Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.02 KB, 53 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu
Trong những năm qua, tình hình ngời cha thành niên vi phạm pháp luật
ngày càng gia tăng đòi hỏi cần có một cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, để vừa bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngời cha thành niên, vừa nhằm mục đích phòng
ngừa, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả chống lại những hành vi vi phạm pháp
luật do ngời cha thành niên thực hiện. Tuy nhiên cho đến nay, các quy định riêng,
cụ thể về xử lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên cũng nh các công
trình nghiên cứu về vấn đề này không nhiều. Do đó em chọn đề tài "Biện pháp xử
lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên" với mong muốn góp phần
hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định đó
trong thực tiễn. Đối tợng nghiên cứu của đề tài là ngời cha thành niên bị áp dụng
các biện pháp xử lý vi phạm hành chính và các quy định về xử lý vi phạm hành
chính đối với họ. Trong phạm vi và giới hạn cho phép, đề tài tập trung nghiên cứu
những vấn đề sau:
Chơng I: Khái niệm ngời cha thành niên, đặc điểm ngời cha thành niên và
ảnh hởng của những đặc điểm đó đến việc quy định các biện pháp xử lý vi phạm
hành chính đối với ngời cha thành niên.
Chơng II: Thực trạng pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm hành chính
đối với ngời cha thành niên.
Chơng III: Thực tiễn áp dụng, phơng hớng, giải pháp hoàn thiện các quy
định pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành
niên.
Đề tài có ý nghĩa là những nghiên cứu cơ bản, bớc đầu, xuất phát từ thực
trạng quy định và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính đối với ngời cha thành niên. Trên cơ sở đó, đề xuất phơng hớng và giải pháp
cụ thể để hoàn thiện các quy định pháp luật cũng nh nâng cao hiệu quả của công
tác áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên.
Chơng I
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi và tác động của những
đặc điểm đó đến việc quy định các biện pháp xử lý
vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên
1. Khái niệm và đặc điểm ngời cha thành niên
1.1. Khái niệm
"Ngời cha thành niên" không phải là một khái niệm mới, nó đợc sử dụng
phổ biến, đặc biệt là trong các văn bản pháp luật. Bên cạnh khái niệm này chúng
ta còn bắt gặp các khái niệm "vị thành niên", "trẻ em".Vậy các khái niệm này có
gì giống và khác nhau? Những ngời ở độ tuổi nào thì đợc coi là ngời cha thành
niên?
Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học, năm 2004) thì "thành niên" là
đến tuổi đợc pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ;
"vị thành niên" là cha đến tuổi đợc pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ.
Từ điển Luật học (NXB Bách khoa, Hà Nội 1999) không đa ra khái niệm
"thành niên" trớc mà chỉ đa ra khái niệm "vị thành niên" (với chú giải là: cha
thành niên) là ngời cha đến tuổi đợc pháp luật coi là có đủ khả năng để sử dụng
quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm. Theo đó ngời cha đủ 18 tuổi là "vị thành
niên".
Trong tiếng Hán "vị" đợc hiểu là "cha tới". Nh vậy khái niệm "cha thành
niên" cũng chính là khái niệm "vị thành niên". Với định nghĩa thứ nhất thì việc đ-
ợc pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ ở đây chỉ
mang nghĩa tơng đối (đầy đủ một cách tơng đối). Cá nhân khi đạt đến một độ tuổi
nhất định sẽ đợc coi là ngời thành niên và ngợc lại đợc coi là ngời cha thành niên,
tuy nhiên là ngời thành niên không có nghĩa là đợc hởng tất cả mọi quyền và phải
thực hiện mọi nghĩa vụ. Ví dụ, Điều 54 Hiến pháp năm 1992 quy định công dân
Việt Nam đủ 21 tuổi có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc
Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định công dân Việt Nam từ đủ 21 tuổi
có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, một ngời vừa đủ 20 tuổi tuy là ngời đã thành
2

Website: Email : Tel : 0918.775.368
niên nhng không thể đòi hỏi các quyền ứng cử trên, nhng cũng không vì thế mà
coi họ là ngời cha thành niên. Định nghĩa này không xác định độ tuổi cụ thể.
Từ điển Luật học đa ra định nghĩa cụ thể hơn, theo đó "ngời cha thành niên"
là ngời dới 18 tuổi, tuy nhiên theo định nghĩa này thì khi cha thành niên sẽ không
đợc pháp luật coi là có đủ khả năng để sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách
nhiệm. Nhng mỗi ngành luật lại có những quy định khác nhau căn cứ vào đặc
điểm tâm sinh lý của ngời cha thành niên, ý thức của họ khi tham gia vào các quan
hệ xã hội bị điều chỉnh bởi những quy phạm của ngành luật đó. Ví dụ, Điều 68 Bộ
luật Hình sự năm 1999 quy định: "Ngời cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 18
tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự", tuy cha đủ 18 tuổi (cha coi là
thành niên) họ vẫn bị pháp luật quy định là phải chịu trách nhiệm hình sự; Điều 18
Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Ngời từ đủ 18 tuổi trở lên là ngời thành niên.
Ngời cha đủ 18 tuổi là ngời cha thành niên". Cũng theo quy định của Bộ luật ng-
ời cha thành niên vẫn đợc tham gia vào các quan hệ dân sự, mà khi đó họ phải đợc
pháp luật công nhận là có khả năng "sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách
nhiệm"; Điều 119 Bộ luật Lao động 2002 quy định: "ngời lao động cha thành
niên là ngời lao động dới 18 tuổi", theo đó Bộ luật cũng quy định các quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm của ngời lao động cha thành niên. Nh vậy định nghĩa này
là cha chính xác.
Bên cạnh đó, còn có khái niệm "trẻ em". Theo Công ớc về quyền trẻ em
1989: "Trẻ em là mọi ngời dới 18 tuổi, trừ trờng hợp pháp luật áp dụng với trẻ
em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn". Tại Điều 11 Quy tắc tối thiểu phổ
biến của Liên hợp quốc về bảo vệ ngời cha thành niên bị tớc quyền tự do năm
1990 đã quy định: "Những ngời cha thành niên là ngời dới 18 tuổi". Có thể thấy
qua hai văn bản pháp lý quốc tế trên, khái niệm "trẻ em" và khái niệm "ngời cha
thành niên" đều để chỉ ngời dới 18 tuổi.
Lại có ý kiến cho rằng, theo pháp luật Việt Nam thì khái niệm "trẻ em" và
khái niệm "ngời cha thành niên" có sự khác nhau với dẫn chứng Bộ luật Dân sự
Việt Nam năm 2005 quy định: "Ngời cha đủ 18 tuổi là ngời cha thành niên", còn

Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: "Trẻ em đợc quy định trong
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Luật này là công dân Việt Nam dới 16 tuổi" (Điều 1). Theo đó, khoảng cách giữa
"trẻ em" và "ngời cha thành niên" là khoảng cách 2 năm.
Về độ tuổi của ngời cha thành niên, có rất nhiều ý kiến khác nhau nh: ngời
cha thành niên là ngời ở độ tuổi 14 đến 17 tuổi (Spranger); từ 11 đến 15 tuổi
(Bromlei); từ 12 đến 15 tuổi (J. Piagie) hay có sự phân biệt giữa nam và nữ nh:
nam là từ 14 đến 16 tuổi, nữ là 11 đến 13 (Buhler); nam 12 đến 17 tuổi, nữ là 12
đến 15 tuổi (Grimn) [6, tr.60].
Có thể thấy rằng, việc xác định độ tuổi ngời cha thành niên là rất khó,
không thể đồng nhất hai khái niệm "ngời cha thành niên" và "trẻ em", cũng không
nên xem khái niệm nào có nội hàm rộng hay hẹp hơn. Nhìn chung các ý kiến đều
thống nhất cho rằng giới hạn độ tuổi cao nhất của ngời cha thành niên là dới 18
tuổi. Chúng tôi cho rằng không nhất thiết phải có một khái niệm cụ thể về ngời ch-
a thành niên, chỉ cần xác định ngời cha thành niên bao gồm những ngời ở lứa tuổi
nào? hợp lý nhất đó là những ngời ở độ tuổi từ đủ 12 đến dới 18 tuổi, bởi đây là
giai đoạn mà theo tâm lý học thì tâm sinh lí của ngời cha thành niên đợc thể hiện
rõ nhất. Mặt khác, khi nghiên cứu về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối
với ngời cha thành niên, theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, Điều 7
quy định về Xử lý ngời cha thành niên vi phạm hành chính thì: "ngời từ đủ 14 đến
dới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo", "ngời từ đủ 16 tuổi đến d-
ới 18 tuổi vi phạm hành chính thì bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành
chính quy định tại Điều 12", và ngời cha thành niên từ đủ 12 tuổi có thể bị áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính
cũng không có một điều nào quy định cụ thể ngời cha thành niên là ngời ở độ tuổi
nào nhng có thể thấy đối tợng ngời cha thành niên bị áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính là những ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 18 tuổi.
Nh vậy, có thể kết luận ngời cha thành niên là ngời từ đủ 12 tuổi đến dới
18 tuổi.

1.2. Đặc điểm
Dới góc độ tâm lí học, con ngời phải trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau, mà mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm tâm sinh lí riêng, đặc trng
cùng với tác động bên ngoài làm hình thành những những hành vi ứng xử khác
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhau. Giai đoạn cha thành niên là giai đoạn có vị trí đặc biệt quan trọng trong cả
quá trình phát triển và hoàn thiện ấy. Nghiên cứu ngời cha thành niên qua các đặc
điểm về tâm lí, sinh lí sẽ giúp chúng ta lí giải đợc cơ sở khoa học của những quy
định pháp luật nói chung và của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính nói riêng đối
với đối tợng này. Sau đây là một vài đặc điểm đặc trng về tâm sinh lí của ngời cha
thành niên.
Ngời cha thành niên gồm những ngời ở độ tuổi từ đủ 12 đến dới 18 tuổi.
Cần phải nói rằng, tuổi chỉ có ý nghĩa là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển
của con ngời. Với ngời cha thành niên, họ cần có thời gian chuẩn bị về mọi mặt để
chuyển sang một giai đoạn mới: giai đoạn trởng thành (để lớn lên về cơ thể, mở
rộng quan hệ xã hội, tích luỹ tri thức, phơng thức hoạt động ). Tuổi không quy
định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển
tâm lí của con ngời, tuổi cũng có thể đi chậm hơn hoặc đi nhanh hơn là còn phụ
thuộc vào điều kiện hoàn cảnh xung quanh. Tuy nhiên ngời cha thành niên sống
trong hoàn cảnh nào cũng có những đặc điểm chung, đặc trng cho lứa tuổi. Đó là
đặc điểm của một giai đoạn mà cách gọi thôi cũng cho thấy tính phức tạp và tầm
quan trọng của nó: "thời kì quá độ" (cha phải là ngời lớn cũng không còn là trẻ
con), "tuổi khủng hoảng" (cả về sinh lí lẫn tâm lí), "tuổi khó bảo" (các em ở độ
tuổi này trở nên bớng bỉnh và khó bảo), "tuổi bất trị"
1.2.1. Đặc điểm sinh lí
Thời kì này, cơ thể phát triển mạnh mẽ nhng không đồng đều, biểu hiện bên
ngoài là các em lớn lên trông thấy. Tuỳ thuộc vào độ tuổi, ngay trong cùng giai
đoạn mà sự phát triển giữa nam và nữ là khác nhau, nh cùng trong giai đoạn cha
thành niên nhng ở độ tuổi 12-13, các em nữ phát triển hơn các em nam về hình

dáng thì ở độ tuổi 14-15, cơ thể các em nam lại phát triển hơn. Tuy nhiên ở cả
nam và nữ đều có những đặc điểm chung của lứa tuổi.
Sự phát triển của hệ xơng mà chủ yếu là sự phát triển của xơng tay, xơng
chân rất nhanh nhng xơng ngón tay, ngón chân lại phát triển chậm. Do đó, cơ thể
phát triển không cân đối khiến các em trở nên lóng ngóng, vụng về và hay làm đổ
vỡ
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự phát triển của hệ thống tim mạch không cân đối khiến các em dễ rơi vào
tình trạng rối loạn tạm thời với những biểu hiện nh: mệt mỏi, chóng mặt, nhức
đầu. Những biểu hiện này diễn ra không lâu nhng lại thờng xuyên, làm ảnh hởng
không nhỏ đến đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng nh tâm lý của ngời cha thành
niên.
Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh thờng dẫn đến sự rối loạn của hoạt
động thần kinh làm cho các em dễ xúc động, hay bực tức hay nổi nóng, do đó các
em hay có những phản ứng mạnh mẽ và gay gắt về những ngời xung quanh, về
những việc mà các em cảm thấy không hài lòng.
Hệ thần kinh cha có khả năng chịu đợc những kích thích mạnh và kéo dài,
dẫn đến cảm giác ức chế, uể oải, thờ ơ, lãnh đạm, tản mạn khiến các em đôi khi c
xử không đúng với bản chất của mình, nghiêm trọng hơn là có những hành vi vi
phạm đạo đức xã hội và đặc biệt là vi phạm pháp luật.
Một đặc điểm sinh lí đặc trng nữa của ngời cha thành niên đó là sự phát
dục, đây là dấu hiệu cho thấy rõ ràng nhất sự lớn lên của các em. Điều này làm
xuất hiện ở các em nhiều biểu hiện mới nh nhu cầu giao tiếp với bạn bè, đặc biệt
là với bạn bè khác giới. Các em trởng thành hơn về mặt cơ thể, nhng nhận thức vẫn
còn hạn chế.
Chính những đặc điểm về sinh lí ảnh hởng đến những đặc điểm về tâm lí, từ
đó quyết định đến hành vi của ngời cha thành niên.
1.2.2. Đặc điểm tâm lí
Song song với sự phát triển về sinh lí, ở ngời cha thành niên đã bắt đầu hình

