Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.23 KB, 19 trang )

BẢN ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HỒN THÀNH CƠNG VIỆC
1. Phân cơng cơng việc:



Soạn đề cương, tìm tài liệu: cả nhóm
Viết bài:
+ Phần I: Hồng Hà
+ Phần II: Minh Tâm và Mỹ Ngôn
+ Phần III: Mỹ Ngôn và Hồng Hà
+ Phần IV: Phương Dung
− Tổng hợp bài viết và chỉnh sửa: Phương Dung và Minh Tâm
2. Đánh giá:


Tất cả các thành viên đều tham gia các buổi họp nhóm đầy đủ, hoàn thành đúng tiến độ và
giúp đỡ nhau hoàn thành công việc với tinh thần trách nhiệm cao.
− Mỗi phần bài làm của từng người đều có sự góp ý bổ sung của những thành viên cịn lại
trong nhóm.
3. Kết luận:


Nhìn chung tất cả các thành viên đều thực hiện tốt cơng việc của mình trên cơ sở tự tìm tịi và
sự giúp đỡ của các bạn trong nhóm.
Người lập
Nguyễn Thị Hồng Hà

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 1


MỤC LỤC


Lời mở đầu .......................................................................................................................trang 3
I. Khái quát chung về bảo hiểm phi nhân thọ ..................................................................trang 4
1. Định nghĩa .......................................................................................................trang 4
2. Phân loại các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ ..............................................trang 4
3. Tính đặc trưng riêng của của bảo hiểm phi nhân thọ .......................................trang 5
II. Tổng quan thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam từ 2006 đến nay ...................trang 6
III. Khái quát về trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ ............................................................trang 10
1. Khái niệm về trục lợi bảo hiểm .....................................................................trang 10
2. Nguyên nhân và hậu quả của trục lợi bảo hiểm .............................................trang 10
3. Các hình thức trục lợi bảo hiểm .....................................................................trang 11
4. Giới thiệu biện pháp phòng chống trục lợi đối với bảo hiểm y tế .................trang 15
IV. Các biện pháp phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ ....................................trang 17
1. Về mặt pháp lí ................................................................................................trang 17
2. Về phía cơng ty bảo hiểm ..............................................................................trang 17
Tài liệu tham khảo .........................................................................................................trang 19

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 2


LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm ra đời và phát triển xuất phát từ nhu cầu khách quan của nền kinh tế xã hội.
Ngày nay, hoạt động bảo hiểm không ngừng phát triển, trở thành một dịch vụ đóng vai trị
quan trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, việc xây dựng và phát triển một nền
kinh tế theo cơ chế thị trường, hội nhập với kinh tế thế giới đã tạo tiền đề nảy sinh, phát triển
mạnh mẽ các nhu cầu đảm bảo bảo hiểm, đồng thời tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc cho sự
hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường bảo hiểm. Tuy nhiên, một vấn nạn lớn của
ngành bảo hiểm, phát sinh từ khi khai sinh ra nghề bảo hiểm và tồn tại gây nhức nhối trên cơ
thể của mỗi DNBH đó chính là: Trục lợi bảo hiểm.
Hiện nay, trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam chỉ ở mức tự phát của một số cá nhân chứ
chưa phát triển thành tổ chức, tuy nhiên, điều này cũng không làm giảm bớt những tác động

“xấu xí” và “méo mó” của nó tới sự phát triển của cả thị trường bảo hiểm. Bên canh đó, vì
trình độ quản lý, tập qn kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam chưa theo đúng chuẩn mực thị
trường, luật pháp chưa có chế tài hình sự, hành chính đủ mạnh để khắc chế vấn nạn này nên
càng khiến trục lợi bảo hiểm diễn biến nghiêm trọng hơn.Đặc biệt trục lợi trong lĩnh vực bảo
hiểm phi nhân thọ, thời gian gần đây đã gánh chịu nhiều tổn thất và thiếu các biện pháp khắc
phục.
Nhận thức được tầm quan trọng của đề tài “Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi
nhân thọ”, nhóm chúng em trên cơ sở các kiến thức cơ bản được học, đã cố gắng tìm hiểu
thêm, so sánh, đánh giá và nêu lên một số giải pháp đối phó với vấn nạn trục lợi bảo hiểm phi
nhân thọ.
Do cịn có sự hạn chế về kiến thức cũng như nguồn tài liệu liên quan, nhóm khơng
tránh khỏi cịn nhiều sai sót trong q trình thực hiện đề tài. Mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của thầy để bài viết được hồn thiện hơn.

Phịng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 3


I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1. Định nghĩa:
Bảo hiểm là một sự thỏa thuận hợp pháp thơng qua đó một cá nhân hay tổ chức (Người
tham gia bảo hiểm) chấp nhận đóng góp một khoản tiền nhất định (Phí bảo hiểm) cho tổ
chức khác (Người bảo hiểm) để đổi lấy những cam kết về những khoản bồi thường hoặc chi
trả khi có sự kiện quy định trong hợp đồng xảy ra.
Theo Luật kinh doanh Bảo hiểm số 24/2000/QH10:


Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH
chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm
để DNBH trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

− Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống
hoặc chết.
− Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp
vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ.
2. Phân loại các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ
2.1. Theo đối tượng bảo hiểm:


Bảo hiểm tài sản:là loại hình bảo hiểm, theo đó, DNBH tiến hành thu phí bảo hiểm của bên
mua bảo hiểm và cam kết bồi thường cho bên được bảo hiểm khi tài sản mua bảo hiểm gặp
những rủi ro trong phạm vi bảo hiểm dẫn đến tổn thất.
Ví dụ: Bảo hiểm tiền gửi, tiền cất trữ trong kho và trong quá trình vận chuyển,…
− Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Là loại hình bảo hiểm mà đối tượng được bảo hiểm là trách
nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo luật định.
Ví dụ: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của người vận chuyển hàng không đối với hành khách,…
− Bảo hiểm con người phi nhân thọ: Là loại hình bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là sinh
mạng, sức khoẻ, khả năng lao động của con người.
Ví dụ:Bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật,…
2.2. Theo phương thức quản lý:


Bảo hiểm phi nhân thọ bắt buộc:là loại bảo hiểm do pháp luật quy định tổ chức, cá nhân
phải tham gia bảo hiểm, điều kiện, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà bên mua
bảo hiểm và DNBH có nghĩa vụ thực hiện.
Ví dụ:Bảo hiểm cháy, nổ; bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,…
− Bảo hiểm phi nhân thọ tự nguyện: là loại bảo hiểm mà hợp đồng được giao kết dựa hoàn
toàn trên sự cân nhắc và nhận thức của bên mua bảo hiểm.

