâng lên mức
cao hơn từ 10.000 đồng thành 50.000 đồng, mức phạt tiền đối với người chưa thành niên từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi quy định là thấp hơn so với mức phạt đối với người thành niên mặc dù
không quy định là thấp hơn bao nhiêu. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 còn quy
định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên do hành vi vi phạm hành
chính gây ra: "Người chưa thành niên khi vi phạm hành chính gây thiệt hại vật chất thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật" (khoản 2 Điều 6). Cha mẹ và người giám hộ vẫn phải có
trách nhiệm nộp phạt thay khi người chưa thành niên không có tiền nộp phạt. Việc quy định
11
thêm những biện pháp xử lý hành chính khác bên cạnh các biện pháp xử phạt hành chính như
trong Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 đã đạt được những kết quả đáng kể
trong việc ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm hành chính, đặc biệt là vi phạm hành chính do người
chưa thành niên gây ra. Có năm biện pháp xử lý hành chính khác nhưng chỉ có hai biện pháp
được áp dụng đối với người chưa thành niên là giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào
trường giáo dưỡng. Còn các biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh và
quản chế hành chính không được áp dụng đối với người chưa thành niên.
Tiếp tục kế thừa và hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính,
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ra đời thay thế cho Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 1995 được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 02/07/2002, bắt đầu có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2002. Pháp lệnh mới ra đời có ý nghĩa cả về thực tiễn và lý
luận, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tế áp dụng Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính 1995, ngày càng nâng cao, phát huy hiệu quả xử lý vi phạm, có tác dụng giáo
dục ý thức pháp luật đối với những người có hành vi vi phạm hành chính và cả những người
không có hành vi vi phạm hành chính. Nhìn chung, những quy định đối với người chưa thành
niên có nhiều điểm mới để phù hợp hơn với đối tượng này, như quy định không áp dụng hình
thức phạt tiền với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính,
đối tượng này chỉ bị phạt cảnh cáo. Với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi,
thì mức phạt tiền đối với họ được quy định cụ thể hơn là "không quá một phần hai mức phạt
đối với người thành niên". Về các biện pháp xử lý hành chính khác, Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính vẫn quy định có năm biện pháp xử lý hành chính khác, trong đó có ba biện pháp
được áp dụng với người chưa thành niên, gồm: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào
trường giáo dưỡng và đưa vào cơ sở chữa bệnh thay vì chỉ có hai biện pháp được áp dụng với
người chưa thành niên như ở Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 (giáo dục tại xã,
phường, thị trấn và đưa vào trường giáo dưỡng). Đặc biệt biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn được quy định cụ thể tại Điều 23 với bốn nhóm đối tượng, không quy định chung
chung như Điều 21 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 là: "Người nhiều lần có
hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh;
người nghiện ma tuý, người mại dâm nhưng chưa đến mức đưa vào cơ sở chữa bệnh thì áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn…". Ngoài ra còn có những quy định mới khác
như hạ độ tuổi đưa vào cơ sở chữa bệnh với người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 18
tuổi xuống còn từ đủ 16 tuổi, bổ sung các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo
việc xử lý vi phạm hành chính trong đó có quy định áp dụng đối với người chưa thành niên.
12
Sau đây là những quy định cụ thể của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và
những văn bản pháp luật có liên quan về biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người
chưa thành niên.
2. Các Biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên theo pháp luật
hiện hành
Biện pháp xử lý vi phạm hành chính với người chưa thành niên theo pháp luật hiện
hành được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và các văn bản hướng
dẫn có liên quan.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 là kết quả của một quá trình lâu dài
không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật, với mục đích "để đấu tranh phòng ngừa
và chống vi phạm hành chính, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước". Pháp lệnh gồm có 10 chương với 124 điều,
trong đó ngoài những quy định chung áp dụng cho cả người chưa thành niên, còn có các quy
định riêng áp dụng với đối tượng này như Điều 7- Xử lý người chưa thành niên vi phạm hành
chính, Điều 24 - Đưa vào trường giáo dưỡng. Từ khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 ra đời đã có rất nhiều các nghị định hướng dẫn chi tiết việc thực hiện những quy định của
Pháp lệnh, trong đó có các nghị định như Nghị định số 134/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ban hành ngày 14/11/2003; Nghị
định số 142/2003/NĐ-CP quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường
giáo dưỡng ban hành ngày 24/11/2003; Nghị định số 163/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ban hành ngày 19/12/2003; Nghị định số
135/2004/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt
động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với
người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh ban hành ngày 10/06/2004…
Khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh quy định: "Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi
phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác". Tuy nhiên không phải mọi biện
pháp xử lý vi phạm hành chính đều được áp dụng với người chưa thành niên.