thành sự "tự ý thức" với các câu hỏi: mình nh thế nào? mình đang làm gì? có
những ai quan tâm đến mình? Quá trình này diễn ra dần dần, cùng với diễn biến
tâm lí phức tạp, dễ xúc động, dễ bị kích động, chợt vui, chợt buồn, tình cảm bồng
bột, hăng say, hoạt động thần kinh không cân bằng, quá trình hng phấn mạnh hơn
quá trình ức chế, do đó khiến các em không thể tự kiềm chế nổi bản thân khi gặp
tình huống bất ngờ. Điều này sẽ dẫn đến những lỗi không đáng mắc phải, kể cả
việc vi phạm pháp luật.
Do có thể tự ý thức về bản thân, các em cũng có thể nhận thấy sự thay đổi
về sinh lí của mình và đôi khi các em có thái độ, tâm lí khó chịu với chính những
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thay đổi đó. Các em biết những việc nào thì đợc phép làm, những việc nào không
nhng vẫn làm theo cách của mình với những lý do rất riêng. Do đó, khi mắc lỗi,
thay vì nhìn nhận thẳng vào vấn đề để sửa chữa khắc phục thì các em lại cố che
dấu, thể hiện ra cử chỉ điệu bộ ở bên ngoài không tự nhiên, tỏ ra mạnh dạn, can
đảm để ngời khác không chú ý đến mình; hay chỉ vì một hành động chế giễu, mỉa
mai về hình thể dáng vẻ đi lại bên ngoài cũng gây cho các em những phản ứng
mạnh mẽ
Các em luôn muốn bộc lộ cá tính, tự khẳng định mình, muốn nhanh chóng
đợc trở thành ngời lớn và cố gắng để đợc đối xử nh ngời lớn, do đó hay phóng đại
năng lực bản thân mình nh ng thực chất kết thúc giai đoạn cha thành niên các em
mới chỉ phát triển khá hoàn thiện về mặt sinh lí, còn quá trình nhận thức vẫn cha
đầy đủ. Nhận thức về xã hội, đạo đức, pháp luật còn hạn chế, đặc biệt là nhận
thức về pháp luật. Đôi khi những nhận thức quan điểm về pháp luật không đợc
hình thành hoặc có nhng bị lệch lạc theo cách hiểu chủ quan của các em.
Mặc dù sống độc lập hơn và muốn tỏ ra mình là ngời lớn nhng các em ở độ
tuổi này vẫn cần có sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ, bởi những khó khăn, rắc
rối về mặt tâm lí, sinh lí là không tránh khỏi. Cha mẹ phải là ngời hiểu rõ điều đó
để quan tâm cho đúng mức, sao cho các em vẫn có thể phát huy đợc tính độc lập
của mình nhng không thể tách rời sự quản lý chặt chẽ cần thiết của cha mẹ.

Khi trở thành đối tợng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính thì những
đặc điểm tâm sinh lí trên phải đợc xem xét để pháp luật có những quy định phù
hợp, đảm bảo việc bảo vệ hiệu quả nhất những quyền lợi của đối tợng "đặc biệt"
này.
1.2. ảnh hởng của những đặc điểm của ngời cha thành niên đối với việc quy
định các biện pháp xử lý vi phạm hành chính
Pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói
riêng có những quy định rất đặc thù với đối tợng là ngời cha thành niên vi phạm
pháp luật.
Tiêu biểu phải kể đến Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, là một đạo
luật chỉ quy định những vấn đề liên quan đến trẻ em, trong đó có cả ngời cha
thành niên, gồm những quy định chung, những quy định về quyền và nghĩa vụ của
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trẻ em cũng nh của những đối tợng liên quan đảm bảo mang lại cho trẻ em những
điều tốt đẹp nhất: "Các quyền của trẻ em phải đợc tôn trọng và thực hiện" (khoản
1 Điều 6); "Gia đình, Nhà nớc và xã hội có trách nhiệm bảo vê tính mạng, thân
thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em; thực hiện các biện pháp phòng ngừa tai
nạn cho trẻ em" (khoản 1 Điều 26)
Trong Bộ luật hình sự 1999, chơng X là chơng quy định riêng với ngời cha
thành niên, gồm các quy định về nguyên tắc xử lý đối với ngời cha thành niên
phạm tội: "Việc truy cứu trách nhiệm hình sự ngời cha thành niên phạm tội và
áp dụng các hình phạt đối với họ đợc thực hiện chỉ trong trờng hợp cần thiết và
phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân
thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm" (khoản 2 Điều 69), hoặc "không
xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với ngời cha thành niên phạm tội" (khoản
5 Điều 69); hay quy định về hình phạt tiền: "mức phạt tiền đối với ngời cha thành
niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định"
Trong Bộ luật Lao động, khi quy định về thời giờ làm việc của ngời lao
động cha thành niên thì "Thời giờ làm việc của ngời lao động cha thành niên

không đợc quá bảy giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần" (khoản 1 Điều 122),
trong khi đối với ngời lao động đã thành niên thời gian đó là "không quá 8 giờ
trong một ngày hoặc 48 giờ trong một tuần" (khoản 1 Điều 68), quy định nh vậy
để đảm bảo tránh ảnh hởng xấu đến sự phát triển về thể lực và trí lực của ngời cha
thành niên, tránh tình trạng ngời cha thành niên bị lạm dụng sức lao động.
Bộ luật dân sự 2005 quy định: "Ngời từ đủ sáu tuổi đến cha đủ mời tám
tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải đợc ngời đại diện theo pháp
luật đồng ý" (khoản 1 Điều 20)
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng có những quy định riêng đối với
ngời cha thành niên vi phạm hành chính, không phải bất kì ngời cha thành niên
nào cũng bị áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, họ chỉ có thể bị áp
dụng các biện pháp đó khi thoả mãn một số điều kiện nhất định, gồm: thứ nhất,
phải đạt đến một độ tuổi nhất định; thứ hai, có khả năng nhận thức và có khả năng
điều khiển hành vi; thứ ba, họ phải thực hiện hành vi trái pháp luật mà theo quy
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
định bị áp dụng cỡng chế hành chính. Khi họ bị áp dụng các biện pháp cỡng chế
hành chính thì việc áp dụng cũng có những điểm khác biệt với việc áp dụng các
biện pháp cỡng chế này đối với ngời đã thành niên.
- Phần lớn ngời cha thành niên còn sống phụ thuộc vào gia đình, họ không
có tài sản riêng, quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính phải phù hợp với
những đặc điểm đó để đảm bảo tính khả thi khi áp dụng. Khoản 1 Điều 7 Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định ngời từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi vi
phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo, khác với trớc đây quy định là phạt tiền dến
50.000 đồng, ngời từ đủ 16 tuổi đến dới 18 tuổi vi phạm hành chính mà bị áp dụng
hình thức phạt tiền thì mức tiền phạt đối với họ không đợc quá một phần hai mức
phạt đối với ngời thành niên. Biện pháp xử phạt với ngời cha thành niên chỉ mang
tính chất răn đe, giáo dục là chính, ở độ tuổi đủ 14 đến dới 16, việc quy định hình
thức phạt tiền là không cần thiết, bởi những ngời cha thành niên không có khả
năng để chấp hành biện pháp xử phạt này, thờng thì cha mẹ họ là những ngời có

trách nhiệm nộp thay. Điều đó sẽ không có tác dụng nhiều đến nhận thức của họ,
bởi vốn có nhận thức cha đầy đủ và sâu sắc, họ đợc cha mẹ thực hiện thay sẽ
không thể hiểu đợc mục đích chính của việc áp dụng xử phạt vi phạm hành chính
đối với họ là răn đe, giáo dục. Còn ở độ tuổi từ đủ 16 đến dới 18, các em đã có thể
có nhận thức đầy đủ hơn, việc phạt cảnh cáo với các em đôi khi lại cha đủ, cần
phải áp dụng hình thức xử phạt cao hơn là phạt tiền.
- Chỉ riêng những đặc điểm tâm sinh lí cha đủ để dẫn đến những hành vi vi
phạm pháp luật, chính những yếu tố bên ngoài từ phía gia đình, bạn bè và xã hội
khi có tác động tiêu cực đến khả năng nhận thức của các em khiến các em thực
hiện những hành vi vi phạm pháp luật. Pháp luật cũng tính đến cả những yếu tố
này khi quy định biện pháp cỡng chế đối với ngời cha thành niên.
Trong mối quan hệ với gia đình mà cụ thể là mối quan hệ với cha mẹ, sự
hiểu biết của cha mẹ về những thay đổi tâm sinh lí của con cha thành niên có ý
nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, sự hiểu biết này mới chỉ dừng lại ở những thay
đổi bên ngoài, đợc thể hiện rõ nét trong một thời gian dài; còn những thay đổi tâm
sinh lí có tính chất bên trong thì cha mẹ ít quan tâm hơn. Do đó khi ý thức của ng-
ời cha thành niên bị lệch lạc dẫn đến vi phạm pháp luật, cha mẹ họ thờng cho rằng
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguyên nhân là do chính bản thân chúng gây ra, họ không hề phải chịu trách
nhiệm về điều đó, rất nhiều trong số đó bỏ mặc và không quan tâm đến đời sống
của con ở lứa tuổi này. Khi thiếu vắng tình cảm của cha mẹ, ngời cha thành niên
chỉ còn tìm thấy sự cân bằng, an ủi của những ngời thân khác trong gia đình, họ
hàng và bạn bè. Tuy nhiên điều đó không phải lúc nào cũng có thể mang lại cảm
giác thanh thản, yên ổn thật sự và có thể thay thế tình cảm giữa cha mẹ và con cái
trong gia đình. Khi đó, các em nhanh chóng tìm đến sự giải toả tâm lí bằng những
hành động thể hiện sự nông nổi, bồng bột của ngời cha thành niên. Có thể đa ra
một ví dụ về trờng hợp của Trơng Hữu Thân. Sinh năm 1992 tại Phong Điền (Thừa
Thiên Huế), Thân vốn là một cậu bé ngoan ngoãn sống hiếu thuận cùng gia đình.
Nhng sau đó bố mẹ Thân chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh kiếm sống. Không

