Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

huy động vốn trên thi trường chứng khoán thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.54 KB, 25 trang )

Chủ đề :
Huy động vốn trên thi trường chứng khoán
Thực trạng và giải pháp
Nhóm 2: Lớp sáng thứ 6, ca 1, H508
1
LỜI MỞ ĐẦU
Một doanh nghiệp có ba quyết định cơ bản, đó là : quyết định đầu tư, quyết
định nguồn vốn và quyết định phân phối lợi nhuận. Nếu quyết định đầu tư là
quyết định quan trọng tạo ra giá trị cho doanh nghiệp thì quyết định nguồn
vốn là quyết định tiên quyết, vì có vốn thì doanh nghiệp mới có thể hoạt
động được. Có rất nhiều cách huy động vốn, và trong thời kì cổ phần hóa
nền kinh tế như hiện nay, huy động vốn trên thị trường chứng khoán là lựa
chọn có nhiều ưu điểm cho doanh nghiệp. Trong bài tiểu luận này, nhóm xin
đề cập đến hình thức huy động vốn trên thị trường chứng khoán: thực trạng
và giải pháp. Bài tiểu luận gồm 3 phần chính: phần 1 là lý thuyết chung,
phần 2 là thực trạng huy động vốn trên thị trường chứng khoán Việt Nam,
phần cuối là đánh giá và giải pháp cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
2
A. Lý thuyết chung
I. Huy động vốn
1. Khái niệm
2. Phân loại
II. Huy động vốn trên thị trường chứng khoán
1. Khái niệm
2. Phân loại
3. Vai trò thị trường chứng khoán
4. Qui trình huy động vốn trên TTCK
5. Rủi ro và chi phí khi huy động vốn trên TTCK
6. Ưu & nhược điểm
B. Thực trạng huy động vốn trên TTCK Việt Nam
I. Thực trạng huy động vốn


1. Năm 2010
2. Năm 2011
3. Năm 2012
II. Thuận lợi và khó khan
III. Giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn trên TTCK
1. Nâng cao tỉ lệ tham gia của các doanh nghiệp vào thị
trường chứng khoán.
2. Nâng cao tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt
Nam.
3. Nâng cao định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp.
4. Nâng cao hiệu quả của việc phát hành trái phiếu công ty.
5. Một số giải pháp khác.
3
I. Huy động vốn
1. Khái niệm
Huy động vốn là cách mà doanh nghiệp sử dụng để tài trợ cho nhu cầu
vồn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
2. Phân loại
a. Căn cứ vào quyền sở hữu
- Huy động vốn thông qua việc tăng vốn chủ sở hữu
Để thàn lập doanh nghiệp, ban đầu các doanh nghiệp đều cần số
vốn nhất định, đây chính là nguồn vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp. Nhưng để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của doanh ngày
càng mở rộng, đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ sung vốn chủ thông
qua các khoản lợi nhuận để lại.Tức là sau khi tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh và có được khoản lợi nhuận, doanh nghiệp giữ
lại một phần để tái đầu tư, việc huy động vốn bằng cách này là
cách doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh mà tránh bị phụ
thuộc vào nguồn vốn bên ngoài.
Tuy nhiên,những khoản lợi nhuận để lại sẽ không đáp ứng đủ nhu

cầu về vốn của doanh nghiệp, do đó phát hành thêm cổ phiếu là
cách để làm tăng VCSH của doanh nghiệp, tuy nhiên không phải
doanh nghiệp nào cũng có thể phát hành cổ phiếu, hiện nay chỉ có
công ty cổ phần, các doanh nghiệp nhà nước chuyển sang cổ phần
hóa mới được phát hành cổ phiếu.
- Huy động vốn thông qua các khoản nợ phải trả
Để huy động vốn bố sung nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho
doanh nghiệp trong khi việc tăng VCSH là có hạn thì việc sử dụng
các khoản nợ phải trả như nguồn vốn mà cá doanh nghiệp tận dụng
và sử dụng như đòn bẩy để thúc đẩy hoạt động kinh doanh trong
doanh nghiệp. Ngoài những khoản phải trả mà doanh nghiệp có thể
tạm thời sử dụng như lương chưa đến kì thanh toán, khoản thuế…
thì doanh nghiệp có thể sử dụng cá hình thức vay thông qua phát
hành trái phiếu, tín phiếu, vay ngân hàng, tín dụng thương mại,…
để duy động thêm nguồn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh
nghiệp.
b. Căn cứ vào thời gian huy động vốn
4
Trong quá trình sản xuất kinh doanh,doanh nghiệp có thể sử dụng vốn
ngắn hạn hoặc dài hạn để đầu tư ngắn hạn hay dài hạn. Thông thường,
vốn ngắn hạn dùng để đầu tư ngắn hạn, và ngược lại., vốn dài hạn đùng
để tài cho nhu cầu dài hạn.
- Huy động vốn ngắn hạn
Vốn ngắn hạn là nguồn vốn có thời hạn trong vòng một năm.
Nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp sử dụng để tài trợ cho nhu
cầu vốn ngắn hạn, bao gồm :
+ Nợ tích lũy: các khoản nợ ngắn hạn khác phát sinh trong
quá trình sản xuất kinh doanh như nợ người cung cấp, nợ
tiền lương người lao động trong doanh nghiệp.
+ Nguồn tài trợ ngắn hạn do vay mượn: các khoản vay ngắn