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 4



Ví dụ:Bảo hiểm thiệt hại trong kinh doanh, bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính,…
3. Tính đặc trưng riêng của bảo hiểm phi nhân thọ
3.1. Đặc điểm chung: Bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng và bảo hiểm nói chung có
đặc trưng là ngành dịch vụ đặc biệt, bởi:


Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vơ hình
Sản phẩm bảo hiểm, về bản chất là một dịch vụ, một lời hứa, một lời cam kết mà
công ty bảo hiểm đưa ra với khách hàng.Khách hàng đóng phí để đổi lấy những cam kết bồi
thường hoặc chi trả trong tương lai.
Khác với sản phẩm vật chất mà người mua có thể cảm nhận được qua các giác quan,
người mua sản phẩm bảo hiểm không thể chỉ ra màu sắc, hình dáng, kích thước hay mùi vị
của sản phẩm. Họ cũng không thể cảm nhận được bằng các giác quan như cầm nắm, sờ mó,
ngủi hoặc nếm thử…



Bảo hiểm có chu trình kinh doanh ngược
Khác với chu trình sản xuất hàng hóa thơng thường, khi giá cả được quyết định sau
khi đã biết được chi phí sản xuất ra hàng hóa đó. Như vậy, các doanh nghiệp sản xuất hàng
hóa hữu hình phải bỏ vốn ra trước, mua các máy móc, ngun vật liêu, th nhân cơng thì
mới sản xuất ra sản phẩm và thực hiện quy trình đưa sản phẩm đến người tiêu dùng, khi sản
phẩm đó bán được doanh nghiệp mới thu tiền về, trong khoản tiền này bao gồm cả vốn doanh
nghiệp bỏ ra và lãi doanh nghiệp nhận được.
Cịn DNBH khơng phải bỏ vốn trước, họ nhận phí bảohiểm trước của người tham gia
bảo hiểm đóng góp và thực hiện nghĩa vụ sau với bên được bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo
hiểm. Do vậy, khơng thể tính được chính xác hiệu quả của một sản phẩm bảohiểm vào thời
điểm bán sản phẩm.




Tâm lý người mua hàng không muốn tiêu dùng dịch vụ này
Người mua bảo hiểm khơng mong muốn có sự kiện rủi ro xảy ra để được nhận quyền
lợi bảo hiểm dù rằng quyền lợi đó có thể nhiều hơn gấp bội lần so với số phí phải đóng.
Q trình mua sản phẩm bảo hiểm chịu sự chi phối của các yếu tố tâm lý. Do chi phối
bởi những tập tục, quan niệm có thể mang nặng yếu tố tâm linh, nên nói chung người mua
khơng muốn nói đến rủi ro, khơng muốn thấy cụ thể những hậu quả của rủi ro có thể được
bảo hiểm, điểm hình nhất trong bảo hiểm tử vong hay thương tật.
Nhưng ngược lại, người mua coi việc mua một sản phẩm bảo hiểm như một chiếc
bùa hộ mệnh, giúp họ yên tâm hơn về mặt tinh thần đồng thời có sự đảm bảo về mặt vật chất
khi điều không may xảy ra. Người bán cũng dễ bị ý nghĩ chiều lòng, thỏa mãn nhu cầu của

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 5


khách hàng mà thiếu sự cân nhắc cần thiết cho việc lực chọn và đánh giá những rủi ro có thế
đảm nhận.
3.2. Đặc điểm riêng: Ngoài những đặc điểm chung của bảo hiểm, bảo hiểm phi
nhân thọ cịn có những đặc điểm riêng cơ bản sau:


Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ là một hợp đồng có thời hạn bảohiểm thường là một năm
hoặc ngắn hơn
− Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ chỉ bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm khi có rủi ro được
bảo hiểm xảy ra trong thời gian hợp đồng cịn hiệu lực
− Phí bảo hiểm phi nhân thọ được tính cho thời hạn bảo hiểm, thơng thường phí tính cho từng
năm bảo hiểm hoặc từng chuyến. Phí bảo hiểm cho những năm tiếp theo sẽ có sự thay đổi.
Phí bảo hiểm phi nhân thọ còn phụ thuộc mức độ rủi ro.

− Trừ các nghiệp vụ bảo hiểm con người PNT, còn các nghiệp vụ khác như tài sản, trách nhiệm
dân sự giữa người bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thứ ba có liên quan tới rủi ro bảo
hiểm đều có mối quan hệ về quyền lợi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

II. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT
NAM TỪ NĂM 2006 ĐẾN NAY
Việt Nam đã thực hiện quá trình hội nhập và mở cửa thị trường bảo hiểm từng
bước trong thời gian qua để các DNBH Việt Nam dần dần thích ứng, tiêu biểu là bảo
hiểm phi nhân thọ (PNT). Từ năm 1994 đến 1998, ngoài Bảo Việt, nhà nước đã cấp phép
hoạt động cho các DNBH PNT Bảo Minh, VINARE, Bảo Long, PJICO, PVI, PTI được tiến
hành thí điểm Bảo hiểm Nhân thọ. Giai đoạn 1998 – 2004, lần đầu tiên cấp phép cho 2 công
ty PNT 100% vốn nước ngoài (Alianz, Group Pama). Giai đoạn 2005 – 2006 được đánh giá
là có lộ trình mở cửa nhanh nhất với sự cấp phép hoạt động cho các cơng ty PNT trong nước:
BIC, AAA, Tồn Cầu, Bảo Nơng, Bảo Tín và các cơng ty bảo hiểm PNT nước ngồi AIG,
QBE, ACE, Liberty. Với 16/30 doanh nghiệp có vốn nước ngồi trong đó 9/22 DNBH
PNT.Đảm bảo tỉ lệ hài hồ giữa DNBH trong nước với DNBH có vốn nước ngồi. DNBH có
vốn nước ngồi tại Việt Nam góp phần gián tiếp phát triển FDI, cung cấp thêm nhiều sản
phẩm bảo hiểm mới tăng sự lựa chọn cho khách hàng và tăng doanh thu bảo hiểm toàn thị
trường. DNBH trong nước học tập được kinh nghiệm phát triển sản phẩm, phát triển kênh
phân phối (qua môi giới và đại lý bảo hiểm), kinh nghiệm quản lý rủi ro, sử dụng công nghệ
thông tin và thái độ phục vụ chăm sóc khách hàng. Chúng ta vẫn duy trì 4 rào cản với doanh
nghiệp có vốn nước ngồi để bảo vệ doanh nghiệp trong nước (đã trình bày tại lộ trình
BTA).Như vậy thị trường bảo hiểm đã mở cửa nhanh nhưng hợp lý để các DNBH làm quen