còn sự quan tâm, chăm sóc của bố mẹ, Thân dần bê trễ học hành và bớc vào con đ-
ờng ham mê cờ bạc rồi trộm cắp vặt từ khi cha đầy 12 tuổi. Sau đó, lại đợc gửi đến
cho ông bà nội quản lí. Không dạy nổi cháu, mỗi lần đi đâu vắng ông nội lại đào
một cái hố rồi chôn đứng đứa cháu 12 tuổi xuống, khi về lại đào lên. Sự việc kéo dài
cho đến một đêm, thấy ông nội đã ngủ say và biết dới gối của ông có 275.000 đồng
Thân nghĩ đến chuyện lấy cắp, bị ông nội tỉnh dậy, phát hiện, tát mấy cái vào mặt,
Thân lẳng lặng bỏ đi ngủ nhng đến 3 giờ sáng Thân đã dùng búa bổ củi bổ nhiều nhát
vào mặt ông khiến ông chết ngay tại chỗ. Hành vi của Thân là do cố ý nhng ở độ tuổi
này Thân cha thể ý thức đợc sự cố ý của mình. Chính hoàn cảnh gia đình (bố mẹ mải
mê kiếm tiền, không quan tâm để ý; ông nội ngợc đãi) là nguyên nhân dẫn đến hành
vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của Thân. Có rất nhiều ngời cha thành niên chịu
tác động tiêu cực từ chính gia đình dới nhiều góc độ khác nhau. Do đó, hành vi của
Thân đã có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng (quy định tại Điều 93 Bộ luật
Hình sự) nhng căn cứ vào đặc điểm nhân thân, Thân không phải chịu trách nhiệm
hình sự, thay vào đó bị áp dụng một trong những biện pháp xử lý vi phạm hành
chính là đa vào trờng giáo dỡng.
Bạn bè và những tác động bên ngoài xã hội cũng là những yếu tố ảnh hởng
không nhỏ đến ngời cha thành niên, họ rất dễ bị bạn bè lôi kéo, kích động, bất kì
điều gì mới lạ diễn ra xung quanh cũng khiến họ thấy tò mò tìm hiểu trong khi
nhận thức đúng đắn cha đợc hình thành một cách vững chắc. Những lúc đó họ
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thậm chí không thể nhận thức đợc hành vi của mình là đúng hay sai. Ví dụ, một
cậu bé tên Tứ, sinh năm 1991, quê ở Bình Định, khi chỉ mới vừa 14 tuổi, đã phải
vào trờng giáo dỡng cải tạo 24 tháng về tội hiếp dâm và giết ngời. Chỉ vì muốn
"thử" một hành động nh ngời lớn, Tứ đã hiếp dâm một bé gái nhà hàng xóm mới
chỉ lên 2. Với những trờng hợp đó, việc quy định và áp dụng các biện pháp cỡng
chế không thể nh với ngời thành niên, do vậy có thể hành vi của họ đã có dấu hiệu
của một tội phạm nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì căn cứ vào độ tuổi,
vào các yếu tố nhân thân, ngời cha thành niên cũng không phải chịu trách nhiệm

hình sự mà chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính, cụ thể Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính 2002 quy định: "Ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 14 tuổi thực hiện hành vi
có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy
định tại Bộ luật hình sự" là một trong những đối tợng bị áp dụng biện pháp xử lí
hành chính khác là đa vào trờng giáo dỡng (điểm a khoản 2 Điều 24) hoặc chỉ áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn đối với "Ngời từ đủ 12 tuổi đến d-
ới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý
quy định tại Bộ luật hình sự" (điểm a khoản 2 Điều 23) mà không truy cứu trách
nhiệm hình sự với đối tợng này.
- Ngời cha thành niên luôn cần đợc giúp đỡ về mọi mặt, ngay cả khi họ vi
phạm pháp luật. Đôi khi họ cũng là ngời bị tổn thơng do thực hiện chính những
hành vi vi phạm của mình, "ngời bán dâm có tính chất thờng xuyên" là một ví dụ.
Với lí do đó, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định biện pháp đa vào
cơ sở chữa bệnh áp dụng với ngời nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên và ngời bán
dâm có tính chất thờng xuyên từ đủ 16 tuổi. Đặc biệt Pháp lệnh còn quy định cơ
sở chữa bệnh phải tổ chức khu vực dành riêng cho ngời dới 18 tuổi, quy định đó là
căn cứ vào đặc điểm riêng của ngời cha thành niên là những ngời cần chăm sóc
đặc biệt hơn. Tại đây họ đợc lao động, đợc học văn hoá, học nghề và chữa bệnh.
- Cũng do những đặc điểm riêng về tâm sinh lí, những hạn chế về nhận
thức, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính quy định không áp dụng một số biện
pháp cỡng chế đối với ngời cha thành niên; khoản 2 Điều 25: "Không đa vào cơ
sở giáo dục ngời cha đủ 18 tuổi", khoản 2 Điều 27: "Không áp dụng quản chế
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hành chính đối với ngời dới 18 tuổi" (hiện nay, theo Pháp lệnh sửa đổi một số
điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, biện pháp quản chế hành chính đã
bị bãi bỏ).
Qua phân tích trên có thể thấy những đặc điểm về tâm sinh lí của ngời cha
thành niên có ảnh hởng rất quan trọng đến quy định pháp luật nói chung và pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng. Hiện tại và lâu dài, chúng ta cần phải