hạn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng: tín dụng thương
mại, tín dụng thư, vay thế chấp hàng hóa,…
- Huy động vốn dài hạn
Vốn dài hạn là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có
thể sử dụng dài hạn(trên 1 năm) vào hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Theo đó doanh nghiệp có thể huy động vốn dài hạn thông qua vốn
chủ như (số tiền khấu hao TSCĐ được tích lũy hàng năm, phát
hành cổ phiếu, phần lợi nhuận hàng năm để lại). Hoặc, doanh
nghiệp cũng có thể huy động vốn dài hạn thông qua vay nợ ( vay
dài hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, phát hành trái
phiếu, thuê tài chính…)
c. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn
- Huy động vốn từ nguồn vốn bên trong
nguồn vốn được huy động từ chính hoạt động của doanh nghiệp,
bao gồm nguồn lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư,nguồn từ khấu hao
TSCĐ chưa được sử dụng vào mục đích thay thế, đổi mời tài sản
cố định, và các nguồn khác.
 nguồn vốn bên trong thể hiện khả năng tự tài trợ của doanh
nghiệp, khi nguồn vốn bên trong không đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư
thì phải đi tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài.
- Huy động vốn từ nguồn vốn bên ngoài
Khi nguồn vốn bên trong không đáp ứng đủ nhu cầu về vốn của
doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ huy động các nguồn vốn bên ngoài,
5
thông qua các hình thức: vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng
khác, thuê tài chính, tín dụng thuong mại,phát hành cổ phiếu, trái
phiếu trên thị trường chứng khoán, nhận vốn liên doanh liên kết,…
 Huy động vốn là một hoạt động thuộc quyết định nguồn vồn trong quá
trình quản trị tài chính doanh nghiệp. Hện nay cùng với sự phát triển của

thị trường tài chính, các hình thức tài trợ vốn cho doanh nghiệp ngày càng
đa dạng và phong phú, do đó, tùy theo tình hình cụ thể mà mỗi một doanh
nghiệp sẽ lựa chọn và kết hợp các hình thức huy động khác nhau nhằm
đáp ứngcho nhu cầu vốn của mình.
II. Huy động vốn trên TTCK.
1. Khái niệm
Là hoạt động của các doanh nghiệp huy động nguồn vốn phục vụ cho
sản xuất kinh doanh của mình bằng cách phát hành ra các loại chứng
khoán trên thị trường.
2. Các chủ thể tham gia huy động vốn trên TTCK
Theo pháp luật Việt Nam, các đối tượng được phát hành chứng khoán
là :
- Công ty cổ phần : được phát hành cả cổ phiếu và trái phiếu
- Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên và 2 thành viên trở lên :
được phát hành trái phiếu.
3. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
a. Thị trường chứng khoán sơ cấp :
Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường mua bán các chứng
khoán mới phát hành. Trong thị trường sơ cấp, vốn từ nhà đầu tư sẽ
được chuyển sang nhà phát hành qua việc nhà đầu tư mua các
chứng khoán mới phát hành.
Đặc điểm của thị trường chứng khoán sơ cấp:
- Thị trường chứng khoán sơ cấp là bộ phận cấu thành hữu cơ và
không thể tách rời của thị trường chứng khoán Thị trường sơ
cấp là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng
khoán.
6
- Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường phát hành chứng
khoán mới hay còn được gọi là thị trường phát hành.
- Hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một kênh huy động vốn