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 6


với hội nhập hợp tác quốc tế và tạo ra sự cạnh tranh để từng doanh nghiệp tự nâng cao năng
lực cạnh tranh của mình nhằm đem lại lợi ích tốt hơn cho người tham gia bảo hiểm.
Sự chuẩn bị của thị trường bảo hiểm Việt Nam trước thời điểm gia nhập

WTO.Thị trường bảo hiểm Việt Nam lúc này có 30 DNBH và 8 doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm hoạt động tạo ra 3 phân đoạn thị trường: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ và
môi giới bảo hiểm, vừa hợp tác vừa cạnh tranh gay gắt với nhau để phát triển. Số lượng sản
phẩm bảo hiểm ngày càng tăng, có trên 700 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ để khách hàng
lựa chọn, phát triển nhanh kênh phân phối sản phẩm (50000 đại lý bảo hiểm phi nhân thọ)
tuyên truyền giới thiệu DNBH và sản phẩm bảo hiểm, đưa sản phẩm bảo hiểm đến tận tay
người tiêu dùng. Chế độ quản lý nhà nước về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm ngày càng hoàn
thiện với sự ra đời của Luật kinh doanh bảo hiểm (2000), NĐ 42, NĐ 43 (2001), thông tư 98,
99 (2004) hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm, NĐ 118 xử phạt vi phạm trong kinh
doanh bảo hiểm, QĐ 53 các chỉ tiêu giám sát DNBH, QĐ 175 Thủ tướng phê duyệt chiến
lược phát triển thị trường bảo hiểm 2003-2010.
Năm 2006 là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010, và diễn ra các sự
kiện lớn: Việt Nam tổ chức thành công hội nghị APEC, Việt Nam trở thành thành viên thứ
150 của WTO mở ra một thời kỳ mới với nhiều thời cơ hội cũng như thách thức cho sự
nghiệp phát triển đất nước nói chung và phát triển của ngành bảo hiểm nói riêng. Tuy nhiên,
trong năm đã xảy ra 2 cơn bão gây thiệt hại nặng nề cho khu vực miền Trung và 1 cơn bão
bất thường gây thiệt hại cho khu vực Nam Trung Bộ và miền Tây Nam Bộ, ảnh hưởng nhiều
tới bảo hiểm PNT. Với sự cố gắng của các DNBH, thị trường bảo hiểm PNT Việt Nam vẫn
tiếp tục tăng trưởng với doanh thu đạt 6.360 tỉ đồng tăng 16% so với năm 2005 chưa tính đến
doanh thu của bảo hiểm Tồn cầu 46 tỉ đồng và AIG.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt thực hiện các cam kết khi trở thành thành viên thứ
150 của tổ chức Thương mại quốc tế WTO. Bộ Tài chính đã cấp phép hoạt động cho Bảo
hiểm Quân Đội, Cathay Life và Great Eastern đưa tổng số DNBH PNT có mặt tại thị trường
Việt Nam là 23. Bảo hiểm PNT năm 2007 có bước tăng trưởng đột phá cao nhất trong 5 năm
qua. Đạt doanh thu 8.360 tỉ đồng tăng 31% so với 2006.
Năm 2008, thị trường vẫn tiếp tục được mở rộng và phát triển với sự ra đời của nhiều
DNBH PNT trong và nước ngoài.Tổng số doanh nghiệp được cấp phép họat động trên thị
trường hiện nay đã lên tới 27 DNBH PNT. Doanh thu đạt mức 10.855 tỷ đồng, tăng 32% so
với 2007. Đặc biệt, bảo hiểm PNT đã hoàn thành chỉ tiêu phát triển thị trường bảo hiểm Việt
Nam giai đoạn 2003 - 2010 là 9.000 tỷ đồng ngay từ 2008.

Đầu năm 2009 nền kinh tế xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng
hoảng suy thối kinh tế tồn cầu nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động giảm sút hoặc

