Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
3
CHƯƠNG 1: HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ
VI PHẠM HỢP ĐỒNG
1.1 Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
1.1.1 Tìm hiểu về mua bán và mua bán hàng hóa:
Theo luật thương mại Việt Nam, mua bán hàng hóa được định nghĩa: “Mua bán
hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền
sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho
bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”.
(1)
Định nghĩa cho thấy
mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, đó là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, lợi
nhuận được phát sinh sau mỗi lần mua bán.
Như chúng ta đã biết, mua bán thể hiện sự trao đổi hàng hóa của người bán chuyển
cho người mua để nhận được từ người mua tiền hay vật phẩm có giá trị như đã thỏa
thuận. Mua bán mang về lợi ích cho cả người mua lẫn người bán. Đối với người mua, lợi
ích của họ là có được hàng hóa mình muốn. Còn đối với người bán, họ có được khoản
tiền hay vật có giá trị từ việc mua bán đó. Như vậy, mua bán là phương thức chủ yếu để
dịch chuyển tài sản và quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác, tạo ra sự
lưu thông hàng hóa và tiền tệ trong đời sống kinh tế xã hội.
Trong mua bán thì hàng hóa là đối tượng được mang ra trao đổi, là sản phẩm dùng
để bán nói chung. Và theo học thuyết kinh tế chính trị Mac-Lenin thì hàng hóa cũng được
hiểu tương tự, đó là sản phẩm lao động của con người, tạo ra nhằm mục đích thỏa mãn
nhu cầu của con người được thông qua trao đổi mua bán. Hiện nay, khái niệm hàng hóa
được ghi nhận trong luật pháp các quốc gia trên thế giới. Mặc dù có những khác biệt nhất
định về việc định nghĩa song, hàng hóa vẫn được hiểu là tất cả các loại động sản, kể cả
động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai
(2)
. Hàng hóa còn được
chia thành các loại khác nhau như bất động sản, tài sản hữu hình, tài sản vô hình và các
quyền về tài sản.
Vậy, hàng hóa chính là đối tượng được mang ra trao đổi trong hoạt động mua bán.
Mục đích của việc mua bán nhằm phục vụ cho nhu cầu cần hàng hóa của người mua,
người mua mua nhằm để sử dụng. Nhưng có trường hợp mua bán lại không phục vụ cho
nhu cầu của người mua. Người mua chỉ mua hàng hóa để tiếp tục bán lại cho người khác
nhằm thu khoản chênh lệch từ việc mua bán này, mục đích là kinh doanh, là lợi nhuận.
Nếu dựa vào chủ thể, mục đích của chủ thể thực hiện hành vi mua bán thì hai loại mua
bán trên có tính chất khác nhau vậy thì luật điều chỉnh về chúng cũng phải khác nhau để
(1)
Điều 3 khoản 8 Luật thương mại
(2)
Điều 3 khoản 2 Luật Thương mại
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
4
phù hợp với tính chất của từng loại. Theo như luật thương mại Việt Nam qui định thì luật
này điều chỉnh mua bán theo loại thứ hai và gọi chúng là “mua bán hàng hóa”. Từ đây,
thuật ngữ “mua bán hàng hóa” xuất hiện với tính chất thương mại, mua bán hàng hóa
nhằm mục đích kinh doanh, mục đích lợi nhuận. Mua bán ý thứ nhất được xem là mua
bán tài sản có tính chất dân sự nhưng mua bán ở ý thứ hai là mua bán tài sản có tính chất
thuơng mại. Mua bán tài sản có tính chất dân sự được điều chỉnh ở luật dân sự của các
nước nhưng mua bán trong thương mại được điều chỉnh bởi luật thương mại và được gọi
là “mua bán hàng hóa”. Có nghĩa là khi đề cập đến “mua bán hàng hóa” thì chỉ liên quan
đến mua bán tài sản trong thương mại, mua bán tài sản trong dân sự tuy vẫn là mua bán
những hàng hóa nhưng khơng được gọi bằng thuật ngữ “mua bán hàng hóa”.
Như đã xác định, mua bán tạo ra sự lưu thơng hàng hóa và tiền tệ trong đời sống
kinh tế xã hội. Mua bán hàng hóa có vai trò quan trọng khi nó thúc đẩy phát triển nền
kinh tế từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Bên bán, bên mua trong mua bán hàng
hóa vì mục tiêu lợi nhuận có thể mang hàng hóa đến tận những vùng sâu, vùng xa khơng
gần những nơi sản xuất để bán. Khơng có mua bán hàng hóa thì hoạt động sản xuất sẽ trì
trệ, sản phẩm được sản xuất ra bị tồn đọng, khó tiêu thụ. Với những lẽ trên mua bán hàng
hóa diễn ra trên lãnh thổ mỗi nước, khơng có quốc gia nào khơng diễn ra hoạt động mua
bán hàng hóa và chúng đóng vai trò đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội. Xã hội ngày càng
phát triển về kinh tế thì nhu cầu trao đổi hàng hóa của con người càng mạnh, khơng chỉ bó
hẹp phạm vi mua bán trong một nước nữa mà còn muốn trao đổi hàng hóa với nước khác,
đặt tiền đề cho việc mua bán hàng hóa quốc tế và ngày nay, MBHHQT giữ một vị trí quan
trọng trong xu thế tồn cầu hóa của thế giới, MBHHQT khơng thể thiếu đối với những
quốc gia muốn phát triển nền kinh tế đất nước.
1.1.2 Mua bán hàng hóa quốc tế và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
1.1.2.1 Mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT):
MBHHQT được hiểu thơng thường là việc mua bán hàng hóa có liên quan đến một
quốc gia khác. Liên quan đến quốc gia khác có thể là mua hoặc bán hàng hóa với người
thuộc một quốc gia khác hay việc xuất hàng hóa vào một nước khác hoặc mua hàng hóa
từ quốc gia khác sau đó nhập vào nước mình… Vấn đề mua bán ngày càng đa dạng và
phức tạp khi hàng hóa được lưu thơng khơng chỉ trong nước mà còn được vận chuyển
sang nước khác. Hàng hóa được xuất đi hoặc nhập vào một quốc gia phải tn thủ các qui
định của quốc gia đó và có thể những qui định này khơng giống với các qui định trong
nước. Mỗi quốc gia với những đặc điểm kinh tế xã hội riêng sẽ có những qui định riêng,
xảy ra những vấn đề phức tạp xung quanh việc mua bán là khơng thể tránh khỏi.
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
5
Đồng thời, mua bán hàng hóa và MBHHQT là nội dung trọng tâm của hoạt động
thương mại vì vai trò của chúng trong nền kinh tế đất nước. Do đó, những nguyên tắc
trong MBHHQT chắc chắn được xây dựng trong luật pháp các nước. Bên cạnh đó, trong
MBHHQT các bên đều lấy lợi nhuận làm tiêu chí nên việc ảnh hưởng đến lợi ích này là
vấn đề nhạy cảm, thường xảy ra và dễ đi đến tranh chấp. Nên các qui định trong luật pháp
các nước giúp cho quốc gia quản lý được hoạt động MBHHQT đồng thời đảm bảo được
những quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Một trong những qui định này là việc điều
chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - qui định quan trọng nhất trong MBHHQT.
1.1.2.2 Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: (HĐMBHHQT)
Hợp đồng là hình thức pháp lý đảm bảo quyền và nghĩa vụ các bên. Do đó quan hệ
MBHHQT được xác lập và thực hiện thông qua hợp đồng. Cơ sở pháp lý liên quan đến
hợp đồng là các qui định trong luật xung quanh nội dung về hợp đồng, hợp đồng mua bán
hàng hóa trong nước, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Theo Bộ Luật Dân Sự VN qui định thì hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của họ
(3)
. Luật thương mại Việt
Nam không có định nghĩa về HĐMBHHQT, do vậy, ta dựa vào định nghĩa chung về hợp
đồng được qui định trong luật chung là luật dân sự Việt Nam để làm căn cứ pháp lý cho
HĐMBHHQT. Trước đây, HĐMBHHQT còn gọi là hợp đồng mua bán ngoại thương
hoặc hợp đồng xuất nhập khẩu để phân biệt với hợp đồng mua bán trong nước. MBHHQT
được phát triển từ mua bán hàng hóa trong nước, HĐMBHHQT được phát triển từ hợp
đồng mua bán hàng hóa trong nước nên trước hết vẫn mang đầy đủ những tính chất của
một hợp đồng và một hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước.
Như vậy, HĐMBHHQT vẫn là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của họ. Có nghĩa HĐMBHHQT là sự thỏa thuận giữa
bên bán và bên mua về nghĩa vụ của bên bán là chuyển vào quyền sở hữu của người mua
một tài sản nhất định gọi là hàng hóa, còn người mua có quyền nhận hàng và nghĩa vụ
phải trả một số tiền theo thỏa thuận. Vậy thì, người bán, người mua được gọi là chủ thể
của hợp đồng. Nội dung của hợp đồng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người bán và
người mua xung quanh việc người bán chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và
nhận thanh toán.