đầu tư cho nền kinh tế. Ở thị trường sơ cấp, người phát hành
nhận được tiền từ việc bán chứng khoán. Qua hoạt động này ở
thị trường sơ cấp, các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, trong
các tổ chức kinh tế, xã hội được chuyển thành vốn đầu tư dài hạn
cho người phát hành chứng khoán. Thị trường sơ cấp là một
kênh phân bổ vốn có hiệu quả. Chính vì vậy, thị trường sơ cấp
không những đóng vai trò tập hợp các nguồn vốn mà còn là công
cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.
- Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường hoạt động không
liên tục, nó chỉ hoạt động khi có đợt phát hành chứng khoán mới.
- Tham gia vào thị trường chứng khoán sơ cấp chủ yếu là các nhà
phát hành, các nhà đầu tư và các nhà bảo lãnh (trường hợp phát
hành chứng khoán theo phương thức bảo lãnh phát hành).
- Tiền bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp thuộc về các nhà
phát hành, do đó hoạt động ở thị trường này đã làm tăng vốn
đầu tư cho nền kinh tế.
- Khối lượng và nhịp độ giao dịch ở thị trường sơ cấp thấp hơn
nhiều so với thị trường thứ cấp.
Các chủ thể phát hành :
- Chính phủ
- Doanh nghiệp
(doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn chỉ được phát hành trái
phiếu và doanh nghiệp cổ phần được phát hành cả cổ phiếu và
trái phiếu )
Phương thức chào bán
- Phát hành riêng lẻ
Chứng khoán được bán trong phạm vi một số nhà đầu tư nhất
định (thông thường là các nhà đầu tư có tổ chức ) với những
điều kiện hạn chế và không tiến hành rộng rãi ra công chúng.
- Chào bán ra công chúng

Chứng khoán được chào bán rộng rãi cho tất cả các nhà đầu tư
với những điều kiện và thời gian như nhau.
Chào bán chứng khoán lần đầu
7
Điều kiện chào bán
- Điều kiện về quy mô vốn : doanh nghiệp phải có mức vốn điều lệ
nhất định theo quy định của pháp luật.
- Điều kiện về tính hiệu quả : Hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp có hiệu quả nhất định trong một số năm liên tục trước khi
xin phép chào bán ra công chúng
- Điều kiện về tính khả thi : Doanh nghiệp phải có phương án khả
thi về việc sử dụng số vốn huy động thông qua phát hành chứng
khoán.
Thủ tục chào bán
Doanh nghiệp phát hành chứng khoán mới chào bán ra công
chúng phải đăng kí và phải được phép của chính phủ thông qua
cơ quan quản lý nhà nước ( ở Việt Nam là ủy bán chứng khoán
nhà nước ). Các bước tiến hành :
- Nộp hồ sơ đăng kí chào bán
- Công bố việc phát hành
- Phân phối chứng khoán ra công chúng
- Báo cáo kết quả đợt phát hành.
Phương thức chào bán
- Phát hành trực tiếp
- Ủy thác phát hành (bảo lãnh phát hành)
- Chào bán qua đấu thầu (đấu giá).
Quản lí của nhà nước
- Quản lý theo chất lượng
- Quản lý theo mô hình công bố thông tin
- Quản lý theo chất lượng kết hợp với mô hình công bố thông tin

b. Thị trường chứng khoán thứ cấp
( là nơi hỗ trợ cho tt sơ cấp phát triển )
4. Cơ cấu TTCK
a. Theo tính chất của thị trường
- TTCK khoán tập trung
8
(thị trường chứng khoán có tổ chức ) thực hiện mua bán các loại
chứng khoán niêm yết được tổ chức một cách chặt chẽ. Việc giao
dịch chủ yếu được thực hiện theo phương thức khớp lệnh tập
trung.
- TTCK phi tập trung (OTC – over the counter market)
là thị trường giao dịch các chứng khoán chưa niêm yết được các
công ty chứng khoán thực hiện qua mạng thông tin
b. Theo loại hàng hóa giao dịch trên thị trường
- Thị trường cổ phiếu
- Thị trường trái phiếu
- Thị trường chứng khoán phái sinh.
5. Vai trò của thị trường chứng khoán
- Đối với chính phủ
Thị trường chứng khoán cung cấp các phương tiện để huy động
vốn và sử dụng các nguồn vốn một cách có hiệu quả cho nền kinh
tế quốc dân. Chính phủ huy động vốn bằng việc bán trái phiếu và
dùng số tiền đó để đầu tư vào các dự án cần thiết của mình.
Thị trường chứng khoán còn góp phần thực hiện quá trình cổ
phần hoá. Chính thị trường chứng khoán có thực mới có thể
tuyên truyền sự cần thiết của thị trường chứng khoán một cách
tốt nhất. Từ đó khuyến khích việc cổ phần hoá nhanh lên các
doanh nghiệp quốc doanh.
Thị trường chứng khoán là nơi để thực hiện các chính sách tiền
tệ. Lãi suất thị trường có thể tăng lên hoặc giảm xuống do việc