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 7


cầm chừng, công nhân thiếu việc làm giảm sút thu nhập dẫn đến khơng có đủ khả năng tài
chính tham gia bảo hiểm. Trong năm, nhiều thiên tai giông tố lũ lụt xảy ra, nhất là cơn bão số
9 & 11 liên tiếp gây thiệt hại nặng nề cho các tỉnh miền Trung. Thị trường chứng khốn đã có
thời điểm xuống chỉ còn 235 điểm (ngày 24/2), thị trường bất động sản, ngoại tệ mất ổn định
ảnh hưởng lớn tới hiệu quả đầu tư của DNBH.Trước tình hình trên, các DNBH bằng nội lực
của mình đã vượt qua khó khăn thách thức của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nắm nhanh cơ
hội khi nền kinh tế phát triển để đẩy mạnh khai thác phát triển thị trường bảo hiểm. Doanh
thu phí bảo hiểm PNT đạt 13.616 tỉ đồng tăng 2.738 tỉ đồng so với năm 2008 tương đương
25,16%.
Năm 2010 kết thúc kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2006 -2010, Việt Nam giữ
vai trò chủ tịch ASEAN, cả nước thi đua chào mừng ngày lễ lớn 80 năm thành lập Đảng, 35
năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, 65 năm ngày Quốc khánh, 1.000 năm Thăng
Long – Hà Nội, tiến hành Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc. Ngành bảo hiểm
hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn
2003 – 2010 được Thủ tướng chính phủ phê duyệt và kế hoạch 5 năm phát triển thị trường
bảo hiểm 2006 – 2010 của Bộ Tài chính. Tổng doanh thu phí bảo hiểm PNT đạt 17.052 tỉ
đồng tăng 24,9% so với 2009.
Năm 2011 nền kinh tế xã hội Việt Nam gặp nhiều khó khăn do lạm phát cao và ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng doanh thu phí PNT
20.497 tỉ đồng trong đó các DNBH Việt Nam đạt doanh thu 18.484 tỉ đồng tăng trưởng
17,56%, các DNBH có vốn nước ngồi đạt doanh thu 2.013 tỉ đồng tăng trưởng 55,23%.
Năm 2012, tình hình đầu tư và các hoạt động kinh tế cịn trì trệ được nhận định sẽ
vẫn ảnh hưởng tiêu cực tới lĩnh vực bảo hiểm tài sản cho các cơng trình lớn, bảo hiểm xuất
nhập khẩu, bảo hiểm hàng hải.Các sản phẩm bảo hiểm mới thực hiện theo chủ trương chính

sách của nhà nước như thí điểm bảo hiểm nơng nghiệp, thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu, bảo hiểm trách nhiệm cơ sở khám chữa bệnh đang được khởi động triển khai một cách
tích cực. Các DNBH đã chú ý phát triển sản phẩm bảo hiểm đáp ứng nhu cầu của bảo hiểm
tài sản cá nhân và các sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm – một thị trường lớn đang bỏ ngỏ. Thị
trường bảo hiểm PNT 6 tháng đầu năm 2012 đạt doanh thu 11.513 tỉ đồng tăng trưởng
12,68%, nhận tái bảo hiểm từ nước ngoài 281 tỉ đồng, tái bảo hiểm ra nước ngoài 3.235 tỉ
đồng. Dự kiến trong năm 2012, thị trường bảo hiểm tiếp tục duy trì đà tăng trưởng của năm
2011 với tốc độ 28%, doanh thu ước đạt 27,5 tỉ đồng.
Nhìn chung, thị trường bảo hiểm PNT vẫn tiếp tục cạnh tranh gay gắt. Bằng cách hạ
phí, mở rộng điều khoản điều kiện bảo hiểm để giành giật khách không tương xứng với rủi ro
chấp nhận bảo hiểm đã làm cho nhiều DNBH liên tục thua lỗ về kinh doanh nghiệp vụ bảo

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 8


hiểm. Có thể thấy, hoạt động của khối bảo hiểm PNT sẽ chịu ảnh hưởng khi theo cam kết
WTO, chi nhánh các DNBH PNT nước ngoài sẽ được thành lập và hoạt động tại Việt Nam từ
2012. Theo ông Phùng Đắc Lộc, Tổng thư ký AVI, nếu không chuẩn bị kỹ càng, DNBH PNT
trong nước có thể gặp khó khăn khi thị trường mở cửa, thậm chí khơng loại trừ khả năng phá
sản do yếu kém về năng lực tài chính, kinh nghiệm, cơng nghệ và nhân sự do chịu cạnh tranh
không cân sức với các chi nhánh này.
Qua biểu đồ Tổng doanh thu phí bảo hiểm Việt Nam các năm, ta nhận thấy doanh thu
phí BH phi nhân thọ đã bắt đầu vượt qua BH nhân thọ từ năm 2008 và tăng trưởng mạnh.

III. KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM
1. Khái niệm về trục lợi bảo hiểm.
Theo quy định tại thông tư 31/2004/TT – BTC của Bộ Tài chính hường dẫn thực hiện
Nghị định 118 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì:
”Hành vi trục lợi trong việc tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và
giải quyết khiếu nại bảo hiểm theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 118/2003/NĐ-CP là

hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo hiểm, yêu
cầu, giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải quyết khiếu nại bảo hiểm”
Trục lợi bảo hiểm tài sản là việc các bên tham gia vào quan hệ bảo hiểm tài sản nhằm
thực hiện các hành vi lừa dối để được hưởng quyền lợi tài chính mà lẽ ra mình khơng được
hưởng hoặc hưởng lợi lớn hơn quyền lợi tài chính mà mình được hưởng.
Tóm lại, trục lợi bảo hiểm được hiểu ngắn gọn là hành vi kiếm lời bất hợp pháp của
các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm.
2. Nguyên nhân và hậu quả của trục lợi bảo hiểm
2.1. Nguyên nhân
2.1.1.
Về hệ thống
Do có những kẽ hở của pháp luật, thiếu sự rà soát, kiểm tra và tính răn đe chưa cao. Trong
các trường hợp gian lận chưa có biện pháp xử lí thích đáng, hình phạt chỉ dừng lại ở mức từ
chối bồi thường, tạo tâm lí an tâm cho những đối tượng có âm mưu trục lợi.
− Do hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh của các công ty bảo hiểm, khi hạ mức phí bảo
hiểm và tăng hoa hồng cao hơn mức quy định của Bộ tài chính.
− Do sự quản lí, điều hành của doanh nghiệp cịn chưa thật sự tốt. Để nâng cao doanh thu phí
BH, các DN đã đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện cho người mua bảo hiểm lợi dụng.
2.1.2.
Về các chủ thể tham gia


Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 9




Do sự thiếu đạo đức và yếu kém trong năng lực chuyên môn của các nhân viên bảo hiểm. Thị
trường Bảo hiểm cịn non trẻ cơng tác đào tạo và tuyển dụng nhân viên có đạo đức và năng
lực làm việc tốt chưa được coi trọng.