HĐMBHHQT được hình thành khi chủ thể của hợp đồng tiến hành giao kết. Hợp
đồng sẽ được lập chứa đựng những nội dung như trên. Ở đây có một chú ý, hợp đồng phải
được lập dưới dạng văn bản, đây là hình thức bắt buộc theo luật Việt Nam đối với
(3)
Điều 388 Bộ luật dân sự Việt Nam
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
6
HĐMBHHQT. Mặc dù, HĐMBHH trong nước vẫn có giá trị khi: “ Hợp đồng mua bán
hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ
thể”
(4)
. Nhưng “ Mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện trên sơ sở hợp đồng
bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”
(5)
. Hiểu rằng,
HĐMBHHQT chỉ có giá trị pháp lý khi được lập thành văn bản, điện báo, telex, fax,
thông điệp dữ liệu…( các hình thức có giá trị tương đương văn bản được quy định trong
luật thương mại Việt Nam)
(6)
không chấp nhận hợp đồng miệng hoặc bằng hành vi cụ thể
mặc dù mua bán hàng hóa trong nước vẫn có giá trị và các qui ước quốc tế vẫn công nhận.
Cụ thể là tại qui định của công ước CISG thì HĐMBHHQT không nhất thiết phải được
lập dưới hình thức văn bản, hợp đồng có thể chứng minh bằng mọi cách, kể cả lời khai
của nhân chứng
(7)
. Xét về hình thức hợp đồng, công ước cho phép các nước sử dụng cả 3
loại: hình thức văn bản, hình thức miệng và hình thức mặc nhiên. Tuy nhiên, Việt Nam
chọn sự khác biệt này có nhiều ưu điểm hơn cả, so với các hình thức còn lại thì hợp đồng
bằng văn bản an toàn hơn, toàn diện hơn, rõ ràng và dễ kiểm tra hơn…
Vậy thì, một HĐMBHHQT tồn tại dưới dạng văn bản theo luật Việt Nam, những
gì các bên thỏa thuận sẽ được ghi lại trong hợp đồng. Nội dung cơ bản của thỏa thuận là
những vấn đề liên quan đến việc mua bán hàng hóa như thỏa thuận về tên hàng hóa mua
bán, số lượng và chất lượng hàng hóa, các điều kiện giao hàng…, giá cả mua bán và hình
thức thanh toán tiền hàng là những thỏa thuận không thể thiếu trong hợp đồng.
Những nội dung cơ bản trên luôn tồn tại trong hợp đồng và được thể hiện dưới
dạng các điều khoản. Tổng hợp các điều khoản phản ánh nội dung cơ bản của hợp đồng
và những điều khoản khác liên quan đến việc mua bán sẽ tạo nên một HĐMBHHQT. Từ
đây có thể suy ra HĐMBHHQT là một văn bản pháp lý chứa đựng các điều khoản thỏa
thuận giữa các chủ thể tham gia mua bán, kết cấu chung của một văn bản hợp đồng có thể
bao gồm:
* Phần mở đầu:
- Tên hợp đồng mua bán hàng hóa, ngày tháng ký hợp đồng.
- Tên, địa chỉ, các số máy điện thoại, Fax, Telex, E mail của bên bán và bên mua.
- Những thông tin về người đại diện ký kết.
- Những căn cứ xác lập hợp đồng.
* Phần nội dung: Thường gồm 3 cụm điều khoản:
(4)
Điều 24 luật thương mại Việt Nam
(5)
Điều 27 khoản 2 luật thương mại Việt Nam
(6)
Đìều 3 khoản 15 luật thương mại Việt Nam
(7)
Đìêu 11 công ước CISG
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
7
- Những điều khoản chủ yếu: là những điều khoản căn bản, nhất thiết phải có trong
hợp đồng, các điều khoản này đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại của hợp đồng như tên
hàng, số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán…
- Những điều khoản thường lệ (hay còn gọi là điều khoản đương nhiên): là những
điều khoản mà nội dung của chúng đã được quy định trong các văn bản pháp luật. Những
điều khoản này có thể đưa vào hợp đồng mà cũng có thể không cần đưa vào hợp đồng. Ví
dụ như: bên mua là phía Việt Nam có thể tuyên bố là ngoài những điều khoản về chất
lượng hàng hóa đã thỏa thuận thì bên bán phải đảm bảo hàng hóa. Các bên có thể không
cần thỏa thuận hiệu lực của hợp đồng vì qui định chung là hợp đồng có hiệu lực khi bên
cui61 cùng trong hợp đồng đặt bút ký (áp dụng cho hợp đồng giao kết trực tiếp).
- Những điều khoản tùy nghi: là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết tự
ý lực chọn với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Thông qua những điều
khoản tùy nghi, bên có nghĩa vụ được phép lựa chọn một trong những cách thức nhất định
để thực hiện hợp đồng, sao cho thuận lợi mà vẫn đảm bảo được quyền yêu cầu của các
bên. Ví dụ: các bên thỏa thuận khi vi phạm hợp đồng xảy ra có thể tạm ngừng, đình chỉ
thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng tùy theo tuyên bố của bên bị vi phạm.
* Phần ký kết hợp đồng: đây là phần cuối cùng của hợp đồng, các bên ký kết hợp
đồng thể hiện sự chấp thuận của mình đối với những điều khoản đã thỏa thuận trên.
Đến đây, HĐMBHHQT được hình thành nhưng chưa hoàn chỉnh. Như đã tìm hiểu
thì MBHHQT được phát triển từ mua bán hàng hóa trong nước, HĐMBHHQT được phát
triển từ hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, các nội dung trong kết cấu hợp đồng trên
vẫn có thể tồn tại trong hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước. Vậy thì để xác định là
một HĐMBHHQT phải xét đến tính quốc tế của hợp đồng. Khi xác định về tính chất của
hợp đồng thì khác với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, HĐMBHHQT có tính
quốc tế hay như BLDS VN đề cập là có yếu tố nước ngoài
(8)
. Yếu tố nước ngoài được thể
hiện khi có sự hiện diện của một trong ba dấu hiệu:
- Có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát
sinh tại nước ngoài.
- Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Không có qui định về HĐMBHHQT nên luật Việt Nam cũng không đề cập đến
như thế nào là tính quốc tế của hợp đồng. Do đó, tiếp tục dựa vào qui định BLDS để xét
(8)
Đìêu 758 Bộ luật Dân sự Việt Nam
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
8
thì HĐMBHHQT là hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài, yếu tố nước ngoài
được xét đến là quốc tịch, nơi cư trú, nơi đăng ký trụ sở thương mại của chủ thể hợp
đồng, nơi có tài sản hay các quan hệ xung quanh hợp đồng có liên quan đến sự điều chỉnh
của pháp luật nước ngoài.
Với việc qui ước về yếu tố nước ngoài như thế, Việt Nam khá rõ ràng trong việc
xác định tính chất quốc tế của hợp đồng. Việc xác định này so với các qui định của pháp
luật quốc tế và pháp luật các quốc gia khác là tương tự nhau, nhưng qui định ở Việt Nam
là cụ thể, chặt chẽ nhất. Ở công ước CISG, một công ước điều chỉnh về HĐMBHHQT chỉ
đề cập tính quốc tế là các bên ký hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác
nhau, “nếu một bên không có trụ sở thương mại thì sẽ lấy nơi cư trú thường xuyên của
họ”
(9)
. Theo công ước thì vấn đề quốc tịch của các bên không có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng, trong khi vấn đề quốc tịch lại liên quan
trực tiếp đến quốc gia khác, chịu sự chi phối nhiều từ pháp luật nước ngoài. Còn ở Pháp,
việc xác định tính quốc tế của hợp đồng rất chung chung, người ta căn cứ vào hai tiêu
chuẩn mà không chỉ ra những dấu hiệu cụ thể, chỉ là dựa trên tiêu chuẩn kinh tế và pháp
lý
(10)
. Theo các tiêu chuẩn kinh tế, một hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo ra sự di chuyển
qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giiữa hai nước. Nói các khác, hợp đồng đó
thể hiện quyền lợi của thương mại quốc tế. Theo tiêu chuẩn pháp lý, một hợp đồng được
coi là quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc
tịch hoặc nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh
toán…
Dù có những khác biệt nhất định về xác định tính quốc tế của hợp đồng nhưng
công ước CISG, luật Pháp hay những qui định cụ thể của luật Việt Nam, tất cả đều xoay
quanh việc có liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật điều chỉnh những vấn đề xung
quanh hợp đồng. Tổng hợp những đặc điểm khi xét tính quốc tế hay yếu tố nước ngoài
của HĐMBHHQT giúp ta giải thích được những nội dung liên quan đến HĐMBHHQT
mà một hợp đồng trong nước không có, đó là những điểm:
- Hàng hóa là đối tượng của HĐMBHHQT là hàng có thể chuyển qua biên giới của
một nước, tức là có thể được chuyển từ nuớc này sang nước khác; và
- Tiền tệ dùng để thanh toán giữa người mua và người bán thường là ngoại tệ đối
với một trong hai bên; và
(9)
Điều 10 công ước CISG
(10)
Các tiêu chí xác định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Nguyễn Vũ Hoàng - Tạp chí Nhà nước và pháp luật
số 11 – 2003
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
9
- Tranh chấp phát sinh giữa các bên xung quanh việc giao kết và thực hiện hợp
đồng có thể do tòa án của một nước hoặc do một tổ chức trọng tài có thẩm quyền xét xử;
và
- Luật điều chỉnh hợp đồng (luật áp dụng cho hợp đồng) mang tính chất phức tạp,
đa dạng: nếu là hợp đồng trong nước thì nó chịu sự điều chỉnh của luật pháp nước đó
nhưng là một HĐMBHHQT thì nó có thể áp dụng luật Việt Nam (khi có thỏa thuận) nếu
khơng thì phải áp dụng điều ước quốc tế, tập qn quốc tế, luật nước ngồi hoặc thậm chí
cả án lệ (tiền lệ pháp).