chính phủ mua hoặc bán trái phiếu.
Ngoài ra thị trường chứng khoán là nơi thu hút các nguồn vốn
đầu tư gián tiếp từ nước ngoài qua việc nước ngoài mua chứng
khoán.
- Đối với các doanh nghiệp
Thị trường chứng khoán giúp các công ty thoát khỏi các khoản
vay kh có chi phí tiền vay cao ở các ngân hàng. Các doanh nghiệp
có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Hoặc chính thị ttường
chứng khoán tạo ra tính thanh khoản để cho công ty có thể bán
chứng khoán bất kỳ lúc nào để có tiền. Như vậy, thị trường
chứng khoán giúp các doanh nghiệp đa dạng hoá các hình thức
huy động vốn và đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá giá trị của doanh
nghiệp và của cả nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác (kể
9
cả giá trị hữu hình và vô hình) thông qua chỉ số giá chứng khoán
trên thị trường. Từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành
mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng
công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Thị trường chứng khoán còn là nơi giúp các tập đoàn ra mắt
công chúng. Thị trường chứng khoán chính là nơi quảng cáo ít
chi phí về bản thân doanh nghiệp.
- Đối với nhà đầu tư
Thị trường chứng khoán là nơi mà các nhà đầu tư có thể dễ dàng
tìm kiếm các cơ hội đầu tư để đa dạng hoá đầu tư, giảm thiểu rủi
ro trong đầu tư.
6. Quy trình huy động vốn trên thị trường chứng khoán .
- Tổ chức đại hội cổ đông để xin ý kiến chấp thuận của đại hội cổ
đông về việc phát hành chứng khoán ra công chúng, đồng thời
thống nhất mục đích huy động vốn; số lượng vốn cần huy động;

chủng loại và số lượng chứng khoán dự định phát hành; cơ cấu
vốn phát hành dự tính phân phối cho các đối tượng: Hội đồng
quản trị, cổ động hiện tại, người lao động trong doanh nghiệp,
người bên ngoài doanh nghiệp, người nước ngoài…
- Hội đồng quản trị ra quyết định thành lập ban chuẩn bị cho việc
xin phép phát hành chứng khoán ra công chúng. Chức năng chủ
yếu của ban chuẩn bị là chuẩn bị các hồ sơ xin phép phát hành để
nộp lên cơ quan quản lý mình sẽ giúp cho việc phân phối chứng
khoán của tổ chức phát hành diễn ra một cách suôn sẻ. Chính vì
vậy, khi tiến hành phát hành chứngkhoán ra công chúng thì việc
lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành có ý nghĩa rất quan trọng,
và mang tính quyết định đến sự thành bại của đợt phát
hành.
- Người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành lựa chọn các thành
viên khác của tổ hợp. Trong trường hợp khối lượng chứng khoán
phát hành là quá lớn, vượt quá khả năng của một tổ chức bảo
lãnh phát hành thì tổ chức bảo lãnh phát hành chính (tổ chức
bảo lãnh đã được lựa chọn) sẽ đứng ra lựa chọn các thành viên
10
khác để cùng với mình tiến hành bảo lãnh cho toàn bộ đợt phát
hành.
- Ban chuẩn bị cùng với tổ hợp bảo lãnh phát hành, công ty kiểm
toán và tổ chức tư vấn tiến hành định giá chứng khoán phát
hành. Định giá chứng khoán là khâukhó khăn nhất và phức tạp
nhất khi tiến hành phát hành chứng khoán ra công chúng. Nếu
định giá chứng khoán quá cao thì sẽ khó khăn trong việc bán
chứng khoán, còn nếu định giá chứng khoán quá thấp thì sẽ làm
thiệt hại cho tổ chức phát hành. Vì thế, việc định giá chứng khoán
một cách hợp lý sao cho người mua và người bán đều chấp nhận
được là hết sức quan trọng và cần phải được phối hợp của tổ