− Do nhận thức của một số người về pháp luật còn yếu kém, nhất là những văn bản pháp quy
trong vấn đề về trục lợi bảo hiểm.
− Do các nhà cung cấp dịch vụ, một số tổ chức cá nhân cung cấp dịch vụ cho bên mua bảo
hiểm hay người được bảo hiểm đã vơ tình hoặc cố ý tiếp tay cho hành vi trục lợi như cấp
giấy chứng nhận khơng đúng với tình trạng thương tật, cấp giấy chứng tử trong đó nguyên
nhân tử vong không phù hợp với thực tế.
2.1.3. Về các yếu tố bên ngồi
− Do hạn chế trong cơng tác trao đổi thơng tin khi tình hình cạnh tranh ngày càng khốc liệt nên
các DNBH ln giữ bí mật thơng tin cần thiết về khách hàng. Điều đó vơ tình làm cho bên
mua bảo hiểm nãy sinh hành bi trục lợi bằng cách mua bảo hiểm trùng và hưởng tiền bồi
thường từ tất cả các DNBH.
2.2. Hậu quả
2.2.1.
Doanh nghiệp bảo hiểm
Hành vi trục lợi làm tăng chi phí bồi thường của các doanh nghiệp, kéo theo doanh thu, lợi
nhuận của doanh nghiệp cũng giảm sút.
− Bên cạnh đó doanh nghiệp phải tốn một khoản chi phí trong cơng tác giám định, điều tra từ
đó tăng thời gian giải quyết bồi thường, ảnh hưởng đến q trình phục hồi tài chính của
khách hang, đồng thời làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó tính
cạnh tranh trên thị trường cũng giảm.
2.2.2.
Người tham gia bảo hiểm
− Những người khách hàng trung thực sẽ bị thiệt thòi về quyền lợi vì khoản phí bảo hiểm của
họ đóng vào lại khơng được sử dụng đúng mục đích, thay vào đó phải cho trả cho các hành vi
trục lợi chưa phát hiện được.
2.2.3.
Xã hội
− Các hành vi trục lợi trong bảo hiểm làm gia tăng những thiệt hại về mặt vật chất và cịn là
nguy cơ đạo đức, làm tha hóa, biến chất hệ thống cán bộ nhà nước, từ đó cho xã hội từ đó
làm cho trật tự kỷ cương của xã hội bị phá vỡ, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của thị

trường bảo hiểm.


3. Các hình thức trục lợi bảo hiểm
3.1. Khai tăng giá trị tổn thất

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 10


Theo nguyên tắc bồi thường(indemnity): khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải
bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tài chính như trước
khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém. Tuy nhiên bằng cách lợi dụng tổn thất xảy ra
làm hư hỏng thêm tài sản được bảo hiểm nhằm được trả tiền bồi thường cao hơn, hoặc làm
hư hỏng toàn bộ tài sản, bên mua bảo hiểm yêu cầu được bảo hiểm để được bồi thường tài
sản có trị giá lớn hơn là một hình thức khai tăng giá trị tổn thất. Một cách khác là tổn thất ít,
lẽ ra khơng được bồi thường, nhưng làm cho tổn thất vượt quá mức miễn thường để được bồi
thường. Trong trường hợp đó sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của DNBH, vậy nên các hành
vi này mang tính trục lợi bất hợp pháp và cần phải được xử lí nghiêm bởi pháp luật.
3.2. Đã xảy ra tổn thất mới mua bảo hiểm

Để xác định được DNBH có chịu trách nhiệm đối với sự phát sinh của một sự kiện
bảo hiểm hay không phải căn cứ vào 2 yếu tố:
Thứ nhất, tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm phải chưa
phát sinh.Trong trường hợp đã phát sinh thì bên mua bảo hiểm phải khơng biết được điều đó.
Thứ hai, tài sản mua bảo hiểm vẫn còn tồn tại tại thời điểm giao kết hợp đồng.
Lí do doanh nghiệp phải lưu ý đến các yếu tố đó là vì theo Ngun tắc chỉ bảo hiểm
sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn (Fortuity not certainty) thì doanh nghiệp chỉ bảo
hiểm một rủi ro xảy ra khách quan, bất ngờ, mang tính chất ngẫu nhiên, ngồi ý muốn của
con người chứ khơng bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra.
Trên thật tế, có rất nhiều trường hợp, tuy đối tượng bảo hiểm (máy móc, phương tiện

vận chuyển…) đã bị tổn thất tức là sự kiện bảo hiểm đã xảy ra, bên mua bảo hiểm mới đi
giao kết hợp đồng bảo hiểm để được bồi thường hoặc được trả tiền bảo hiểm. Đó là một hành
vi gian lận, trục lợi bất hợp pháp khá phố biến. Tuy nhiên, hầu hết những vụ trục lợi bảo
hiểm loại này chỉ có thể thành cơng khi có sự tiếp tay của các cán bộ, nhân viên làm việc
trong công ty bảo hiểm.
3.3.

Bảo hiểm trùng
Theo điều 44 về Hợp đồng bảo hiểm có đề cập:

“1. Hợp đồng bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm
với hai DNBH trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng với cùng điều kiện và sự kiện bảo
hiểm.
2. Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm,
mỗi DNBH chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 11


trên tổng số bảo hiểm của tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền
bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản.”
Theo đó cho thấy, pháp luật khơng hề có quy định cấm mua bảo hiểm trùng bởi vì theo
Bộ luật dân sự chủ sở hữu được tồn quyền định đoạt đối với tài sản của mình. Đó cũng xuất
phát từ nhu cầu bảo vệ tài sản của chủ sở hữu. Do phí bảo hiểm chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong tổng
giá trị tài sản, nên bên mua bảo hiểm chấp nhận đóng nhiều lần phí bảo hiểm cho một tài sản
nhằm dàn trải rủi ro. Trong trường hợp xấu, một DNBH bị phá sản thì người bảo hiểm vẫn
đảm bảo được quyền lợi tài chính của mình thơng qua việc địi bồi thường tại các DNBH cịn
lại.
Bên cạnh đó, cần lưu ý trường hợp mua nhiều lần BH cho một món hàng vẫn chưa chắc
chắn là bảo hiểm trùng nếu các lần bảo hiểm đó được mua cho những quyền lợi khác nhau.

Tuy nhiên, bên mua tài sản phải có nghĩa vụ thơng báo cho các DNBH về việc bảo
hiểm trùng. Nếu bên mua bảo hiểm không thông báo cho các doanh nghiệp và lập hồ sơ đòi
tiền bồi thường từng doanh nghiệp để nhận được số tiền lớn hơn giá trị tài sản thì hành vi này
được gọi là trục lợi và sẽ bị xử lí theo bộ luật Hình sự.
3.4.