2.1. Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên là hoạt động của các chủ thể
có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính,
quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Người chưa thành niên khi vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một trong những hình
thức xử phạt chính là phạt cảnh cáo và phạt tiền.
13
2.1.1. Phạt cảnh cáo
Điều 13 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định: "Cảnh cáo được áp
dụng với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối
với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản".
Theo quy định trên thì đối tượng người chưa thành niên bị áp dụng hình thức phạt cảnh
cáo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Đối với người chưa thành niên từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, Điều 6 của Pháp lệnh quy định: "Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi bị xử phạt bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý". Như vậy, những người ở
độ tuổi này bị phạt cảnh cáo khi thoả mãn các điều kiện: thứ nhất, thực hiện hành vi vi phạm
hành chính được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; thứ hai, thực hiện hành
vi đó do lỗi cố ý. Đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị phạt cảnh cáo
nếu "vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ" (Điều 13), tuy nhiên việc xác định
như thế nào là "vi phạm hành chính nhỏ" thì lại không có căn cứ, tiêu chí rõ ràng, còn các tình
tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 8 của Pháp lệnh. Theo đó người chưa thành niên dưới 14
tuổi không bị áp dụng hình thức phạt cảnh cáo trong mọi trường hợp.
Thẩm quyền xử phạt cảnh cáo được quy định tại chương IV của pháp lệnh tuỳ thuộc vào
mức độ vi phạm và lĩnh vực quản lý của các chủ thể có thẩm quyền.
Thủ tục áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo là thủ tục đơn giản (chỉ ra quyết định xử
phạt, không lập biên bản).
2.1.2. Phạt tiền
Hình thức phạt tiền được quy định tại Điều 14 Pháp lệnh, với mức phạt tiền là từ 5.000
đồng đến 500.000.000 đồng, dựa vào tính chất, mức độ vi phạm, mức phạt tiền tối đa trong các
lĩnh vực quản lý nhà nước.
Đối tượng người chưa thành niên bị áp dụng hình thức xử phạt này là người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính mà không thuộc những trường hợp bị xử phạt cảnh
cáo. Mức tiền phạt cao nhất áp dụng với đối tượng này là 250.000.000 đồng do "Khi phạt tiền
đối với họ thì mức tiền phạt không được quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên".
Pháp lệnh quy định không áp dụng hình thức phạt tiền đối với người chưa thành niên dưới 16
tuổi. Đây là điểm mới của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 so với Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính năm 1995. Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi được coi là đã có khả
năng nhận thức đầy đủ hơn về hành vi của mình, khi vi phạm hành chính do họ gây ra không
phải là những "vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ", có nghĩa là họ đã nhiều
lần vi phạm, hoặc những vi phạm này gây ra hậu quả lớn mà không có tình tiết giảm nhẹ, thì
việc phạt cảnh cáo chỉ mang tính chất răn đe không thể phát huy được hiệu quả trong việc ngăn
14
chặn, phòng ngừa vi phạm hành chính, do đó họ phải bị áp dụng hình thức xử phạt cao hơn là
phạt tiền. "Nếu người chưa thành niên không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ
phải nộp thay", việc quy định như vậy buộc cha mẹ hoặc người giám hộ phải có trách nhiệm
nhiều hơn với người chưa thành niên là con hoặc là người được mình giám hộ.
Thẩm quyền ra quyết định áp dụng hình thức xử phạt tiền được quy định tại chương IV
của Pháp lệnh.
Thủ tục áp dụng hình thức xử phạt tiền là thủ tục đơn giản (trong trường hợp phạt tiền
từ 5.000 đồng đến 100.000 đồng), và thủ tục xử phạt có lập biên bản (trong trường hợp phạt
tiền từ trên 100.000 đồng trở lên).