chức bảo lãnh, công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn của công ty.
- Chính thức thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng
bảo lãnh phát hành với tổ chức phát hành.
- Công ty kiểm toán xác nhận các báo cáo tài chính trong hồ sơ xin
phép phát hành.
- Tổ chức phát hành nộp hồ sơ lên Uỷ ban chứng khoán. Thông
thường tổ chức phát hành sẽ được trả lời về việc cấp hay từ chối
cấp giấy phép trong một thời hạn nhất định kể từ ngày nộp hồ sơ
xin phép phát hành đầy đủ và hợp lệ. Trong thời gian chờ Uỷ ban
chứng khoán Nhà nước xem xét hồ sơ, tổ chức phát hành có thể
sử dụng nội dung trong bản cáo bạch sơ bộ để thăm dò thị
trường.
- nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán; lựa chọn
tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu cần), công ty kiểm toán và tổ
chức tư vấn và cùng với các tổ chức này xây dựng phương án
phát hành và dự thảo bản cáo bạch để cung cấp cho các nhà đầu
tư.
- Ban chuẩn bị lựa chọn người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát
hành. Trong phần lớn các trường hợp phát hành chứng khoán
lần đầu ra công chúng, để đảm bảo sự thành công của đợt phát
hành thì tổ chức phát hành phải chọn ra được một tổ chức bảo
lãnh phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành với uy tín và mạng
lưới rộng lớn của
11
- Sau khi được cấp phép phát hành, tổ chức phát hành phải ra
thông báo phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng,
đồng thời công bố ra công chúng bản cáo bạch chính thức và việc
thực hiện việc phân phối chứng khoán trong một thời gian nhất
định kể từ khi được cấp giấy phép. Thời hạn phân phối được qui
định khác nhau đối với mỗi nước. Ở Việt nam, theo qui định tại

Nghị định 48/Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng
khoán thì thời hạn này là 90 ngày, trong trường hợp xét thấy
hợp lý và cần thiết, Uỷ ban chứng khoán nhà nước có thể gia hạn
thêm.
- Tiến hành đăng ký, lưu giữ, chuyển giao và thanh toán chứng
khoán sau khi kết thúc đợt phân phối chứng khoán.
- Sau khi hoàn thành việc phân phối chứng khoán, tổ chức phát
hành cùng với tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả
đợt phát hành cho Uỷ ban chứng khoán và tiến hành đăng ký vốn
với cơ quan có thẩm quyền.
- Trường hợp tổ chức phát hành có đủ điều kiện niêm yết thì có thể
làm đơn xin niêm yết gửi lên Uỷ ban chứng khoán và Sở giao dịch
chứng khoán nơi công ty niêm yết.
7. Rủi ro và chi phí huy động vốn trên thị trường chứng khoán
• Chi phí huy động vốn
- Chi phí phát hành :Cp in ấn ,cấp phép ,Cp bảo lãnh phát hành
- Chi phí cơ hội
Vì thời gian phát hành,chào bán kéo dài gần 1 năm nên chi phí
cơ hội của việc tập trung nguồn nhân lực vào việc phát hành là
tương đối cao.
- Chi phí bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán
- Chi phí lãi ,cổ tức
• Rủi ro đối với những công ty phát hành chứng khoán
- Rủi ro trong việc bán chứng khoán
Trường hợp công ty không bán được chứng khoán sẽ gặp rủi ro
cao.
12
Điều này dễ nhận thấy ở các doanh nghiệp và là trở ngại lớn
nhất trong quá trình huy động vốn của các doanh nghiệp VN.Vì
vậy các doanh nghiệp nhỏ thường tìm đến nguồn vốn vay từ các