Cố ý gây tổn thất cho đối tượng được bảo hiểm

Đây là hình thức một người sau khi mua bảo hiểm cho tài sản cố tình hủy hoại tài sản
đó thì chắc chắn nhằm mục đích hưởng một số tiền lớn hơn giá trị của tài sản từ DNBH.
Hình thức trục lợi này thường được thực hiện bằng việc người chủ tài sản sau khi mua
bảo hiểm cho tài sản sẽ tháo rời các bộ phận của tài sản (như máy móc, thiết bị có giá trị) để
thay thế vào đó những bộ phận tài sản kém giá trị hơn, sau đó sẽ cố ý phá hủy tài sản. Sau khi
tài sản được phá hũy, bên mua bảo hiểm sẽ hoàn tất các thủ tục để được bồi thường bảo hiểm
và vẫn nhận tiền bồi thường tương ứng với các bộ phận, máy móc, thiết bị có giá trị.
Đây là hình thức trục lợi bảo hiểm rất tinh vi, có kiến thức nghiệp vụ cao về bảo hiểm,
được chuẩn bị kỹ lưỡng, số tiền trục lợi thường lớn, rất khó điều tra hoặc tìm ra được sự thật
thì tốn nhiều cơng sức, tiền của.
3.5.

Khai ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm trước thời hạn chấm dứt hợp đồng

Sau ngày hợp đồng hết hạn thì xảy ra sự kiện bảo hiểm, nhằm trục lợi bảo hiểm, người
mua bảo hiểm sẽ khai sự kiện bảo hiểm diễn ra trước ngày kết thúc hợp đồng.
3.6.

Lập hồ sơ giả

Trong bảo hiểm tài sản, để có cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của DNBH phải
dựa trên những bằng chứng pháp lý nhất định đó là hồ sơ, chứng từ có xác nhận của các cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền.Việc xác nhận của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
Phịng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 12


nhằm mục đích chứng minh sự kiện bảo hiểm xảy ra là có thực.Tuy nhiên, trên thực tế, bên
mua bảo hiểm đã lợi dụng quy định này trong quan hệ bảo hiểm tài sản để hợp thực hóa
những tổn thất do mình tự đưa ra nhằm được chi trả bảo hiểm. Để hợp thức trách nhiệm bồi
thường của DNBH, người được bảo hiểm đã làm những thủ tục gian dối nhằm mục đích tạo
bằng chứng để DNBH tin rằng, tổn thất xảy ra là có thực và rủi ro dẫn đến tổn thất này là
trong phạm vi bảo hiểm. Tuy khơng có tổn thất thực tế đối với đối tượng bảo hiểm nhưng vẫn
có đầy đủ chứng từ hợp lệ (hóa đơn sửa chữa, mua vật tư, phụ tùng…) với đầy đủ chữ ký
thật, dấu thật, chứng từ thật.
Các hành vi nêu trên được coi là trục lợi bảo hiểm bởi vì, mục đích của bên được bảo
hiểm khi thực hiện những hành vi này là nhằm để được hưởng lợi những khoản tài chính theo
cam kết của DNBH nhưng trên thực tế không đủ điều kiện để DNBH thực hiện cam kết này.
Thông thường, để thực hiện được mục đích trục lợi thơng qua cách thức này, bên được bảo
hiểm phải có sự hợp tác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, sự hợp tác này có thể là cố ý
và cũng có thể là vơ ý.
3.7.

Tạo hiện trường giả

Trục lợi bảo hiểm theo cách này thường biểu hiện ở việc tạo ra một hiện trường như
thật nhằm chứng minh đã xảy ra sự cố. Bên mua bảo hiểm đã sử dụng thủ đoạn đưa những tài
sản cùng loại đã bị hư hõng từ nơi khác đến nơi xảy ra tai nạn để chụp ảnh, lập biên bản,
khám nghiệm hiện trường nhằm chứng minh tài sản bảo hiểm bị tổn thất, trong khi đó thật sự
là khơng có tổn thất xảy ra, hoặc có tổn thất nhưng ít hơn so với tài sản hư hõng bị thay thế.
Hoặc tạo hiện trường giả giống như dấu hiệu của việc mất cắp tài sản như kho hàng bị phá
khóa, bị cắt niêm phong hoặc thay đổi biển số xe đã mua bảo hiểm vào xe bị tai nạn nhưng
chưa mua bảo hiểm nhằm nhận được tiền bồi thường từ DNBH.

 Hành vi trục lợi thường gặp từ phía doanh nghiệp bảo hiểm

DNBH thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm tài sản với mục đích cung cấp dịch vụ
tài chính cho người được bảo hiểm khi tài sản họ mua bảo hiểm gặp rủi ro dẫn đến tổn
thất.nhưng trên thực tế rất nhiều DNBH đã vì những lợi ích thiển cận mà thực hiện những
hành vi mang lại quyền lợi tài chính cho mình một cách bất hợp pháp làm ảnh hưởng đến lợi
ích của người được bảo hiểm cũng như cộng đồng những người tham gia bảo hiểm. Dưới đây
là một số hành vi trục lợi thường gặp từ phía DNBH:


Lợi dụng sự thiếu hiểu biết của bên mua bảo hiểm để đưa vào hợp đồng những điều khoản
bất lợi cho bên mua bảo hiểm (người được bảo hiểm).

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 13




Khơng trung thực trong việc giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa
vụ của bên mua bảo hiểm.
4. Giới thiệu biện pháp phòng chống trục lợi đối với bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế là nghiệp vụ bảo hiểm phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, do
thiếu chế tài xử phạt đủ sức răn đe nên hành vi trục lợi bảo hiểm y tế đang diễn ra tràn lan và
mức độ ngày một trầm trọng hơn. Nhóm xin đề xuất một số biện pháp nhằm chống trục lợi
bảo hiển y tế ở một số DNBH hiện nay.
4.1. Có nhiều trường hợp khơng có bệnh nhưng người có BHYT vẫn thường
xuyên đi khám để lấy thuốc (cho người nhà sử dụng, dự trữ hoặc bán lại ở hiệu thuốc)
Các cơ sở y tế cần phải kiểm tra sức khỏe của người mang thẻ BHYT đến xin cấp
thuốc, nếu thực sự họ bị bệnh và cần thuốc để điều trị thì mới được cấp thuốc, đồng thời lập
sổ theo dõi cấp phát thuốc.