Tính chất quốc tế và sự phức tạp trong MBHHQT nói trên giúp ta hiểu rằng, luật
áp dụng cho hợp đồng khơng phải ln là luật Việt Nam. Do đó, khi các chủ thể Việt
Nam hay gọi thơng thường là các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động
MBHHQT, nhất là khi thương thảo hợp đồng cần nắm vững các điều kiện thương mại, chỉ
một sự mơ hồ hoặc thiếu chính xác nào đó trong việc vận dụng điều kiện thương mại là có
thể gây tác hại cho các bên ký hợp đồng, dẫn đến những vụ tranh chấp, kiện tụng làm tăng
thêm chi phí trong kinh doanh.
Hợp đồng được ký kết và đã được xác định tính quốc tế, nếu một bên trong hợp
đồng là chủ thể Việt Nam thì căn cứ Việt Nam là bên nhập hay bên xuất hàng hóa ta các
tên gọi cho hợp đồng và chính là hình thức mua bán. Theo luật thương mại Việt Nam thì
“Mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm
nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu”
(11)
Luật Việt Nam khơng định nghĩa về HĐMBHHQT nhưng lại liệt kê các hình thức
cụ thể trong MBHHQT và các hình thức này được thực hiện thơng qua HĐMBHHQT.
Tìm hiểu ý nghĩa của các hình thức trên cho ta thấy được nội dung hợp đồng thơng qua
tên gọi của hợp đồng đồng thời phân định rõ quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong
hợp đồng.
Theo điều 28 luật thương mại Việt Nam thì hình thức xuất khẩu “là việc hàng hóa
được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ
Việt Nam được coi là khu vực hai quan riêng theo qui định của pháp luật”. Còn hình thức
nhập khẩu hàng hóa là việc “hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngồi
hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng
theo qui định của pháp luật”.
Qua hai hình thức trên cho thấy, trong xuất khẩu hàng hóa thì hợp đồng
xuất khẩu được xác lập giữa các bên. Hợp đồng xuất khẩu là hợp đồng
bán hàng cho nước ngoài nhằm thực hiện việc chuyển giao hàng hóa ra nước
(11)
Điều 27 Luật thương mại Việt Nam
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
10
ngoài, đồng thời di chuyển quyền sở hữu hàng hóa đó sang người mua.
Hàng hóa được làm thủ tục xuất khẩu khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu
vào một nước khác. Còn hợp đồng nhập khẩu hàng hóa được phát sinh là hợp
đồng mua hàng của nước ngoài để đưa hàng đó vào Việt Nam nhằm phục
vụ cho sản xuất, chế biến, tiêu dùng trong nước. Hàng hóa được làm thủ
tục xuất khẩu và nhập khẩu. Đây là hai hình thức mua bán nổi bật nhất trong
MBHHQT Việt Nam.
Theo điều 29 luật thương mại Việt Nam loại hợp đồng tạm nhập, tái xuất
là hợp đồng xuất khẩu chính những hàng hóa mà trước kia đã nhập từ
nước ngoài, không qua tái chế biến hay sản xuất gì ở trong nước Việt Nam.
Tạm nhập, tái xuất là việc Việt Nam mua hàng của một nước để bán cho
một nước khác, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam và
làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hóa đó ra khỏi Việt Nam.
Như vậy thì, tạm nhập, tái xuất được thực hiện trên cơ sở hai hợp đồng riêng biệt:
hợp đồng mua hàng do Việt Nam ký với thương nhân nước xuất khẩu và hợp đồng bán
hàng do Việt Nam ký với thương nhân nước nhập khẩu.
Loại HĐMBHHQT tiếp theo là hợp đồng tạm xuất, tái nhập. Đây thực chất
là hợp đồng mua những hàng hóa do nước mình sản xuất mà trước kia đã
xuất ra nước ngoài. Việc tái nhập khẩu không có ý nghóa lớn trong ngoại
thương của các nước.
Loại cuối cùng là chuyển khẩu, đó là hợp đồng “mua hàng từ một nước,
vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ
Việt Nam mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm
thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam”
(12))
.
Hình thức chuyển khẩu cũng được thực hiện trên cơ sở hai hợp đồng riêng biệt:
hợp đồng mua hàng do Việt Nam ký với thương nhân nước xuất khẩu và hợp đồng bán
hàng do Việt Nam ký với thương nhân nước nhập khẩu.
Những hình thức trên của MBHHQT được qui định trong luật Việt Nam giúp ta
giải quyết được những vấn đề cơ bản xung quanh HĐMBHHQT như tên của hợp đồng
ln gắn liền với từng loại hình thức, những điểm đặc trưng trong mỗi hình thức phân
định quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ thể Việt Nam.
Tóm lại, giao dịch mua bán là hoạt động diễn ra thường xun trong đời sống xã
hội. Mua bán từ việc xuất phát do nhu cầu trao đổi tài sản phục vụ cuộc sống đến hoạt
động mua bán hàng hóa mang mục đích kinh doanh. Hoạt động mua bán có sự trao đổi
hàng hóa giữa các quốc gia đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và xã hội của các
nước trên thế giới. Cơng cụ pháp lý được sử dụng trong việc trao đổi hàng hóa này chính
(12)
Điều 30 Luật thuơng mại Việt Nam
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
11
là HĐMBHHQT. Có thể khẳng định rằng HĐMBHHQT giữ vai trò chủ đạo và là điều
kiện tiên quyết để diễn ra MBHHQT. HĐMBHHQT đóng vai trị quan trọng nhưng đồng
thời tính rủi ro trong khi thực hiện hợp đồng cũng rất lớn, để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro,
các chủ thể cần xây dựng một hợp đồng hợp pháp với đầy đủ chi tiết. Qua việc tìm hiểu
những vấn đề liên quan thì kết cấu hoàn chỉnh của một HĐMBHHQT theo luật Việt Nam
sẽ có yếu tố nước ngoài có tên gọi tương ứng với các hình thức MBHHQT theo điều 27
luật thương mại Việt Nam. Còn nội dung hợp đồng, trên cơ sơ nguyên tắc tôn trọng thỏa
thuận giữa các bên trong việc xác lập và thực hiện hợp đồng nên chủ thể hợp đồng thỏa
thuận điều khoản càng chi tiết thì càng đảm bảo được quyền và nghĩa vụ của mình nếu có
xảy ra tranh chấp. Luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế không qui định nội dung bắt
buộc, do đó phụ thuộc vào sự thương lượng của các bên nhằm đưa ra các điều khoản, tuy
nhiên Bộ luật dân sự Việt Nam có hướng dẫn một số nội dung cần thiết trong hợp đồng ở
điều 402. Dựa vào hường dẫn này ta thấy, thông thường, một HĐMBHHQT có những nội
dung dưới đây có thể được xem là đầy đủ và chi tiết:
* Phần mở đầu:
- Tên hợp đồng mua bán hàng hóa, ngày tháng ký hợp đồng.
- Tên, địa chỉ, các số máy điện thoại, Fax, Telex, E mail của bên bán và bên mua.
- Những thông tin về người đại diện ký kết.
Bên bán có hàng hóa muốn bán và bên mua chấp nhận mua hàng của bên bán thì sẽ
đi đến việc thỏa thuận những điều khoản trong phần nội dung:
* Phần nội dung:
- Tên hàng, số lượng, chất lượng hàng hóa.
- Giá cả.
- Phương thức giao hàng.
- Hình thức thanh toán.
- Bao bì và ký hiệu mã.
- Bảo hành.
- Phạt và bồi thường thiệt hại.
- Bảo hiểm.
- Các phương thức giải quyết tranh chấp và luật áp dụng cho hợp đồng.
- Một số điều khoản khác.
* Phần ký kết:
Đến đây, HĐMBHHQT đã được hoàn chỉnh, tồn tại dưới dạng văn bản chứa đựng
các điều khoản mà các bên thỏa thuận. Văn bản hợp đồng có giá trị pháp lý bắt buộc các
bên phải có trách nhiệm thực hiện các điều khoản mà đã thỏa thuận và ký kết trong hợp
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
12
đồng. Như vậy, xét về mặt tính chất pháp lý, HĐMBHHQT là một hợp đồng song vụ, có
bồi hồn và là một hợp đồng ước hẹn, các bên giao kết với nhau sẽ thực hiện nghĩa vụ của
mình đối với bên kia và có được những quyền tương ứng. Do đó, khi ký kết và thực hiện
hợp đồng các bên phải nắm được những quyền và nghĩa vụ cụ thể của mình nhằm thực
đúng những nghĩa vụ ấy tránh trường hợp vi phạm chính những điều mình đã cam kết,
đồng thời sử dụng quyền để u cầu đối tác thực hiện nghĩa vụ khi có dấu hiệu vi phạm từ
phía họ.
Quyền và nghĩa vụ các bên được phát sinh sau khi các bên ký hợp đồng. Nội dung
của hợp đồng là tồn bộ nghĩa vụ của họ xung quanh việc chuyển giao quyền sở hữu về
hàng hóa từ người bán sang người mua, xung quanh việc làm thế nào để người bán lấy
được tiền và người mua nhận được hàng…, phần nội dung của hợp đồng chính là phần
thể hiện rõ nhất. Hợp đồng được ký kết sẽ xác định được bên bán và bên mua, mỗi bên sẽ
thực hiện những nghĩa vụ của mình như đã thỏa thuận ở phần nội dung.