trung gian tài chính
- Rủi ro trong việc hoàn trả các loại chứng khoán
+ Đối với các loại chứng khoán nợ: trái phiếu ,chứng chỉ…thì phải
hoàn trả vào ngày đáo hạn .Trường hợp công ty không trả được
lãi sẽ dẫn tới tình trạng phá sản hoặc mất hình tượng công ty.
+ Đối với chứng khoán vốn
13
Thực trạng huy động vốn trên TTCK Việt Nam
Sự ra đời của TTCK ở Việt Nam
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998 Chính phủ đã
ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính
thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị
cho TTCKVN thực ra đã do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời
bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu
bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán
TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu
tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh
nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ
đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
Giai đoạn 2010 – 2012 là giai đoạn kinh tế Việt Nam có phần khởi
sắc sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2007 – 2010. Dưới đây là
thực trạng của việc huy động vốn tại Việt Nam trong giai đoạn
2010-2012:
I. Thực trạng huy động vốn :
1. Năm 2010
Hơn 13.500 tỷ đồng là con số huy động vốn (tính theo phương án nêu
trong bản cáo bạch) của các công ty thông qua TTCK tính từ đầu năm

đến 20/04/2010.
Theo số liệu từ UBCK, tính từ đầu năm đến 20/4/2010, giá trị huy
động vốn (tính theo phương án phát hành nêu trong bản cáo bạch) đạt
13.551 tỷ đồng, đấu giá cổ phần hóa đạt 290 tỷ đồng, đấu thầu trái
phiếu chính phủ đạt 2.760 tỷ đồng.
14
So với năm 2009, con số này có sự tăng trưởng vượt bậc (4 tháng đầu
năm 2009, vốn huy động bằng phát hành qua TTCK chỉ đạt khoảng
3.000 tỷ đồng).
Trên thực tế, việc huy động vốn của doanh nghiệp từ nửa cuối 2010
chịu rất nhiều bất lợi. Trước hết, những bất ổn vĩ mô như lãi suất, lạm
phát, tỉ giá VND/USD tăng đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh
doanh, khiến nhiều doanh nghiệp phải cân nhắc lại kế hoạch tăng vốn.
Bất ổn vĩ mô cũng là nguyên nhân quan trọng đẩy giá cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán giảm sâu, làm đổ vỡ không ít kế hoạch huy động
vốn của doanh nghiệp.
Tính trung bình, khối lượng giao dịch mỗi phiên của cả 2 sàn trong 11
tháng qua chỉ đạt khoảng 30,3 triệu cổ phiếu, với giá trị bình quân ước
đạt 1.018 tỉ đồng. So với 42 triệu cổ phiếu và 1.400 tỉ đồng của năm
2009 thì thanh khoản của thị trường không những không được tiếp sức
mà còn sụt giảm.
Lượng vốn huy động qua TTCK
2. Năm 2011
6 tháng, huy động vốn qua TTCK đạt gần 6.500 tỷ đồng. Số tiền
thu được từ các đợt đấu giá cổ phần hóa đạt 928 tỷ đồng, bằng 3 lần so
với cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu của UBCK, 6 tháng đầu năm, huy động vốn thông qua
hình thức phát hành cổ phiếu ra công chúng đạt 6.431 tỷ đồng (tính
15
theo phương án nêu trong bản cáo bạch). Con số này chỉ bằng xấp xỉ

40% so với cùng kỳ năm ngoái.
Vốn huy động qua phát hành thêm cổ phiếu, đấu giá cổ phần hóa
đạt 17,5 nghìn tỷ đồng, tương đương 22% so với năm 2010, riêng vốn
huy động qua trái phiếu Chính phủ và Chính phủ bảo lãnh đạt 73,7
nghìn tỷ đồng, gấp 2,6 lần so với năm 2010. 65 công ty chứng khoán
thua lỗ và 71 công ty chứng khoán có lỗ lũy kế. Giá trị vốn hóa thị
trường chỉ còn hơn 20% GDP
Mặc dù có nhiều khó khăn và thách thức, nhưng năm 2011, Sở
GDCK Tp. Hồ Chí Minh vẫn có 30 công ty niêm yết mới, huy động
vốn qua thị trường chứng khoán. Sở đã tổ chức được 11 cuộc đấu giá,
thu được 672 tỷ đồng cho doanh nghiệp, các công ty niêm yết thực
hiện phát hành thêm huy động được 16,9 ngàn tỷ đồng.
3. Năm 2012
Thị trường chứng khoán huy động 84 nghìn tỷ đồng 6 tháng đầu
năm 2012. Kết quả này tăng gấp 2 lần cùng kỳ năm 2011. Tuy nhiên,
vốn huy động qua phát hành cổ phiếu giảm 50% so với cùng kỳ.
UBCKNN đã tổ chức 9 phiên đấu giá tại 2 Sở GDCK với tổng giá trị
chào bán đạt 206 tỷ đồng (giảm 50% so với cùng kỳ); tổ chức được 82
đợt đấu thầu trái phiếu chính phủ với tổng giá trị trúng thầu đạt trên
78,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 3,5 lần so với cùng kỳ năm trước.
II. Thuận lợi và khó khăn khi huy động trên TTCK Việt Nam
1. Thuận lợi
Thị trường chứng khoán luôn là nơi huy động vốn hiệu quả nhất
trong các phương thức huy động vốn. Nguồn vốn này dài hạn và đủ
sức phục vụ cho các kế hoạch đầu tư lâu dài.
Thống kê của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, huy động vốn của
thị trường chứng khoán qua 12 năm được 700.000 tỷ đồng. Với con số
này, TTCK đã và đang được xem là kênh huy động vốn trung và dài
hạn chính cho nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh ngân hàng khó khăn.
Với doanh nghiệp lớn do có uy tín lâu nên việc phát hành CK để