2.1.3. Các hình thức xử phạt bổ sung
Ngoài hai hình thức xử phạt chính trên thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm người
chưa thành niên còn có thể bị áp dụng một trong những hình thức xử phạt bổ sung: "tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề" hoặc "tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để
vi phạm hành chính". Đây là những hình thức xử phạt bổ sung, vì vậy chúng không được áp
dụng một cách độc lập mà luôn được áp dụng kèm theo với hình thức xử phạt chính. Cụ thể:
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề quy định tại Điều 16: "Tước
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc không có thời hạn được áp
dụng đốí với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề…".
Người chưa thành niên có thể là đối tượng bị áp dụng hình thức xử phạt này. Theo quy
định tại Điều 22, Bộ luật Lao động 2002: "Người học nghề ở cơ sở dạy nghề ít nhất phải được
13 tuổi, trừ một số nghề do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định và phải có đủ sức
khoẻ phù hợp với yêu cầu của nghề theo học". Sau khi học nghề họ có thể được cấp chứng chỉ
nghề. Cần phân biệt chứng chỉ nghề này với giấy phép, chứng chỉ hành nghề quy định tại Điều
16 Pháp lệnh vì theo quy định hướng dẫn áp dụng tại Điều 11 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP,
trong đó chỉ rõ: "Giấy phép, chứng chỉ hành nghề là các loại giấy tờ do cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền cấp cho các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật để cho phép tổ
chức, cá nhân đó kinh doanh, hoạt động hành nghề trong một lĩnh vực nhất định hoặc sử dụng
một loại công cụ, phương tiện nhất định". Vậy người chưa thành niên có giấy phép, chứng chỉ
hành nghề nếu "vi phạm nghiêm trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề" có
thể bị tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề, người chưa thành niên không được tiến hành các hoạt động ghi trong
15
giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên trong thực tế, biện pháp này rất ít bị áp dụng với
đối tượng người chưa thành niên.
Khi tiến hành tước quyền sử dụng giấy giấy phép, chứng chỉ hành nghề của người chưa
thành niên, các chủ thể có thẩm quyền phải tuân theo trình tự thủ tục quy định tại Điều 59 của
Pháp lệnh.
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính quy định tại Điều
17 Pháp lệnh: "Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là việc
sung vào quỹ nhà nước vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm
hành chính".
Khi áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm
hành chính đối với người chưa thành niên cần phân biệt: những tang vật, phương tiện thuộc sở
hữu của người chưa thành niên hoặc không thuộc sở hữu của người chưa thành niên nhưng việc
họ có được phương tiện, tang vật đó là do lỗi của chủ sở hữu thì bị tịch thu, sung vào công quỹ
nhà nước; những tang vật, phương tiện không thuộc sở hữu của người chưa thành niên, có được
do chiếm đoạt, sử dụng trái phép thì phải trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý, người sử
dụng hợp pháp; "…trường hợp tang vật là văn hoá phẩm độc hại, hàng giả không có giá trị sử
dụng, vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi cây trồng thì bị xử lý theo quy định
của khoản 2 Điều 61 của Pháp lệnh" (khoản 2 Điều 12 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP).
Thẩm quyền, thủ tục áp dụng hình thức xử phạt này được pháp luật quy định cụ thể.
2.2. Các biện pháp xử lý hành chính khác
Theo quy định của pháp luật hiện hành có bốn biện pháp xử lý hành chính khác, gồm:
giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục và đưa
vào cơ sở chữa bệnh (biện pháp quản chế hành chính đã bị bãi bỏ theo quy định của Pháp lệnh
số 31/2007/PL-UBTVQH 11 ngày 08/03/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính).
Trong số bốn biện pháp trên thì có tới ba biện pháp cũng được quy định áp dụng với
người chưa thành niên là giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng và đưa
vào cơ sở chữa bệnh.
2.2.1. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn được quy định tại Điều 23, một số điều khác trong
Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định số 163/2003/NĐ-CP ngày
19/12/2003; Thông tư số 22/2004/TT-BCA của Bộ công an; Quyết định số 1522/2005/QĐ-
BCA ngày 27/10/2005…
Đối tượng người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp này gồm:
16