1.2 Quyền, nghĩa vụ của các bên trong HĐMBHHQT và căn cứ xác định vi
phạm hợp đồng:
1.2.1: Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên trong hợp đồng:
Hợp đồng được ký kết, quyền và nghóa vụ của các bên được xác lập,
từ đó các bên thực hiện đúng quyền và nghóa vụ của mình. Ý nghóa của
việc thực hiện đúng quyền và nghóa vụ của các bên tất cả đều nhằm mục
đích hoàn tất việc mua bán. Do vậy, luật Việt Nam cũng như các nước đều có
chung những qui đònh về quyền và nghóa vụ chủ yếu của các bên trong hợp
đồng.
1.2.1.1 Đối với bên bán:
Luật thương mại Việt Nam qui định “bên bán phải giao hàng, chứng từ
theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng
gói, bảo quản và các quy đònh trong hợp đồng”.
(13)
Giao hàng là nghóa vụ cơ
bản của người bán, nghĩa vụ giao hàng của người bán thể hiện qua việc người
bán phải giao đúng hàng, giao hàng đúng đòa điểm, thời gian, đúng số lượng
và chất lượng như đã giao kết trong hợp đồng.
Kết hợp với việc giao hàng thì người bán phải giao các giấy tờ liên
quan đến hàng hóa như giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, bảo hiểm hay
các giấy tờ hải quan nhằm đảm bảo cho việc kiểm tra hàng hóa và chuyển quyền sở
hữu cho bên mua. Tuy nhiên, người bán có thể giao trước hoặc sau khi giao hàng
tùy theo thỏa thuận các bên.
1.2.1.2 Đối với bên mua:
(13)
Điều 34 Luật thương mại Việt Nam
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
13
Trong q trình thực hiện hợp đồng, bên bán có nghĩa vụ giao hàng thì “bên mua
có nghĩa vụ nhận hàng”
(14)
và thanh tốn tiền hàng. Nghĩa vụ nhận hàng của người bán
được thể hiện qua việc sẵn sàng tiếp nhận hàng và tiếp nhận hàng. Sở dĩ có hành vi sẵn
sàng tiếp nhận hàng là vì động thái này thể hiện sự đảm bảo rằng bên mua đã có chuẩn bị
cho việc tiếp nhận hàng đây là cơ sở tin rằng bên mua chắc chắn sẽ tiếp nhận hàng của
bên bán theo đúng thời hạn giao nhận hàng qui định trong hợp đồng.
Còn đối với việc thanh toán tiền hàng thì đây là nghóa vụ bắt buộc của
người mua trong mua bán hàng hóa. Do đó, người mua phải thanh toán tiền
hàng theo đúng thời gian và đòa điểm đã ghi trong hợp đồng.
Như vậy, quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên mua bán khi thực hiện hợp đồng
là ngang bằng nhau, nghĩa vụ của bên bán là quyền lợi của bên mua và ngược lại. Và các
điều khoản trong phần nội dung của hợp đồng là cơ sở phân chia quyền và
nghóa vụ chủ yếu các bên.
Các bên sẽ phải thực hiện các quyền và nghóa vụ của mình sau khi
giao kết hợp đồng với nhau. Tuy nhiên, HĐMBHHQT dù được ký kết hoàn
chỉnh, chi tiết đến đâu, bản thân nó cũng không thể dự kiến, chứa đựng hay
bao gồm tất cả những vấn đề, những tình huống có thể phát sinh trong thực
tế. HĐMBHHQT như đã nói có khả năng rủi ro rất cao và chủ thể các bên
đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Vì vậy, xảy ra những tình huống thực
hiện không đúng theo hợp đồng do điều kiện khách quan hoặc do ý chí chủ
quan của các bên là khó tránh khỏi. HĐMBHHQT là một hợp đồng song vụ,
có bồi hoàn và là hợp đồng ước hẹn nên quyền của người này chính là
nghóa vụ của người kia. Khi họ thực hiện các nghóa vụ của mình theo như đã
thỏa thuận trong hợp đồng cũng là họ đang góp phần vào việc có được
quyền lợi của mình. Ngược lại, khi họ khơng thực hiện đúng nghĩa vụ của mình sẽ ảnh
hưởng đến quyền lợi của bên kia. Nếu xảy ra việc thực hiện không theo đúng như
hợp đồng thỏa thuận ban đầu của các bên đều có thể dẫn đến việc vi
phạm hợp đồng.
1.2.2 Căn cứ xác định vi phạm hợp đồng:
Vi phạm hợp đồng theo luật Việt Nam “là việc một bên không thực
hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghóa vụ theo
thỏa thuận giữa các bên”
(15)
. Vi phạm là việc không tuân theo hoặc làm
trái lại một điều đã được qui ước trước
(16)
, suy ra, việc không thực hiện, thực
hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghóa vụ theo thỏa thuận của
các bên được hiểu là các bên có hành vi trái với thỏa thuận trong hợp
đồng.
(14)
Điều 56 Luật thương mại Việt Nam
(15)
Điều 13 khoản 12 Luật thương mại Việt Nam.
(16)
Từ điển Tiếng Việt
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
14
Từ việc tìm hiểu khái niệm VPHĐ cho thấy vi phạm HĐMBHHQT xảy ra
khi một trong các bên có hành vi VPHĐ. Hành vi VPHĐ sẽ là việc một bên
có hành vi trái với thỏa thuận trong hợp đồng. Có nghóa là có hành vi trái
với nội dung của hợp đồng. Như đã đề cập, nội dung của hợp đồng là các
điều khoản chủ yếu của hợp đồng làm cơ sở để phân đònh quyền và nghóa
vụ các bên, ln tồn tại trong phần nội dung của hợp đồng. Do vậy, căn cứ xác
đònh hành vi VPHĐ dựa vào các điều khoản này. Nếu thực hiện nghóa vụ trái
với các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng thì chính là hành vi VPHĐ.
Vậy thì, hành vi VPHĐ xảy ra sau khi hợp đồng được ký kết. Khi hợp đồng đã
được hai bên thống nhất ký kết thì cơng việc hết sức quan trọng là tổ chức thực
hiện các hợp đồng đó. Khi thực hiện hợp đồng, bên bán và bên mua làm
nhiệm vụ chủ yếu của mình theo nghóa vụ qui đònh trong hợp đồng:
- Bên bán làm các việc để giao hàng và chứng từ cho người mua.
- Bên mua nhận hàng và trả tiền cho người bán theo hợp đồng.
Tuy nhiên, khi thực hiện hợp đồng các bên lại không thực hiện đúng
nghóa vụ của mình dẫn đến hành vi VPHĐ. Trong trường hợp này bên khơng thực
hiện đúng nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm của họ.
1.3 Trách nhiệm các bên khi có VPHĐ:
Vì HĐMBHHQT là một hợp đồng song vụ, quyền của người này (trái
chủ) là nghóa vụ của bên kia (thụ trái) nên việc VPHĐ của một bên ảnh
hưởng đến quyền lợi của bên kia. Do đó, bên gây ra vi phạm phải chòu trách
nhiệm về những thiệt hại đối với quyền lợi của trái chủ, điều này mang tính
chất chế tài rõ nét.
Vấn đề chòu trách nhiệm khi VPHĐ dẫn đến bên vi phạm phải chòu
những chế tài do pháp luật hoặc các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế
ấn đònh hoặc do các bên thỏa thuận trên cơ sở không trái với tinh thần
chung được ấn đònh. Về bản chất, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là dạng
cụ thể của trách nhiệm pháp lý phát sinh trong lónh vực mua bán hàng hóa.
Từ đây nhận thấy rằng, trách nhiệm do VPHĐMBHHQT có những đặc
điểm cơ bản là:
- Được áp dụng trên cơ sở hành vi VPHĐMBHHQT có hiệu lực pháp
luật.
- Nội dung gắn liền với việc thực hiện các nghóa vụ theo hợp đồng
hoặc trách nhiệm về tài sản.
- Do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng hoặc do bên bò vi phạm
áp dụng trên cơ sở pháp luật.
Vấn đề chòu trách nhiệm chỉ xảy ra khi có VPHĐ xảy ra. Vốn tính chất
là một loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm do vi phạm HĐMBHHQT được
áp dụng khi có những căn cứ do pháp luật qui đònh, chúng trở thành một loại chế
tài và được áp dụng khi có các yếu tố sau:
(17)
- Có hành vi vi phạm hợp đồng.
- Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra.
(17)
Giáo trình Luật thương mại - Trường Đại Học Cần Thơ – Th.s. Dương Kim Thế Ngun
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
15
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt
hại thực tế xảy ra.
- Có lỗi của bên vi phạm.
Các yếu tố vừa nêu sẽ liên quan trực tiếp đến việc xác định trách nhiệm của các
bên nhất là bên vi phạm hợp đồng. Bên gây ra vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm nếu như
hành vi vi phạm của mình làm xuất hiện các yếu tố trên. Việc xem xét cụ thể từng yếu tố
sẽ làm sáng tỏ vai trò của chúng trong việc xác định trách nhiệm đối với bên vi phạm.
1.3.1 Yếu tố về hành vi VPHĐ:
Như đã phân tích ở phần VPHĐ thì hành vi VPHĐ là căn cứ pháp lý
quyết định để áp dụng đối với tất cả các hình thức chế tài do VPHĐ vì chỉ khi
có hành vi VPHĐ xảy ra mới xét đến trách nhiệm các bên. Hành vi vi phạm
HĐMBHHQT là xử sự của các chủ thể hợp đồng không phù hợp với nghóa
vụ theo hợp đồng. Biểu hiện cụ thể của VPHĐ là việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghóa vụ theo hợp đồng.