dựa vào những đặc điểm này để xây dựng và ngày càng hoàn thiện quy định của
pháp luật, đảm bảo đợc mục đích của pháp luật là phòng ngừa, ngăn chặn, giáo
dục những ngời có hành vi vi phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của ngời cha thành niên.
Chơng II
Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử lý
hành chính đối với ngời cha thành niên
1. Quá trình hình thành các quy định pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính đối với ngời cha thành niên
Trải qua 40 năm kể từ khi những quy định đầu tiên về xử lý vi phạm hành
chính ra đời, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã và đang đợc xây dựng ngày
càng hoàn thiện hơn về mặt nội dung cũng nh hình thức pháp lý. Tuy nhiên những
quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên chỉ thực sự ra
đời vào năm 1977 với Điều lệ xử phạt vi cảnh đợc ban hành kèm theo NĐ 143/CP
ngày 27/05/1977.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trớc đó, ngày 18/02/1967 Thủ tớng Chính phủ đã ra quyết định 217
TTg/NC về tổ chức lại các trờng giáo dục thiếu niên h, trờng phổ thông công
nghiệp là tiền thân của trờng giáo dỡng ngày nay. Đối tợng của quyết định này là
những ngời cha thành niên có hành vi nguy hại cho xã hội và lu manh chuyên
nghiệp. Tuy nhiên đây lại là những đối tợng phạm pháp hình sự.
Điều lệ xử phạt vi cảnh là văn bản đầu tiên quy định có hệ thống về xử phạt
vi phạm hành chính. Trong đó, Điều 6 quy định: "Đối với ngời dới 14 tuổi thì
giáo dục rồi báo cho cha mẹ hay ngời có trách nhiệm nuôi dạy biết, yêu cầu họ
phải thi hành trách nhiệm quản lý giáo dục con em họ. Đối với ngời từ đủ 14
đến 16 tuổi thì nặng nhất là phạt tiền, đối với ngời từ đủ 16 đến 17 tuổi không có
tài sản riêng, cha mẹ hay ngời có trách nhiệm nuôi dỡng phải nộp thay".
Nh vậy đối tợng bị phạt vi cảnh là ngời từ đủ 14 tuổi trở lên, cụ thể là: từ đủ
14 đến 16 tuổi thì có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền; từ đủ 16 đến 17 tuổi có

thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc phạt lao động công ích, phạt giam nh với ngời
lớn. Cần phải chú ý rằng, Điều lệ xử phạt vi cảnh chỉ quy định về vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Với một phạm vi điều chỉnh không rộng nh vậy thì những quy định đối với ngời
cha thành niên cha nhiều và cha cụ thể.
Sau một thời gian khá dài, ngày 30/11/1989, Hội đồng Nhà nớc ban hành
Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính có
hiệu lực từ ngày 1/1/1990 đánh dấu bớc phát triển quan trọng trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện chế định pháp luật về trách nhiệm hành chính. Lần đầu tiên
trong lịch sử pháp luật Việt Nam, việc quy định những vấn đề cơ bản mang tính
nguyên tắc về xử phạt vi phạm hành chính đợc thể hiện tập trung trong một văn
bản, làm cơ sở để xây dựng những văn bản quy định cụ thể hành vi vi phạm hành
chính, hình thức và mức xử phạt trong các lĩnh vực quản lý nhà nớc. Đặc biệt
những quy định đối với ngời cha thành niên cũng đợc kế thừa và phát huy. Điều 29
của Pháp lệnh quy định về xử phạt đối với ngời cha thành niên nh sau:
Ngời từ đủ 16 tuổi đến dới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hành
chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Ngời từ đủ 14
tuổi đến dới 16 tuổi chỉ bị phạt đối với những vi phạm hành chính
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thực hiện do cố ý; hình thức và mức phạt đối với họ là cảnh cáo
hoặc phạt tiền đến 10.000 đồng. Đối với ngời dới 14 tuổi thì không
xử phạt mà áp dụng biện pháp giáo dục. Trong trờng hợp ngời cha
thành niên không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc ngời giám hộ
phải nộp phạt thay. Quyết định xử phạt với ngời cha thành niên khi
cha đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm.
Sau hơn năm năm thực hiện, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống
kinh tế xã hội, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính không còn phù hợp với thực
tiễn áp dụng. Do đó, ngày 06/07/1995 Uỷ ban thờng vụ Quốc hội đã thông qua
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thay thế cho Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành

chính có hiệu lực từ ngày 01/08/1995. Ngoài việc quy định về các biện pháp xử
phạt, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 còn quy định về việc áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính khác. Đây là điểm mới hoàn toàn so với những quy
định trớc. Để thi hành pháp lệnh này Chính phủ đã ban hành 45 nghị định quy
định cụ thể về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà
nớc và 5 nghị định ban hành các quy chế quy định chi tiết trình tự, thủ tục áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính khác. Ngoài ra còn một khối lợng lớn những thông
t, chỉ thị hớng dẫn thi hành những quy định của Pháp lệnh nhng nhìn chung các
quy định cụ thể về biện pháp xử lý vi phạm hành chính với ngời cha thành niên
không nhiều. Điều 5 Pháp lệnh quy định về đối tợng bị xử lý vi phạm hành chính,
mà ngời cha thành niên là một trong những đối tợng đó: "Ngời từ đủ 14 tuổi đến
dới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý, ngời
từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm hành
chính do mình gây ra (điểm a khoản 1). Quy định này đợc kế thừa từ Pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính năm 1989. Điều 6 quy định riêng về xử lý ngời cha thành
niên vi phạm hành chính, trong đó mức phạt tiền đối với ngời cha thành niên từ đủ
14 tuổi đến dới 16 tuổi đã đợc nâng lên mức cao hơn từ 10.000 đồng thành 50.000
đồng, mức phạt tiền đối với ngời cha thành niên từ đủ 16 tuổi đến dới 18 tuổi quy
định là thấp hơn so với mức phạt đối với ngời thành niên mặc dù không quy định
là thấp hơn bao nhiêu. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 còn quy
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
định về trách nhiệm bồi thờng thiệt hại của ngời cha thành niên do hành vi vi
phạm hành chính gây ra: "Ngời cha thành niên khi vi phạm hành chính gây thiệt
hại vật chất thì phải bồi thờng theo quy định của pháp luật" (khoản 2 Điều 6).
Cha mẹ và ngời giám hộ vẫn phải có trách nhiệm nộp phạt thay khi ngời cha thành
niên không có tiền nộp phạt. Việc quy định thêm những biện pháp xử lý hành
chính khác bên cạnh các biện pháp xử phạt hành chính nh trong Pháp lệnh xử phạt
vi phạm hành chính năm 1989 đã đạt đợc những kết quả đáng kể trong việc ngăn
chặn, phòng ngừa vi phạm hành chính, đặc biệt là vi phạm hành chính do ngời cha

thành niên gây ra. Có năm biện pháp xử lý hành chính khác nhng chỉ có hai biện
pháp đợc áp dụng đối với ngời cha thành niên là giáo dục tại xã, phờng, thị trấn và
đa vào trờng giáo dỡng. Còn các biện pháp đa vào cơ sở giáo dục; đa vào cơ sở
chữa bệnh và quản chế hành chính không đợc áp dụng đối với ngời cha thành niên.
Tiếp tục kế thừa và hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ra đời thay thế cho Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 đợc Uỷ ban thờng vụ Quốc hội thông
qua ngày 02/07/2002, bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2002. Pháp lệnh
mới ra đời có ý nghĩa cả về thực tiễn và lý luận, góp phần tháo gỡ những khó khăn,
vớng mắc trong thực tế áp dụng Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995, ngày
càng nâng cao, phát huy hiệu quả xử lý vi phạm, có tác dụng giáo dục ý thức pháp
luật đối với những ngời có hành vi vi phạm hành chính và cả những ngời không có
hành vi vi phạm hành chính. Nhìn chung, những quy định đối với ngời cha thành
niên có nhiều điểm mới để phù hợp hơn với đối tợng này, nh quy định không áp
dụng hình thức phạt tiền với ngời cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi vi
phạm hành chính, đối tợng này chỉ bị phạt cảnh cáo. Với ngời cha thành niên từ đủ
16 tuổi đến dới 18 tuổi, thì mức phạt tiền đối với họ đợc quy định cụ thể hơn là
"không quá một phần hai mức phạt đối với ngời thành niên". Về các biện pháp
xử lý hành chính khác, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính vẫn quy định có năm
biện pháp xử lý hành chính khác, trong đó có ba biện pháp đợc áp dụng với ngời
cha thành niên, gồm: giáo dục tại xã, phờng, thị trấn; đa vào trờng giáo dỡng và đa
vào cơ sở chữa bệnh thay vì chỉ có hai biện pháp đợc áp dụng với ngời cha thành
niên nh ở Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 (giáo dục tại xã, phờng,
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thị trấn và đa vào trờng giáo dỡng). Đặc biệt biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị
trấn đợc quy định cụ thể tại Điều 23 với bốn nhóm đối tợng, không quy định
chung chung nh Điều 21 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 là: "Ngời
nhiều lần có hành vi vi phạm pháp luật nhng cha đến mức đa vào trờng giáo d-
ỡng, cơ sở chữa bệnh; ngời nghiện ma tuý, ngời mại dâm nhng cha đến mức đa