4.2. Lợi dụng sơ hở trong quản lý của cơ sở y tế, người có thẻ bảo hiểm y tế cho
người khác mượn thẻ để khám chữa bệnh bằng cách tự mình đi làm thủ tục khám
nhưng khi nằm viện lại là người khác
Trên thể BHYT cần phải có ảnh của người mua bảo hiểm, khi đó chỉ có người mua
BHYT thì mới được thụ hưởng những quyền lợi của bảo hiểm.
Cơ quan y tế cũng cần phải kiểm tra kĩ người khám chữa bệnh, nằm viện có đúng
là người đã mua bảo hiểm hay không.
4.3. Gian lận, giả mạo hồ sơ, làm giả thẻ bảo hiểm y tế: hiện nay việc làm giả thẻ
BHYT đang rất phổ biến, các cơ sở y tế không thể kiểm tra được điều này dẫn đến
những khoản thiệt hại khá lớn
Thay đổi hình thức của thẻ BHYT để có thể kiểm tra thẻ thật hay giả (có thể thêm
mã vạch trên thẻ để kiểm tra thơng qua máy quẹt thẻ).
Có hệ thống dữ liệu chunglưu thông tin cá nhân và số thẻ BHYT của người tham
gia bảo hiểm. Khi người có bảo hiểm đi khám chữa bệnh, các cơ sở y tế sẽ dựa vào hệ thống
này để xác nhận thẻ BHYT của người này là có hay khơng.
4.4. Người tham gia bảo hiểm lợi dụng sơ hở của cơ sở khám chữa bệnh để đến
khám tại các tuyến chuyên môn kỹ thuật cao hơn, hoặc khám chữa bệnh trái tuyến hay
như việc xin làm thủ tục điều trị nội trú ở nhiều bệnh viện khác nhau, nhưng thực sự
chỉ điều trị ở một bệnh viện
Hiện nay khi mua BHYT, người tham gia bảo hiểm được đăng ký cơ sở khám chữa
bệnh.Vì vậy họ chỉ được thanh toán bảo hiểm khi khám bệnh đúng tuyến.Khi khám chữa
bệnh trái tuyến thì bảo hiểm chỉ chi trả một phần chi phí, cịn lại người tham gia bảo hiểm

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 14


phải tự trả. Tổ chức BHYT cũng có thể từ chối thanh tốnnhững phí khám chữa bệnh BHYT
khơng đúng quy định của pháp luật hoặc không đúng nội dung hợp đồng bảo hiểm.
4.5. Nhân viên y tế cố ý kê khống toa thuốc để trục lợi
Cơ sở y tế phải giám sát chặt chẽ việc kê toa thuốc cho bệnh nhân, mở sổ khám

bệnh, sổ theo dõi cấp thuốc BHYT, lập phiếu thanh toán ra viện để làm chứng từ thanh tốn
chi phí khám chữa bệnh BHYT theo quy định.
Người khám chữa bệnh cũng cần phải xem kĩ toa thuốc được kê có đúng là những
thuốc mà mình đã và sẽ được dùng hay không.
4.6. Để nộp BHXH, BHYT thấp hơn mức quy định, nhiều DN đã ký hợp đồng
cho nhân viên với mức lương thấp hơn nhiều so với thực lĩnh. Việc này khiến người lao
động bị thiệt thòi do mức hưởng thấp khi nghỉ việc hưởng các chế độ như ốm đau, thai
sản, hưu trí…
Người lao động cần phải lên tiếng vì quyền lợi của mình, chỉ chấp nhận kí hợp
đồng với mức lương đúng với thực lĩnh.
4.7. Các cơ sở y tế thống kê thêm vật tư y tế, thống kê khống dịch vụ kỹ thuật
khơng có trong chỉ định bệnh án; lạm dụng trang thiết bị đắt tiền, tăng cường khám xét
một cách không cần thiết
DNBH cần phải siết chặt hơn nữa các khâu thẩm tra, xác minh đánh giá hồ sơ khi
có yêu cầu giải quyết quyền lợi BHYT.
Có những đợt kiểm tra đột xuất việc khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế có đúng với
những quy định của pháp luật về BHYT hay không.
Hiện nay ở nước ta, nhằm hạn chế tối đa các hành vi trục lợi BHYT, Chính phủ đã ban
hành NĐ số 92/2011/NĐ-CP ngày 17/10/2011 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BHYT. Theo đó, các hành vi lập hồ sơ bệnh án, kê đơn thuốc mà thực tế khơng có
người bệnh nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, bị xử phạt từ 500.000 đồng
đến 24 triệu đồng; kê tăng số lượng hoặc thêm loại thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật, chi
phí giường bệnh và các chi phí khác mà thực tế người bệnh không sử dụng, phạt từ 300.000
đồng đến 40 triệu đồng; cung ứng thuốc, hoá chất, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật không đầy đủ
trong khám, chữa bệnh BHYT, phạt từ 500.000 đồng đến 40 triệu đồng; lạm dụng dịch vụ y
tế trong khám, chữa bệnh BHYT, phạt từ 500.000 đồng đến 40 triệu đồng; áp sai về giá, ghi
sai chủng loại, đơn vị, tên dịch vụ kỹ thuật trong thanh tốn chi phí khám, chữa bệnh BHYT,
phạt từ 500.000 đồng đến 40 triệu đồng; gây khó khăn, cản trở đến việc khám, chữa bệnh
BHYT, phạt từ 500.000 đồng đến 6 triệu đồng. Mức chế tài như trên được coi là chưa đủ mức
răn đe nhưng cũng đã giúp được phần nào trong việc giảm các hành vi trục lợi BHYT.


Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 15


IV. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM PHI
NHÂN THỌ
1. Về mặt pháp lí
Trong các năm qua các cơ quan chức năng đã khơng ngừng hồn thiện khn khổ pháp
lý về kinh doanh bảo hiểm, song nhìn chung các quy định về phòng chống trục lợi bảo hiểm
còn bất cập và chưa theo kịp với thực tế, đặc biệt những chế tài còn chưa đủ sức răn đe đối
với những kẻ giáp ranh phạm tội. Mặt khác các DNBH cũng chịu những hạn chế về mặt pháp
luật khi giải quyết các yêu cầu bồi thường tiền bảo hiểm.Trong nhiều trường hợp các DN đã
khơng có đủ quỹ thời gian cần thiết để điều tra đầy đủ về những vụ có dấu hiệu trục lợi hoặc
có cơ sở để nghi ngờ trước khi quyết định việc trả tiền bảo hiểm. Có một thực tế đáng lo ngại
là cho đến nay, mặc dù đã có khơng ít vụ trục lợi bảo hiểm đã được phát hiện, song chưa có
một tổ chức cá nhân nào thực hiện hành vi trục lợi phải chịu bất kỳ một chế tài hành chính
hay hình sự nào. Điều này đã khuyến khích những kẻ làm ăn bất chính tìm cách thử vận may
bằng cách gian dối, lừa đảo DNBH để nhận tiền bảo hiểm mà khơng sợ bị trừng phạt. Nếu bị
phát hiện, thì điều duy nhất mà họ mất đi là không được trả tiền bảo hiểm, trong khi nếu
được thì họ sẽ thu được những khoản tiền rất lớn.
 Giải pháp được đưa ra là cần có chế tài nghiêm khắc, đủ mạnh có giá trị răn đe,
ngăn chặn, thậm chí xử lý hình sự đối với hành vi trục lợi bảo hiểm gây hậu quả lớn về tài
sản, đạo đức, nhân cách, làm giảm sút lịng tin đối với cán bộ, cơng chức, tổ chức, cơ quan
nhà nước. Đồng thời cũng cần có cơ chế bảo vệ, động viên nhân chứng hợp tác, giúp đỡ công
việc điều tra, xác minh liên quan đến bảo hiểm, bồi thường quy định rõ và áp dụng các khung
hình phạt đối với những trường hợp trục lợi bảo hiểm.
2. Về phía cơng ty bảo hiểm
Bộ quy tắc bảo hiểm khơng phải do Bộ Tài chính ban hành mà cơ quan này chỉ đứng ra
chuẩn y sau khi DNBH trình lên. Do cạnh tranh khốc liệt để giành thị phần nên khi ban hành
bộ quy tắc này, nhiều DN không thu hẹp phạm vi bảo hiểm và đó là điều kiện cho trục lợi

bảo hiểm phát tác.
Do đó, để hạn chế trục lợi bảo hiểm thì mỗi DN phải tự rà sốt lại quy trình, quy
tắc bồi thường của mình. DNBH phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới, ban hành
quy trình làm việc chặt chẽ, thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát nhanh nhạy, hiệu quả, bảo
đảm trong mọi tình huống, điều kiện, đều thực hiện nghiêm túc quy trình.

Phịng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 16


Cơng tác phịng chống trục lợi bảo hiểm cịn nhiều bất cập, thiếu những bộ phận phịng
ban chun mơn hóa trong việc đảm nhiệm điều tra, xử lý những vự việc có dấu hiệu hay
nghi vấn trục lợi bảo hiểm.
Lập Ban bồi thường trực thuộc lãnh đạo tổng công ty chuyên trách xác minh những
trường hợp có biểu hiện rõ giả mạo, sai lệch nhằm trục lợi, kiên quyết ngăn chặn các hành vi
gian lận, chấn chỉnh công tác bồi thường, xây dựng, thực hiện các giải pháp, quy trình phòng
ngừa.
Sự thiếu trách nhiệm của một bộ phận các cơ quan chức năng cũng tiếp tay cho tình
trạng trục lợi gia tăng (ví dụ các giấy chứng từ giả mạo, giấy chứng nhận thương tật khơng
đúng với tình trạng thương tật, xử lý khơng nghiêm các trường hợp có dấu hiệu trục lợi, lừa
đảo...). Do đó, trong nhiều trường hợp, các DNBH cảm thấy đơn độc trong cuộc chiến chống
trục lợi bảo hiểm.
Cần thống nhất nhận thức về trục lợi bảo hiểm và coi đó là một hành vi vi phạm
pháp luật cần bị lên án về đạo đức và xử lý nghiêm minh bằng pháp luật. Đấu tranh chống
trục lợi bảo hiểm khơng chỉ là trách nhiệm nói riêng của ngành bảo hiểm mà phải là trách
nhiệm chung của tồn xã hội, cộng đồng và địi hỏi phải có sự tham gia, ủng hộ tích cực của
các cơ quan công quyền, cơ quan bảo vệ pháp luật và mỗi người dân.
Cập nhật, thông tin kịp thời, rộng rãi các vụ việc trục lợi được phát hiện để trao đổi, rút
kinh nghiệm, đưa vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nội bộ, nâng cao năng lực
phòng ngừa. Quan tâm giáo dục đạo đức, lịng u nghề, tính tự trọng, tinh thần trách nhiệm
đối với công việc, doanh nghiệp cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, đặc biệt yêu cầu về tính

gương mẫu của các cấp lãnh đạo. Nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo, quản lý và sử
dụng đại lý, nhân viên, gắn trách nhiệm và hiệu quả trong công việc với chế độ đãi ngộ.
Không chạy đua theo doanh số mà tập trung vào hiệu quả kinh doanh, thận trọng hơn
trong việc nhận bảo hiểm và đánh giá rủi ro chặt chẽ hơn, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn.
Duy trì mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng để phục vụ khách hàng tốt hơn, đồng thời,
kịp thời phát hiện những trường hợp có nghi vấn; xây dựng mối quan hệ hợp tác, tin cậy với
các nhà cung cấp dịch vụ.

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Tiến Hùng, Nguyên lý và thực hành bảo hiểm, Nhà xuất bản tài chính, 2007


/>



Một số bài báo từ các trang báo điện tử khác.

Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 18



×