Đặc biệt, trong quan hệ hợp đồng mua bán, các bên không chỉ phải
thực hiện những nghóa vụ thỏa thuận trong hợp đồng (ghi vào hợp đồng) mà
còn có thể phải thực hiện những nghóa vụ thỏa thuận theo qui đònh của pháp
luật (trong từ ngữ luật học thường gọi là nội dung thường lệ của hợp đồng
mua bán). Vì vậy, khi xem xét hành vi có vi phạm hợp đồng hay không, cần
phải căn cứ vào hợp đồng và các quy đònh về hợp đồng mua bán để việc xác
định trách nhiệm được rõ ràng, chính xác hơn.
1.3.2 Yếu tố có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra:
HĐMBHHQT mang mục đích kinh tế, vấn đề lợi nhuận được đặt lên
hàng đầu. Có thể nói, quyền lợi của các bên chính là các quyền lợi gắn
liền với các lợi ích kinh tế, gắn liền với lợi nhuận. Khi xảy ra VPHĐ và bên
gây ra vi phạm phải chòu trách nhiệm thì việc chòu trách nhiệm thường mang
tính vật chất và việc xác đònh mức độ thiệt hại của bên bò vi phạm cũng
thường dựa vào yếu tố có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra.
Thiệt hại vật chất thực tế do VPHĐ gây ra còn là căn cứ bắt buộc
phải có khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại khi VPHĐ. Đối với các
hình thức chế tài khác, thiệt hại thực tế có thể được coi là tình tiết để xác
đònh mức độ nặng, nhẹ của chế tài được áp dụng.
Thiệt hại thực tế được chia làm 2 loại là: thiệt hại trực tiếp và thiệt
hại gián tiếp.
- Thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế, có thể
tính toán một cách dễ dàng và chính xác. Biểu hiện cụ thể của thiệt hại
trực tiếp là tài sản bò mất mát, hư hỏng chi phí để ngăn chặn và hạn chế
thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra…
- Thiệt hại gián tiếp là thiệt hại dựa trên suy đoán khoa học (trên cơ sở
những chứng cứ, tài liệu) mới có thể xác đònh được. Biểu hiện cụ thể của
thiệt hại gián tiếp là thu nhập bò mất, bò giảm sút, khoản lợi đáng lẽ được
hưởng mà bên có quyền lợi bò vi phạm phải chòu.
(18)
(18)
Điều 305 luật Thương mại Việt Nam, khoản 2 điều 307 Bộ luật Dân sự Việt Nam
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
16
Về nguyên tắc, theo qui đònh của luật Việt Nam thì, bên bò vi phạm chỉ
được bồi thường (và bên vi phạm có nghóa vụ bồi thường) những khoản
thiệt hại trong phạm vi do pháp luật quy đònh. Những khoản thiệt hại này bao
gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục
thiệt hại, thu nhập thực tế bò mất hoặc bò giảm sút.
Đối với hợp đồng trong lónh vực thương mại, luật thương mại Việt Nam
và công ước CISG còn có điểm chung:
- Quy đònh về khoản thiệt hại do vi phạm phải chòu bao gồm giá trò tổn
thất thực tế, trực tiếp mà bên bò vi phạm chòu do bên vi phạm gây ra và cả
khoản lợi trực tiếp mà bên bò vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm xảy ra.
(19)
- Nếu bên vi phạm chậm thanh toán tiền thì bên bò vi phạm có quyền
yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn
trung bình tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.
(20)
1.3.3 Yếu tố có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi VPHĐ và
thiệt hại thực tế:
Yếu tố này xác đònh nhằm xác đònh bên có hành vi VPHĐ chỉ phải
bồi thường thiệt hại khi thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi vi
phạm hợp đồng.
Trên thực tế, một hành vi VPHĐ có thể gây ra nhiều khoản thiệt hại
và một khoản thiệt hại cũng có thể sinh ra nhiều hành vi VPHĐ. Trong khi
đó, các chủ thể hợp đồng, đặc biệt là các chủ thể kinh doanh, có thể cùng
một lúc tham gia nhiều quan hệ hợp đồng khác nhau. Vì vậy, việc xác đònh
chính xác mối quan hệ nhân quả giữa hành vi VPHĐ và thiệt hại thực tế
không phải bao giờ cũng dễ dàng: sẽ rất dễ nhầm lẫn nếu chỉ dựa vào suy
đoán chủ quan. Điều này đòi hỏi bên bò vi phạm khi đòi hỏi bồi thường
thiệt hại (cũng như các cơ quan tài phán khi quyết đònh áp dụng chế tài bồi
thường thiệt hại đối với bên vi phạm) phải dựa trên những chứng cứ rõ
ràng, xác thực và hợp pháp.
1.3.4 Yếu tố có lỗi của bên vi phạm:
Lỗi của bên VPHĐ là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng đối với
tất cả các hình thức chế tài do VPHĐ. Trong khoa học pháp lý, lỗi được hiểu
là trạng thái tâm lý và mức độ nhận thức của một người đối với hành vi
của họ và hậu quả của hành vi đó. Vấn đề trạng thái tâm lý và nhận
thức chỉ được đặt ra đối với các chủ thể là cá nhân hoặc tổ chức. Vì vậy,
khi xác đònh lỗi của chủ thể là tổ chức VPHĐ để áp dụng trách nhiệm hợp
đồng phải căn cứ dựa vào lỗi của người đại diện cho tổ chức đã giao kết
và thực hiện hợp đồng. Trách nhiệm hợp đồng được áp dụng theo nguyên
tắc lỗi suy đoán, theo đó mọi hành vi không thực hiện, thực hiện không
đúng hợp đồng đều bò suy đoán là có lỗi.
1.3.5 Thực chất của việc chòu trách nhiệm khi vi phạm:
(19)
Điều 77 công ước CISG, điều 305 Luật thng mại
(20)
Điều 306 Luật thương mại
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
17
Một HĐMBHHQT được xác lập, quyền và nghóa vụ các bên phát sinh
theo hợp đồng đó. Các bên trong hợp đồng tiến hành thực hiện các quyền
và nghóa vụ ấy cho nhau. Khi một bên có hành vi vi phạm hợp đồng, không
thực hiện đúng nghóa vụ của mình ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia thì
phải chòu trách nhiệm. Vấn đề chòu trách nhiệm dựa vào sự thỏa thuận
giữa hai bên trong hợp đồng hoặc dựa vào các qui đònh của pháp luật điều
chỉnh hợp đồng. Việc chòu trách nhiệm là một chế tài, mang tính trừng phạt,
được chế đònh trong các văn bản pháp luật hoặc do các bên tự thỏa thuận
dựa trên những chế đònh ấy. Nhưng suy cho cùng, việc chòu trách nhiệm là
nhằm mục đích bù đắp tổn thất cho bên bò vi phạm hoặc bò buộc thực hiện
đúng nghóa vụ của mình.
Vấn đề chòu trách nhiệm khi VPHĐ thực chất là các hình thức trách
nhiệm phải chòu. Cụ thể là
(21)
ø:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
- Phạt vi phạm.
- Buộc bồi thường thiệt hại.
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng.
- Huỷ bỏ hợp đồng.
1.4 Các nguồn luật điều chỉnh về hợp đồng, vi phạm và trách
nhiệm các bên trong HĐMBHHQT:
1.4.1: Các điều ước quốc tế về thương mại:
Một hợp đồng được ký kết sau đó các bên tiến hành thực hiện hợp
đồng, trong quá trình thực hiện xảy ra vi phạm dẫn đến việc chòu trách nhiệm
của các bên khi vi phạm xảy ra. Việc chòu trách nhiệm của các bên sẽ dựa
vào sự thỏa thuận trong hợp đồng để ưu tiên giải quyết. Những vấn đề
không được quy đònh hoặc quy đònh không đầy đủ trong hợp đồng, các bên
ký kết có thể dựa vào các điều ước quốc tế về thương mại. Do đó, điều
ước quốc tế về thương mại là nguồn luật đầu tiên của HĐMBHHQT.
Có hai loại điều ước quốc tế về thương mại liên quan đến việc điều
chỉnh HĐMBHHQT
(22)
:
- Loại thứ nhất đề ra những nguyên tắc pháp lý chung làm cơ sở cho
hoạt động ngoại thương nói chung và mua bán xuất nhập khẩu, mua bán quốc
tế nói riêng. Những điều ước quốc tế này (có thể là song phương hoặc đa
phương, khhu vực hoặc toàn câu không điều chỉnh các vấn đề về quyền,
nghóa vụ, trách nhiệm cụ thể của các bên trong HĐMBHHQT mà chỉ nêu
những nguyên tắc pháp lý có tính chất chỉ đạo.
(21)
Điều 292 Luật thương mị Việt Nam
(22)
Giáo trình Luật thương mại quốc tế - Trường Đại học Kinh tế quốc dân 2005.
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
18
Ví dụ như Hiệp đònh Thương mại song phương như Hiệp đònh Thương mại
Việt Nam – Hoa Kỳ hoặc các Hiệp đònh Thương mại đa phương như Hiệp đònh
GATT năm 1994, Hiệp đònh GATS/WTO (Việt Nam là thành viên chính thức
vào năm 2007) trong đó các quốc gia ký kết đưa ra những nguyên tắc: Tối
huệ quốc về thương mại (Most – Favoured – Nation), nguyên tắc có đi có lại về
thương mại, nguyên tắc đối xử quốc gia…Loại điều ước này chỉ điều chỉnh
gián tiếp các HĐMBHHQT.