vào cơ sở chữa bệnh thì áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn".
Ngoài ra còn có những quy định mới khác nh hạ độ tuổi đa vào cơ sở chữa bệnh
với ngời bán dâm có tính chất thờng xuyên từ đủ 18 tuổi xuống còn từ đủ 16 tuổi,
bổ sung các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử lý vi
phạm hành chính trong đó có quy định áp dụng đối với ngời cha thành niên.
Sau đây là những quy định cụ thể của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 và những văn bản pháp luật có liên quan về biện pháp xử lý vi phạm
hành chính đối với ngời cha thành niên.
2. Các Biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên theo
pháp luật hiện hành
Biện pháp xử lý vi phạm hành chính với ngời cha thành niên theo pháp luật
hiện hành đợc quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và
các văn bản hớng dẫn có liên quan.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 là kết quả của một quá trình
lâu dài không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật, với mục đích "để đấu
tranh phòng ngừa và chống vi phạm hành chính, góp phần giữ vững an ninh trật
tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nớc, quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý
của Nhà nớc". Pháp lệnh gồm có 10 chơng với 124 điều, trong đó ngoài những
quy định chung áp dụng cho cả ngời cha thành niên, còn có các quy định riêng áp
dụng với đối tợng này nh Điều 7- Xử lý ngời cha thành niên vi phạm hành chính,
Điều 24 - Đa vào trờng giáo dỡng. Từ khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 ra đời đã có rất nhiều các nghị định hớng dẫn chi tiết việc thực hiện
những quy định của Pháp lệnh, trong đó có các nghị định nh Nghị định số
134/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phạm hành chính ban hành ngày 14/11/2003; Nghị định số 142/2003/NĐ-CP quy
định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đa vào trờng giáo dỡng ban hành
ngày 24/11/2003; Nghị định số 163/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành biện

pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn ban hành ngày 19/12/2003; Nghị định số
135/2004/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp đa vào cơ sở chữa bệnh, tổ
chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và
chế độ áp dụng đối với ngời cha thành niên, ngời tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh
ban hành ngày 10/06/2004
Khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh quy định: "Xử lý vi phạm hành chính bao gồm
xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác". Tuy nhiên
không phải mọi biện pháp xử lý vi phạm hành chính đều đợc áp dụng với ngời cha
thành niên.
2.1. Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên là hoạt động của
các chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về xử
phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính đối với ngời cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi thực hiện hành vi
vi phạm pháp luật.
Ngời cha thành niên khi vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một trong
những hình thức xử phạt chính là phạt cảnh cáo và phạt tiền.
2.1.1. Phạt cảnh cáo
Điều 13 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định: "Cảnh
cáo đợc áp dụng với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có
tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do ngời cha
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo đợc quyết định
bằng văn bản".
Theo quy định trên thì đối tợng ngời cha thành niên bị áp dụng hình thức
phạt cảnh cáo là ngời cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi. Đối với ngời
cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi, Điều 6 của Pháp lệnh quy định: "Ng-
ời từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi bị xử phạt bị xử phạt hành chính về vi phạm
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hành chính do cố ý". Nh vậy, những ngời ở độ tuổi này bị phạt cảnh cáo khi thoả

mãn các điều kiện: thứ nhất, thực hiện hành vi vi phạm hành chính đợc quy định
trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; thứ hai, thực hiện hành vi đó do lỗi cố
ý. Đối với ngời cha thành niên từ đủ 16 tuổi đến dới 18 tuổi bị phạt cảnh cáo nếu
"vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ" (Điều 13), tuy nhiên
việc xác định nh thế nào là "vi phạm hành chính nhỏ" thì lại không có căn cứ, tiêu
chí rõ ràng, còn các tình tiết giảm nhẹ đợc quy định tại Điều 8 của Pháp lệnh.
Theo đó ngời cha thành niên dới 14 tuổi không bị áp dụng hình thức phạt cảnh cáo
trong mọi trờng hợp.
Thẩm quyền xử phạt cảnh cáo đợc quy định tại chơng IV của pháp lệnh tuỳ
thuộc vào mức độ vi phạm và lĩnh vực quản lý của các chủ thể có thẩm quyền.
Thủ tục áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo là thủ tục đơn giản (chỉ ra
quyết định xử phạt, không lập biên bản).
2.1.2. Phạt tiền
Hình thức phạt tiền đợc quy định tại Điều 14 Pháp lệnh, với mức phạt tiền
là từ 5.000 đồng đến 500.000.000 đồng, dựa vào tính chất, mức độ vi phạm, mức
phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nớc.
Đối tợng ngời cha thành niên bị áp dụng hình thức xử phạt này là ngời từ đủ
16 tuổi đến dới 18 tuổi vi phạm hành chính mà không thuộc những trờng hợp bị xử
phạt cảnh cáo. Mức tiền phạt cao nhất áp dụng với đối tợng này là 250.000.000
đồng do "Khi phạt tiền đối với họ thì mức tiền phạt không đợc quá một phần hai
mức phạt đối với ngời thành niên". Pháp lệnh quy định không áp dụng hình thức
phạt tiền đối với ngời cha thành niên dới 16 tuổi. Đây là điểm mới của Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính năm 2002 so với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 1995. Ngời cha thành niên từ đủ 16 tuổi đợc coi là đã có khả năng nhận thức
đầy đủ hơn về hành vi của mình, khi vi phạm hành chính do họ gây ra không phải
là những "vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ", có nghĩa là họ
đã nhiều lần vi phạm, hoặc những vi phạm này gây ra hậu quả lớn mà không có
tình tiết giảm nhẹ, thì việc phạt cảnh cáo chỉ mang tính chất răn đe không thể phát
huy đợc hiệu quả trong việc ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm hành chính, do đó họ
phải bị áp dụng hình thức xử phạt cao hơn là phạt tiền. "Nếu ngời cha thành niên

18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc ngời giám hộ phải nộp thay", việc quy
định nh vậy buộc cha mẹ hoặc ngời giám hộ phải có trách nhiệm nhiều hơn với
ngời cha thành niên là con hoặc là ngời đợc mình giám hộ.
Thẩm quyền ra quyết định áp dụng hình thức xử phạt tiền đợc quy định tại
chơng IV của Pháp lệnh.
Thủ tục áp dụng hình thức xử phạt tiền là thủ tục đơn giản (trong trờng hợp
phạt tiền từ 5.000 đồng đến 100.000 đồng), và thủ tục xử phạt có lập biên bản
(trong trờng hợp phạt tiền từ trên 100.000 đồng trở lên).
2.1.3. Các hình thức xử phạt bổ sung
Ngoài hai hình thức xử phạt chính trên thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi
phạm ngời cha thành niên còn có thể bị áp dụng một trong những hình thức xử
phạt bổ sung: "tớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề" hoặc "tịch thu
tang vật, phơng tiện đợc sử dụng để vi phạm hành chính". Đây là những hình
thức xử phạt bổ sung, vì vậy chúng không đợc áp dụng một cách độc lập mà luôn
đợc áp dụng kèm theo với hình thức xử phạt chính. Cụ thể:
- Tớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề quy định tại Điều 16:
"Tớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc không có
thời hạn đợc áp dụng đốí với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy định sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề".
Ngời cha thành niên có thể là đối tợng bị áp dụng hình thức xử phạt này.
Theo quy định tại Điều 22, Bộ luật Lao động 2002: "Ngời học nghề ở cơ sở dạy
nghề ít nhất phải đợc 13 tuổi, trừ một số nghề do Bộ Lao động - Thơng binh và
Xã hội quy định và phải có đủ sức khoẻ phù hợp với yêu cầu của nghề theo học ".
Sau khi học nghề họ có thể đợc cấp chứng chỉ nghề. Cần phân biệt chứng chỉ nghề
này với giấy phép, chứng chỉ hành nghề quy định tại Điều 16 Pháp lệnh vì theo
quy định hớng dẫn áp dụng tại Điều 11 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP, trong đó
chỉ rõ: "Giấy phép, chứng chỉ hành nghề là các loại giấy tờ do cơ quan nhà nớc,
ngời có thẩm quyền cấp cho các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật

19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
để cho phép tổ chức, cá nhân đó kinh doanh, hoạt động hành nghề trong một
lĩnh vực nhất định hoặc sử dụng một loại công cụ, phơng tiện nhất định". Vậy
ngời cha thành niên có giấy phép, chứng chỉ hành nghề nếu "vi phạm nghiêm
trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề" có thể bị tớc giấy phép,
chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề, ngời cha thành niên không đợc tiến hành các hoạt động ghi trong giấy
phép, chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên trong thực tế, biện pháp này rất ít bị áp
dụng với đối tợng ngời cha thành niên.
Khi tiến hành tớc quyền sử dụng giấy giấy phép, chứng chỉ hành nghề của
ngời cha thành niên, các chủ thể có thẩm quyền phải tuân theo trình tự thủ tục quy
định tại Điều 59 của Pháp lệnh.
- Tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng để vi phạm hành chính quy định
tại Điều 17 Pháp lệnh: "Tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng để vi phạm
hành chính là việc sung vào quỹ nhà nớc vật, tiền, hàng hoá, phơng tiện có liên
quan trực tiếp đến vi phạm hành chính".
Khi áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng để
vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên cần phân biệt: những tang vật, ph-
ơng tiện thuộc sở hữu của ngời cha thành niên hoặc không thuộc sở hữu của ngời
cha thành niên nhng việc họ có đợc phơng tiện, tang vật đó là do lỗi của chủ sở
hữu thì bị tịch thu, sung vào công quỹ nhà nớc; những tang vật, phơng tiện không
thuộc sở hữu của ngời cha thành niên, có đợc do chiếm đoạt, sử dụng trái phép thì
phải trả lại cho chủ sở hữu hoặc ngời quản lý, ngời sử dụng hợp pháp; "trờng
hợp tang vật là văn hoá phẩm độc hại, hàng giả không có giá trị sử dụng, vật
phẩm gây hại cho sức khoẻ con ngời, vật nuôi cây trồng thì bị xử lý theo quy
định của khoản 2 Điều 61 của Pháp lệnh" (khoản 2 Điều 12 Nghị định số
134/2003/NĐ-CP).
Thẩm quyền, thủ tục áp dụng hình thức xử phạt này đợc pháp luật quy định
cụ thể.

2.2. Các biện pháp xử lý hành chính khác
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo quy định của pháp luật hiện hành có bốn biện pháp xử lý hành chính
khác, gồm: giáo dục tại xã, phờng, thị trấn; đa vào trờng giáo dỡng; đa vào cơ sở
giáo dục và đa vào cơ sở chữa bệnh (biện pháp quản chế hành chính đã bị bãi bỏ
theo quy định của Pháp lệnh số 31/2007/PL-UBTVQH 11 ngày 08/03/2007 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính).
Trong số bốn biện pháp trên thì có tới ba biện pháp cũng đợc quy định áp
dụng với ngời cha thành niên là giáo dục tại xã, phờng, thị trấn; đa vào trờng giáo
dỡng và đa vào cơ sở chữa bệnh.
2.2.1. Giáo dục tại xã, phờng, thị trấn
Giáo dục tại xã, phờng, thị trấn đợc quy định tại Điều 23, một số điều khác
trong Pháp lệnh và các văn bản hớng dẫn thi hành nh Nghị định số 163/2003/NĐ-
CP ngày 19/12/2003; Thông t số 22/2004/TT-BCA của Bộ công an; Quyết định số
1522/2005/QĐ-BCA ngày 27/10/2005
Đối tợng ngời cha thành niên bị áp dụng biện pháp này gồm:
- Ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một
tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự ;
- Ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 18 tuổi nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa
đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng;
- Ngời bán dâm có tính chất thờng xuyên từ đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi có
nơi c trú nhất định.
Với biện pháp này ngời cha thành niên vi phạm hành chính đợc giáo dục, quản
lý tại địa phơng mà không bị cách li khỏi cộng đồng. Điều này đòi hỏi chính quyền
địa phơng cũng nh gia đình phải có những biện pháp phù hợp, hiệu quả, giúp đỡ họ
để họ có thể nhận thức đúng đắn hơn về những việc mình làm.
Thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị
trấn thuộc về Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phờng, thị trấn. Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân xã, phờng, thị trấn có thể tự mình hoặc theo đề nghị của một trong những cơ

quan, tổ chức sau: Trởng Công an cấp xã; Chủ tịch Uỷ ban mặt trận Tổ quốc cấp
xã; Đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị dân c cơ sở Cụ thể đối với ng ời cha thành
niên có thể có sự tham gia của Uỷ ban dân số, gia đình, Trẻ em hoặc Đoàn thanh
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
niên, Hội phụ nữ Với sự tham gia của các tổ chức này, quyền lợi của các em đ ợc
bảo đảm hơn bởi đó là những tổ chức đại diện cho quyền lợi của các em về mặt xã
hội.
Trình tự, thủ tục ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị
trấn: trớc khi ra quyết định áp dụng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã tổ chức
cuộc họp gồm Trởng Công an cấp xã, đại diện Ban T pháp, Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan, đại diện dân c ở cơ sở, gia đình
của ngời đợc đề nghị giáo dục để xem xét việc áp dụng biện pháp này. Trong thời
hạn 3 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc họp, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã sẽ
quyết định có áp dụng biện pháp này hay không, và tuỳ từng đối tợng mà quyết
định giao ngời đợc giáo dục cho cơ quan, tổ chức, gia đình quản lý, giáo dục.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày quyết định có hiệu lực, cơ quan, tổ
chức đợc giao quản lý, giáo dục phải tổ chức cuộc họp để thi hành quyết định đó
đối với ngời đợc giáo dục, trong đó: "Ngời đợc giáo dục phải tự mình đọc bản
kiểm điểm và cam kết sửa chữa sai phạm của mình. Các đại biểu tham dự cuộc
họp phân tích những sai phạm của ngời đợc giáo dục và góp ý kiến xây dựng,
giúp đỡ ngời đó sửa chữa tiến bộ" (khoản 1 Điều 13 Nghị định số 163/2003/NĐ-
CP). Với ngời cha thành niên vi phạm hành chính bị áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phờng, thị trấn thì có thể có sự tham gia của Đoàn thanh niên ở cơ sở, nhà
trờng và gia đình ngời đợc giáo dục.
Thời hạn áp dụng là từ ba tháng đến sáu tháng.
2.2.2. Đa vào trờng giáo dỡng
Quy định tại Điều 24, một số điều khác của Pháp lệnh và các văn bản hớng
dẫn thi hành. Đây là biện pháp chỉ áp dụng với ngời cha thành niên nhằm tạo điều
kiện để họ đợc học văn hoá, giáo dục hớng nghiệp, học nghề, lao động, sinh hoạt