- Loại điều ước quốc tế về thương mại thứ hai là những điều ước
quốc tế trực tiếp điều chỉnh những vấn đề liên quan đến quyền hạn, nghóa
vụ và trách nhiệm của bên bán và bên mua trong việc ký kết và thực hiện
HĐMBHHQT. Loại này đóng vai trò quan trọng, giúp các bên có thể giải
quyết những vấn đề về trách nhiệm phát sinh từ việc vi phạm hợp đồng.
Ví dụ về các loại này có thể dẫn ra công ước Viên (CISG) năm 1980
về HĐMBHHQT, công ước La-Haye 1964 về HĐMBHHQT (cả hai công ước
này Việt Nam đều chưa gia nhập ), văn bản Nguyên tắc Hợp đồng thương mại
quốc tế 1994 viết tắt theo tên tiếng Anh là PICC (Principles of International
Commercial Contracts). của Viện thống nhất Tư pháp quốc tế… trong đó có
quy đònh quyền và nghóa vụ của các bên, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng…
Những quy phạm pháp luật của điều ước quốc tế là những quy phạm
luật thực chất đã được các quốc gia thống nhất. Do vậy, dựa vào điều ước
quốc tế, các chủ thể của hợp đồng dù ở các nước khác nhau, có thể sẽ
có một sự hiểu thống nhất trong việc giải quyết mâu thuẫn phát sinh, tiết
kiệm thời gian. Song hiện nay, đối với Việt Nam chúng ta, vì nước ta chưa ký
nhiều điều ước quốc tế nên điều ước quốc tế về thương mại với ý nghóa
là nguồn lực điều chỉnh HĐMBHHQT chưa phát huy thật sự phát huy vai trò
của nó.
1.4.2. Luật quốc gia:
Pháp luật quốc gia với tư cách là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hóa của quốc gia đó. Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế trong các trường hợp sau:
- Khi các bên ký kết hợp đồng thỏa thuận trong điều khoản luật áp dụng cho hợp
đồng là luật quốc gia của một nước cụ thể.
- Khi xuất phát từ ngun tắc xung đột ph1p luật. Ví dụ: các bên khơng thỏa thuận
luật áp dụng thì luật áp dụng cho hợp đồng sẽ là luật của quốc gia ở nơi hợp đồng được
thực hiện hay luật có quan hệ mật thiết với hợp đồng…
Theo pháp luật Việt Nam thì các qui đònh về hợp đồng được quy định tại Bộ
luật dân sự 2005 (BLDS), Luật thương mại 2005 (LTM), Bộ luật hàng hải 2005,…
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
19
1.4.3. Tập quán quốc tế về thương mại:
Tập q quốc tế là những qui tắc xử sự phổ biến được hình thành lâu đời trong
thực tiễn hoạt đồng thương mại quốc tế. Như vậy, tập qn thương mại có các dấu hiệu
sau:
- Là những quy tắc xử sự được hình thành từ lâu đời;
- Có tính phổ biến, tức là được áp dụng rộng rãi trong những hồn cảnh tương tự.
Theo ngun tắc, bản thân của tập qn thương mại quốc tế khơng có hiệu lực
pháp lý như một quy phạm pháp luật, nó chỉ có hiệu lực trong những trường hợp cụ thể do
luật định.
Trong thực tiễn, tập qn thương mại quốc tế có hiệu lực pháp lý trong những
trường hợp sau:
- Thứ nhất, quốc gia của các chủ thể của hợp đồng cơng nhận bằng văn bản hiệu
lực của tập qn thương mại quốc tế như là của quy phạm pháp luật.
- Thứ hai, đó là ý chí của các bên, tức là các bên thỏa thuận áp dụng tập qn và
đưa chúng vào hợp đồng. Điều này có nghĩa là căn cứ của việc sử dụng tập qn thương
mại là ý chí của các bên. Trường hợp này phổ biến trong HĐMBHHQT, tập qn được
các bên sử dụng là các ấn bản Incoterms (International Commercial Terms – tạm dịch là
“Các điều kiện thương mại quốc tế”), do Phòng thương mại quốc tế (International
Chamber of Commerce – ICC) soạn thảo và ban hành.
Ngồi ra, tập qn thương mại quốc tế được áp dụng trong những tur7ờng hợp mặc
dù các bên khơng có thỏa thuận về việc áp dụng nó trong hợp đồng, tuy nhiên tập q
được tòa án hay trọng tài cơng nhận với tư cách là nguồn điều chỉnh quan hệ giữa các bên
theo hợp đồng xuất phát từ hòan cảnh cụ thể của vụ việc.
Tập quán quốc tế về thương mại được chia thành hai loại
(23)
:
- Tập quán thương mại quốc tế chung: là các tập quán thương mại được
nhiều nước công nhận và được áp dụng ở nhiều nơi, nhiều khu vực. Ví dụ
như: các Điều kiện Thương mại Quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế tập
hợp và soạn thảo ( gọi tắt là Incoterms 1953 -1980 – 1990 – 2000) trong đó quy
đònh các điều kiện thương mại khác nhau (như điều kiện FOB, CIF…) được rất
nhiều nước trên thế giới thừa nhận và áp dụng.
- Tập quán thương mại khu vực (đòa phương): là các tập quán thương mại
quốc tế được áp dụng ở từng nước, từng khu vực hoặc từng cảng. ví dụ,
Hoa Kì cũng có điều kiện giao hàng FOB, nhưng theo điều kiện FOB Hoa Kì,
(23)
Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế - TS Hồng Ngọc Triết – NXB Chính Trị quốc gia Hà Nội, 2002
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
20
nghóa vụ của người bán sẽ nặng hơn nhiều (như người bán phải thuê tàu hộ
người mua) so với nghóa vụ của người bán FOB trong Incoterms 2000. Bên cạnh
đó có những tập qn khu vực riêng biệt, chỉ có ở một địa phương và những nơi khác
khơng được áp dụng, tập qn này thường phát sinh do điều kiện thiên nhiên hay kinh tế
xã hội ở nơi đó.
1.4.4 Hợp đồng mẫu:
Trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, ngoại tập qn thương mại trong
nhiều trường hợp những phương tiện khác cũng được các bên áp dụng nhằm hỗ trợ cho
việc ký kết và thực hiện hợp đồng như:
- Hợp đồng mẫu;
- Những điều kiện chung của giao dịch;
- Những chỉ dẫn ký hợp đồng.
Mặc dù theo bản chất, hợp đồng mẫu hạn chế tự do của các bên trong việc xác định
điều kiện của hợp đồng, nhưng chính sự tự do của các bên trong việc xác định điều kiện
của hợp đồng là cơ sở để xây dựng các hợp đồng mẫu. Trên phiếu ghi hợp đồng mẫu có
văn bản của hợp đồng và có một số điều khoản đã được điền vào (tên gọi, địa chỉ của các
bên, giá, thời hạn giao hàng, mơ tả hàng hóa…) và hợp đồng này có hiệu lực khi các bên
ký lên phiếu
(24)
:
- Những điều kiện chung của giao dịch có thể được coi là một phần của hợp đồng
bằng cách việc dẫn đến những điều kiện chung này trong văn bản hợp đồng.
- Trong “những chỉ dẫn ký kết hợp đồng” có các phương án khác nhau của văn bản
hợp đồng, những phương án nói trên chỉ có tính chất hướng dẫn ký kết hợp đồng.
Thơng thường, hợp đồng mẫu được soạn thảo bởi những chủ thể có uy tín trong
hoạt động thương mại quốc tế, hay bởi những hiệp hội chun nghiệp của các chủ thể của
thương mại quốc tế. Hiện nay, nhiều hợp đồng mẫu và điều kiện chung của giao dịch
được Ủy ban kinh tế Châu Âu trực thuộc Liên hiệp quốc soạn thảo. Ví dụ, hợp đồng mẫu
mua bán ngũ cốc 1957, 1958, 1961; điều kiện chung của việc xuất khẩu hàng hóa đầu tư
1955, 1957; điều kiện chung của việc xuất và nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng có thời gian
sử dụng dài 1962…
1.4.5 Án lệ:
Ít được sử dụng trong ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Thơng thường, án lệ được sử dụng trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
mà củ thể của hợp đồng là các bên thụơc hệ thồng pháp luật Anh – Mỹ.
(24)
Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế - TS Lê Thị Bích Thọ, Dương Anh Sơn – NXB ĐHQG TPHCM
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
21
Hiện nay có xu thế chung là có sự hài hòa giữa hai hệ thống pháp luật. Ở các nước
thụôc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa đã bắt đầu tham khảo án lệ khi giải quyết tranh
chấp hợp đồng”.
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
22
CHƯƠNG 2: CÁC HÀNH VI VI PHẠM HỢP ĐỒNG VÀ VIỆC CHỊU TRÁCH
NHIỆM ĐỐI VỚI CÁC BÊN:
2.1 Các hành vi vi phạm hợp đồng:
Như đã tìm hiểu những nội dung về vi phạm hợp đồng, hành vi vi phạm hợp
đồng đều liên quan đến việc không thực hiện hợp đồng của các bên trong
HĐMBHHQT. Bên vi phạm là bên không hoàn thành một hay nhiều nghĩa vụ của
mình trong hợp đồng, kể cả việc thực hiện không đúng quy cách, thực hiện chậm hoặc
hoàn toàn không thực hiện hợp đồng dẫn đến hậu quả là vi phạm hợp đồng xảy ra.
Đây cũng là cách hiểu thống nhất trong thương mại quốc tế, vì cách lý giải
trong bộ Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế (PICC)
(25)
cũng tương tự. Theo lý
giải của PICC thì việc “không thực hiện hợp đồng” liên quan đến hai đặc tính:
- Trước tiên, việc “không thực hiện hợp đồng” được định nghĩa gồm tất cả các
hình thức có thực hiện nhưng không đúng như giao kết cũng như hoàn toàn không
thực hiện và nếu một HĐMBHHQT, một phần theo đúng hợp đồng và một phần
không theo đúng hợp đồng hoặc hoàn thành trễ thì đều bị coi là VPHĐ (không thực
hiện hợp đồng).
- Đặc tính thức hai là khái niệm “không thực hiện hợp đồng” bao gồm cả việc
không thực hiện được miễn trừ trách nhiệm hay không được miễn trừ trách nhiệm.
Nếu là do lỗi của bên vi phạm nhưng việc không thực hiện được miễn trách dẫn đến
bên kia không có quyền đòi bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu bên này phải thực hiện
một nghĩa vụ cụ thể nào. Tuy vậy, khi bên này được miễn trách về việc không thực
hiện thì bên kia vẫn có quyền chấm dứt hợp đồng.
Trong HĐMBHHQT, việc thực hiện không đúng theo hợp đồng là mấu chốt
xác định có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra. Việc xác định mấu chốt này không kém
phần phức tạp, do đó xác định như thế nào là không thực hiện đúng theo hợp đồng
luôn được qui định trong các văn bản luật về thương mại của mỗi nước đồng thời qui
định nhiều trong các điều ước về MBHHQT. Qui định phổ biến về nội dung này giúp
ta nhận thấy được đặc điểm tương đồng ở các văn bản về nội dung của hành vi vi
phạm. Điểm chung lớn nhất là khi xét hành vi VPHĐ đều liên quan nội dung của hợp
đồng, đến các điều khoản của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ các bên khi thực hiện hợp
đồng. Và việc vi phạm chính là không thực hiện đúng với những gì đã thoả thuận trong
các điều khoản, không thực hiện đúng những nghĩa vụ mình đã cam kết. Biểu hiện ở
việc thực hiện không đúng những điều khoản của hợp đồng là thực hiện không đúng
(25)
Principles of Tnternational commercial Contracts – Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của
UNIDROIT
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
23
những nghĩa vụ đối với đối tượng của hợp đồng, điều kiện giao hàng hay phương thức
thanh toán.
2.1.1 Vi phạm đối với đối tượng của hợp đồng:
Nhóm đối tượng của hợp đồng liên quan đến các điều khoản tên hàng, số lượng,
chất lượng… của hàng hoá mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Trong mua bán hàng hóa quốc tế, mỗi một loại sản phẩm đều có tên gọi riêng,
có chất lượng xác định với một số lượng nhất định. Mua bán hàng hóa quốc tế khác
với việc mua bán nhỏ lẻ bình thường trong nước. Hàng hóa trong mua bán quốc tế
thường với số lượng lớn và phải thông qua một quá trình vận chuyển. Do vậy, sai sót ở
điều khoản này rất dễ xảy ra. Sai sót dẫn đến vi phạm ở nhóm điều khoản về đối tượng
là việc giao hàng không đúng tên gọi, không đúng số lượng hay không đúng chất
lượng hàng hóa đã thỏa thuận.
Giao hàng không đúng tên gọi được xác định là vi phạm hợp đồng, khi đó hàng
được giao không đúng với tên hàng đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Tên hàng
được thỏa thuận có thể gồm nhiều vấn đề như thỏa thuận tên thông thường, tên thương
mại, tên khoa học (thường áp dụng cho các loại hóa chất, giống cây…), tùy từng
trường hợp các bên có thể đưa ra tên hàng kèm theo các đặc điểm về mẫu mã, đẳng
cấp, loại, thương hiệu,…Thậm chí, khi bên mua muốn loại hàng hóa được sản xuất ở
một địa phương, một nhà sản xuất cụ thể nào đó nên nêu rõ cả chúng vào đây. Bên bán
giao hàng không đúng với một trong những thỏa thuận trên đều bị xem là vi phạm hợp
đồng.
Chất lượng là điều khoản nói lên mặt “chất” của hàng hóa mua bán, qui định
tính năng, qui cách, kích thước, tác dụng, công suất, hiệu suất của hàng hoá đó. Xác
định cụ thể phẩm chất của sản phẩm là cơ sở để xác định giá cả. Do vậy, xác định điều
kiện phẩm chất tốt, dẫn đến xác định giá cả tốt, đúng và mua được hàng hóa đúng yêu
cầu của mình. Do đó, việc giao hàng không đạt chất lượng sẽ là vi phạm cơ bản trong
việc thực hiện hợp đồng, bên vi phạm buộc phải chịu những trách nhiệm nặng nề. Xác
định vi phạm đối với chất lượng hàng hóa liên quan đến rất nhiều khía cạnh. Tùy từng
trường hợp các bên thỏa thuận, vi phạm chất lượng hàng hóa có thể xảy ra khi giao
hàng không đúng mẫu, không đúng tiêu chuẩn nhãn hiệu hay hàm lượng trong sản
phẩm không đạt tiêu chuẩn về an toàn…
Khi xét về vi phạm trong chất lượng chẳng những liên quan đến nhiều khía
cạnh, nhiều nội dung mà còn rất khắt khe. Cụ thể là khi việc giao hàng hoá có những
ký hiệu, hình vẽ,… đúng với nhãn hiệu đã thoả thuận nhưng ngày sản xuất, hạn sử
dụng khác với thỏa thuận vẫn bị xem là vi phạm cho dù hàng được giao vẫn còn hạn
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
24
sử dụng. Lý do ở đây là những sản phẩm được bán ở những thời điểm khác nhau có
thể có chất lượng khác nhau nên giá cả cũng khác nhau.
Ví dụ: Giao kết hợp đồng khi bên mua đặt hàng là đồ hộp có ngày sản xuất là
10.10.2009, giao hàng là 01.2010, hạn sử dụng 3 năm kể từ ngày sản xuất
(10.10.2012). Tuy nhiên, đồ hộp được giao có ngày sản xuất là 05.05.2009 có thể bị
xem là vi phạm hợp đồng nếu như bên mua không chấp nhận lô hàng này vì hạn sử
dụng bị rút ngắn thời gian (05.05.2011) ảnh hưởng đến việc tiêu thụ ra thị trường của
bên mua…
Việc giao hàng tương tự, hàng cùng loại nhưng khác công ty sản xuất nếu
không được bên mua chấp nhận vẫn bị xem là VPHĐ trong việc giao hàng không đúng
nhãn hiệu.
Tuy nhiên, bên xuất khẩu thường thỏa thuận với qui định mềm dẻo trong điều
khoản chất lượng để không quá khắt khe trong điều kiện về chất lượng, vì đôi khi có
những sai sót không thể nào tránh khỏi, ví dụ như:
- Chất lượng của hàng giao tương đương hoặc gần như hàng mẫu: Qui định này
có thể giúp cho bên xuất khẩu tránh được trách nhiệm khi hàng giao có chất lượng
khác với hàng mẫu một chút.
- Sai số chất lượng cho phép: Tùy từng loại hàng hóa các bên có thể thỏa thuận
mức sai số. Tất cả các hàng hóa thuộc phạm vi sai số chất lượng, bên nhập khẩu không
được từ chối nhận hoặc yêu cầu điều chỉnh giá.
Một khi các bên đã thỏa thuận những tiêu chuẩn chất lượng tương đối và cho
phép xảy ra những sai sót nhỏ thì bên bán sẽ tránh được những vi phạm mà thực tế
không phải họ muốn, như vậy sẽ công bằng hơn cho các bên.
Còn đối với việc xem xét giao hàng không đúng số lượng thì đây là hành vi vi
phạm dễ nhận thấy nhất. Bất kỳ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nào cũng đều xác
định rõ số lượng hàng hóa được mua bán. Số lượng nhằm nói lên mặt “lượng” của
hàng hoá được giao dịch. Vấn đề vi phạm sẽ xảy ra khi giao hàng không đúng số
lượng đã thoả thuận. Số lượng xác định cụ thể, rõ ràng theo đơn vị đo lường quốc tế.
Đơn vị tính số lượng có thể là mét, lít, tấn , tuỳ theo loại hàng hoá. Rất dễ nhận thấy
vi phạm trong trường hợp điều khoản hợp đồng thoả thuận dứt khoát về số lượng như
1000 mét vải hay 1000 xe gắn máy
Ở vấn đề số lượng hàng hóa cũng có một điểm lưu ý tương tự nội dung chất
lượng hàng hóa. Đó là đối với một số hàng hóa có độ tiêu hao nhất định trong quá
trình vận chuyển thì các bên thường thỏa thuận về độ co giãn của số lượng. Độ co giãn
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
25
ở mức hợp lý và thường sử dụng tỷ lệ %. Qui định này có lợi cho bên bán nhưng cũng
không quá thiệt thòi cho bên mua, nếu tỷ lệ co giãn ở mức hợp lý. Tỉ lệ % này do các
bên thoả thuận, trong một số trường hợp chịu sự khi phối của nguyên tắc thương mại
quốc tế về hao hụt (ví dụ như mua bán xăng dầu). Thoả thuận này cũng được dùng khi
mua hàng hoá có khối lượng lớn như phân bón, ngũ cốc không thể đếm nguyên chiếc
hay nguyên cái được. Việc xác định vi phạm không phải chỉ là việc tính toán xem đã
đúng bao nhiêu tấn, lít mà trong trường hợp này có qui ước về sự hao hụt hay cho phép
chênh lệch mà không phải chịu vi phạm.