dới sự quản lý, giáo dục của nhà trờng.
Đối tợng ngời cha thành niên bị áp dụng biện pháp đa vào trờng giáo dỡng
gồm:
- Ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một
tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiệm trọng quy định tại Bộ luật hình
sự;
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một
tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự
mà trớc đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn hoặc cha bị áp
dụng biện pháp này nhng không có nơi c trú nhất định;
- Ngời từ đủ 14 tuổi đến đới 18 tuổi nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp
vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng mà trớc đó bị áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn hoặc cha bị áp dụng biện pháp này nhng
không có nơi c trú nhất định.
Họ là những ngời đã nhiều lần thực hiện hành vi vi phạm hành chính hoặc
vi phạm lần đầu nhng hành vi vi phạm của họ có dấu hiệu của một trong những tội
phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng
quy định tại Bộ luật hình sự. Việc xác định đối tợng đa vào trờng giáo dỡng nh
trên là phù hợp với việc phân loại tội phạm và độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự cũng nh tính chất, mức độ, nhân thân của ngời cha thành niên có hành vi vi
phạm hành chính.
Thẩm quyền ra quyết định đa vào trờng giáo dỡng thuộc về Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp huyện. Trớc đây, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 quy
định: "Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đa vào trờng giáo dỡng"
(khoản 1 Điều 61). Hiện nay thẩm quyền này đã đợc phân cấp cho Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp huyện quyết định. Quy định này nhằm đề cao trách nhiệm của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong việc áp dụng biện pháp đa vào trờng
giáo dỡng. Mặt khác, có thể giảm bớt công việc cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp

tỉnh có thể tập trung nhiều hơn vào những công việc quan trọng khác của địa ph-
ơng. Điều này là phù hợp với chơng trình cải cách hành chính của Đảng và Nhà n-
ớc ta, thể hiện sự mạnh dạn phân cấp cho chính quyền cấp huyện, đơn giản hoá và
rút ngắn thời gian xét duyệt hồ sơ, giảm bớt phiền hà và những vấn đề phức tạp về
quản lý đối tợng có thể nảy sinh trong thời gian xử lý hồ sơ, chờ đợi quyết định đa
vào trờng giáo dỡng.
Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp đa vào trờng giáo dỡng đợc quy định từ
Điều 75 đến Điều 83 Pháp lệnh và chơng II của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP
quy định về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đa vào trờng giáo dỡng. Chủ
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tịch uỷ ban nhân dân cấp xã nơi ngời cha thành niên vi phạm phạm pháp luật c trú
lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Trờng hợp ngời cha thành niên
không có nơi c trú nhất định thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi ngời đó có
hành vi vi phạm pháp luật lập biên bản, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
huyện. Trờng hợp đối tợng do cơ quan Công an cấp tỉnh, cấp huyện trực tiếp phát
hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật, nhng cha đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tợng đa vào trờng giáo dỡng thì cơ quan Công
an đang thụ lý phải xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp huyện. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận đợc hồ sơ hoặc biên bản,
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giao hồ sơ, biên bản cho Trởng Công an
cùng cấp. Trong thời hạn mời lăm ngày, kể từ ngày nhận đợc hồ sơ, cơ quan Công
an cùng cấp có trách nhiệm thẩm tra, thu thập tài liệu, hoàn chỉnh hồ sơ và gửi hồ
sơ đến các thành viên của Hội đồng t vấn (Hội đồng t vấn về việc đa vào trờng
giáo dỡng do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập). Hội
đồng t vấn xem xét hồ sơ và tổ chức cuộc họp xét duyệt hồ sơ, gửi ý kiến báo cáo
trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện
xem xét việc quyết định việc đa vào trờng giáo dỡng.
Việc thi hành quyết định đa vào trờng giáo dỡng do Công an cấp huyện có
trách nhiệm phối hợp với gia đình hoặc ngời giám hộ đa ngời phải chấp hành

quyết định vào trờng giáo dỡng.
Thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đa vào trờng giáo dỡng là từ
sáu tháng đến hai năm. Trong thời gian chấp hành quyết định đa vào trờng giáo d-
ỡng, ngời cha thành niên có thể đợc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đa vào
trờng giáo dỡng theo quy định tại Điều 83 Pháp lệnh, hoặc đợc giảm thời hạn, tạm
đình chỉ hoặc đợc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại trờng giáo dỡng theo
Điều 81 Pháp lệnh.
2.2.3. Đa vào cơ sở chữa bệnh
Biện pháp đa vào cơ sở chữa bệnh đợc quy định tại Điều 26, các điều từ
Điều 93 đến Điều 101 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và một số
điều khác có liên quan; tại các nghị định, thông t, quyết định quy định chi tiết, h-
ớng dẫn áp dụng. Đa vào cơ sở chữa bệnh là biện pháp xử lý hành chính áp dụng
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
với ngời nghiện ma tuý và ngời bán dâm nhằm chữa trị, giáo dục họ từ bỏ ma tuý,
sống cuộc sống lành mạnh không có tệ nạn xã hội. Biện pháp này không chỉ đợc
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính quy định mà còn đợc quy định trong Luật
phòng chống ma tuý, Pháp lệnh phòng chống tệ nạn mại dâm.
Điểm a khoản 2 Điều 26 quy định: "Ngời nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở
lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn hoặc cha bị áp dụng
biện pháp này nhng không có nơi c trú nhất định". Nh vậy, ngời cha thành niên
nghiện ma tuý không phải là đối tợng áp dụng biện pháp đa vào cơ sở chữa bệnh.
Điểm b khoản 2 Điều 26 lại quy định: "Ngời bán dâm có tính chất thờng xuyên từ
đủ 16 tuổi trở lên dã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn hoặc
cha bị áp dụng biện pháp này nhng không có nơi c trú nhất định". Nh vậy chỉ có
ngời cha thành niên từ đủ 16 tuổi đến dới 18 tuổi bán dâm có tính chất thờng
xuyên mới bị áp dụng biện pháp đa vào cơ sở chữa bệnh. Tuy nhiên, Nghị định số
135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 ngoài việc quy định chế độ áp dụng biện pháp
đa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính còn quy định chế độ áp dụng đối với ngời cha thành niên,

ngời tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh. Trong đó khoản 1 Điều 23 nghị định quy
định: "Trung tâm chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội đợc tiếp nhận ngời ch-
a thành niên nghiện ma tuý từ đủ 12 tuổi đến dới 18 tuổi; ngời nghiện ma tuý và
ngời bán dâm tự nguyện xin vào Trung tâm". Ngời cha thành niên có những đặc
điểm riêng về thể chất và tinh thần, đa vào cơ sở chữa bệnh là một biện pháp xử lý
vi phạm hành chính, nhng với mục đích chữa bệnh cho những đối tợng nh ngời
nghiện ma tuý, ngời bán dâm có tính chất thờng xuyên. Để việc thực hiện biện
pháp này một cách hiệu quả cơ sở chữa bệnh phải tổ chức một khu vực dành riêng
cho ngời dới 18 tuổi. Pháp luật quy định những ngời cha thành niên nghiện ma tuý
sau đây bị cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã
hội:
- Ngời đã đợc cai nghiện tại gia đình, cộng đồng mà vẫn còn nghiện;
- Ngời đã đợc giáo dục nhiều lần tại xã, phờng, thị trấn mà vẫn còn nghiện;
- Ngời không có nơi c trú nhất định.
25

×