Ví dụ như gạo được phép chênh lệch 5% số lượng (áp dụng qui ước dung sai
đối với ngũ cốc). Thoả thuận giao 1 tấn gạo được phép chênh lệch 5% thì giao 950kg
hay 1050kg không xem là vi phạm.
Tiêu chuẩn về qui cách đóng gói cũng được đánh giá để xem xét có vi phạm
xảy ra không. Hàng hóa thường được đóng gói trong bao bì gồm hai loại bao bì là bao
bì vận chuyển và bao bì lưu thông (bao bì tiêu thụ). Bao bì không chỉ được sử dụng để
bảo vệ hàng hóa trong quá trình vận chuyển, mà trong nhiều trường hợp (đặc biệt đối
với bao bì lưu thông) còn là sự bắt buộc của pháp luật. Qui cách đóng gói có rất nhiều
qui định và chúng phù hợp với từng mặt hàng mua bán cụ thể. Vi phạm ở nội dung này
chỉ là việc xác định cách đóng gói của sản phẩm không đúng với qui định của pháp
luật hoặc không đúng với cách thức mà các bên đã thỏa thuận.
2.1.2 Vi phạm trong điều kiện giao hàng: Xác định vi phạm dựa vào điều
khoản giao hàng mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng là việc xác định vi phạm
trong các điều khoản về: thời hạn, địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng và
thông báo giao hàng.
Thời hạn giao hàng là thời hạn mà người bán phải đem hàng đến giao và hoàn
thành nghĩa vụ trong giao hàng. Không giao hàng trong thời gian đã thoả thuận thì bị
xem là VPHĐ. Tùy theo thỏa thuận cụ thể của các bên ta có một số cách thỏa thuận
phổ biến. Đó là khi thời hạn giao hàng được xác định cụ thể:
- Hoặc vào một ngày cố định,
- Hoặc một ngày được coi là ngày cuối cùng của thời hạn giao hàng: không
chậm quá ngày tháng năm
- Hoặc bằng một khoảng thời gian tính bằng quý
- Hoặc bằng một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo sự lựa chọn của người
mua. Ví dụ: tháng 1 ký hợp đồng, thời gian giao hàng qui định từ tháng 2 đến tháng 7
tuỳ người mua chọn.
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
26
Nếu như các bên thỏa thuận một trong các trường hợp trên thì vi phạm thời hạn
giao hàng xảy ra khi bên bán không giao hàng đúng hạn, giao hàng trễ, hoặc không
giao hàng hay chính là hành vi VPHĐ đối với điều khoản về điều kiện giao hàng.
Vi phạm ở điều khoản này buộc các bên phải chú ý khi thỏa thuận về thời gian
giao hàng. Vì khi không cụ thể thì dễ phát sinh vi phạm. Có trường hợp người bán giao
hàng không đúng thời gian thỏa thuận nhưng là giao sớm thì người mua vẫn được
quyền lựa chọn hoặc chấp nhận hoặc từ chối việc giao hàng đó.
(26)
(khoản 1 điều 52
CISG). Có thể không xem là vi phạm hợp đồng trong trường hợp này nhưng việc giao
hàng sớm của bên bán mà bên mua từ chối tiếp nhận thì hao tốn về thời gian và tiền
bác là những bất lợi bên bán phải gánh chịu.
Khi xác định những hành vi vi phạm trong điều kiện giao hàng thì điều khoản
về địa điểm giao hàng buộc “bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm đã thỏa
thuận”
(27)
. Qui định của luật xác định rõ nhiệm vụ của bên bán khi thực hiện nghĩa vụ
giao hàng, do đó nếu bên bán không giao hàng đúng địa điểm đã thỏa thuận thì bị xem
là vi phạm hợp đồng. Địa điểm giao hàng sẽ được các bên bàn bạc trong hợp đồng, có
thể là thỏa thuận cụ thể hoặc dựa trên qui định của luật một quốc gia hay qui ước của
tập quán quốc tế.
Việc xác định địa điểm giao hàng làm căn cứ để xem xét có VPHĐ thường
không quan trọng ở mục đích xem bên kia có giao hàng sai địa điểm hay không vì
không bên bán nào khi đã thoả thuận rõ ràng trong hợp đồng về địa điểm giao hàng lại
chở hàng đến một địa điểm khác để giao, vừa không được lợi ích gì vừa dễ bị buộc
giao hàng không đúng thời gian, không đúng địa điểm. Mà việc xác định địa điểm giao
hàng có ý nghĩa quan trọng ở việc xác định thời điểm chuyển rủi ro của hàng hoá từ
người bán sang người mua nhằm phân chia trách nhiệm của các bên trong trường hợp
hàng hoá bị mất mát, hư hỏng…
Bên cạnh đó, việc xác định địa điểm giao hàng ảnh hưởng quan trọng đến bên
nhận hàng khi nghĩa vụ của bên mua phải có hành vi sẵn sàng tiếp nhận hàng tại địa
điểm giao hàng này. Có nghĩa là bên nhận hàng phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết
để nhằm sẵn sàng tiếp nhận hàng khi hàng đến. Nguyên nhân này ít xảy ra nhưng có
trường hợp bên giao hàng tuyên bố huỷ hợp đồng do bên nhận hàng VPHĐ về điều
khoản giao nhận hàng. Tuyên bố huỷ hợp đồng này dựa vào việc bên giao hàng thấy
rằng bên nhận không có động thái gì là việc chuẩn bị nhận hàng khi hàng của mình
được mang đến địa điểm giao hàng, cụ thể như chưa chuẩn bị phương tiện vận tải để
(26)
Điều 52 khoản 1 CISG
(27)
Khoản 1 điều 37 luật thương mại
Đề tài: Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và trách nhiệm các bên
GVHD: Th.s Diệp Ngọc Dũng SVTH: Nguyễn Hồng Phát
27
bốc dỡ hàng, chưa chuẩn bị kho bãi cho việc nhập hàng. Trong trường hợp này bên
giao hàng có thể tuyên bố bên nhận hàng vi phạm hợp đồng ngay cả khi bên giao hàng
chưa đưa hàng đến hay tuyên bố sau khi bên giao hàng đến mà không thấy bên nhận
hàng đến nhận. Nội dung này là hoàn toàn phù hợp vì bên bán có những cơ sở cho
rằng quyền lợi của mình bị ảnh hưởng do bên nhận chưa sẵn sàng tiếp nhận hàng. Tuy
nhiên, qui định này chỉ được điều chỉnh ở công ước, luật Việt Nam chưa đề cập đến.
“Nếu trước ngày quy định cho việc thi hành hợp đồng, mà thấy hiển nhiên rằng một
bên sẽ gây ra một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng, bên kia có thể tuyên bố hợp đồng bị
hủy”
(28)
Nếu như hàng được giao đúng thời hạn và địa điểm không xảy ra vi phạm thì
việc giao nhận hàng thường sẽ được diễn ra tại địa điểm giao hàng và các bên tiến
hành giao nhận, kiểm định hàng, thanh toán và kết thúc hợp đồng. Việc các bên qui
định cụ thể về chất lượng và số lượng hàng hóa là cần thiết và bắt buộc để bảo đảm
quyền lợi cho các bên. Tuy nhiên, làm thể nào để xác định hàng hóa phù hợp với chất
lượng và số lượng được mô tả trong hợp đồng, các bên cần phải có cơ chế kiểm định
hàng hóa. Về cơ bản, điều khoản kiểm nghiệm hàng hóa được vận dụng để các bên
giao nhận sơ bộ, bên mua bước đầu xem xét hàng hoá, xác định sự phù hợp về số
lượng, chất lượng hàng so với hợp đồng, kiểm tra xem bên bán có giao hàng đúng với
hợp đồng không. Thường được tiến hành ở ngay địa điểm sản xuất hàng hóa hoặc nơi
gửi hàng. Trong giao nhận sơ bộ, nếu có điều gì thì người mua yêu cầu khắc phục
ngay. Nếu hàng hóa đã được đã được kiểm định xong các bên đi đến giao nhận cuối
cùng, bên mua xác nhận việc người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.
Ở giai đoạn giao nhận này bên mua có nghĩa vụ phải tiến hành kiểm định hàng
và nếu bên mua không thực hiện quyền của mình thì việc xác định đây là hành vi vi
phạm cũng ít được xem xét tuy nhiên quyền lợi của bên mua có thể bị ảnh hưởng vì
nếu hàng hóa được giao không đúng như thỏa thuận thì bên mua không có cơ sở gán
trách nhiệm cho bên mua được.
Với phương thức giao hàng thì việc xác định vi phạm dựa vào yếu tố này không
có vai trò quan trọng. Hàng hoá được giao nhận thì các bên sẽ tiến hành kiểm tra và
đối chiếu lại với nhau, không có lý do gì mà phương thức giao hàng lại là nguyên nhân
vi phạm hợp đồng mà nó chỉ là hình thức diễn ra việc kiểm tra hàng hoá để xem có vi
phạm xảy ra đối với hàng hoá hay không mà thôi. Ví dụ như kiểm tra để xem có việc
vi phạm hợp đồng do giao hàng không đúng chất lượng hay không Do vậy, kiểm
định đóng vai trò quan trọng trong phương thức giao hàng để xác định yếu tố vi phạm
(28)
Điều 72 công ước CISG