huy động vốn là dễ dàng hơn đồng thời tiết kiệm chi phí lãi vay cũng
như nhiều chi phí khác.
16
Huy động được nguốn vốn dồi dào và rẻ, có lợi hơn việc vay vốn
ngân hàng.
2. Khó khăn
- Điều kiện để chào bán CK ra công chúng trên TTCK là khó khăn
như:
Theo điều 12 Luật CK:
+ Để có thể chào bán cổ phiếu ra công chúng phải:có vốn điều lệ
trên 10 tỷ Việt Nam ,hoạt động kinh doanh năm liền trước phải có
lãi, đồng thời không có lãi lũy kế.
+ Còn với trái phiếu là: có vốn điều lệ trên 10 tỷ VND, hoạt động
kinh doanh năm liền trước đăng kí phải có lãi, đồng thời không có
lỗ lũy kế, không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên 1 năm,…
- Chủ doanh nghiệp vay vốn bằng chữ “Tín”
Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ do chưa có uy tín trên
thương trường nên khi phát hành chứng khoán huy động vốn gặp
nhiều khó khăn và có thể bị huy niêm yết trên SGD do không bán
được chứng khoán
- Việc sử dụng vốn huy động của nhiều doanh nghiệp là không hiệu
quả dẫn đến gánh nặng nợ tăng cao, doanh nghiệp dễ rơi vào phá
sản
- Với việc phát hành cổ phiếu công ty sẽ phải chia sẻ quyền sở hữu
công ty, và có thể dẫn đến một số cổ đông sáng lập sẽ mất quyền
quyết định cao nhất.
- Vấn đề chi trả lợi tức cho trái phiếu, cổ phiếu cũng ảnh hưởng đến
lợi nhuận của công ty
- Nhiều rủi ro: để có 700.000 tỷ đồng trong 12 năm, TTCK Việt
Nam đã không ít lần biến động mạnh. Năm 2007, khi TTCK đạt

đỉnh cao của sự hoàng kim, nhiều nhà đầu tư đã xem TTCK như
một “canh bạc” lớn, đổ xô đầu tư chứng khoán. Từ doanh nghiệp
(DN), công chức, viên chức đến chị đầu bếp đều tham gia thị
trường nhằm kiếm lời. Bước sang 2008, TTCK đã bắt đầu có dấu
hiệu đi xuống. Thế nhưng, nhiều nhà đầu tư vẫn kỳ vọng, sự đi
xuống chỉ là nhất thời, TTCK sẽ sớm trở lại thời hoàng kim. Vì thế,
số lượng nhà đầu tư và các CTCK vẫn tiếp tục tăng. Tuy nhiên, từ
năm 2009 đến nay, TTCK tuột dốc không phanh, bất chấp các nhận
định: thị trường sẽ sớm khởi sắc.
 Thực tế cho thấy, sự đi xuống của thị trường là tất yếu, khi việc
làm giá và báo cáo tài chính của các DN niêm yết phần lớn là ảo.
17
Chưa kể, tình hình kinh tế khó khăn đã kéo các DN niêm yết rơi vào
khó khăn, nợ nần chồng chất. Hệ quả sự tăng trưởng nóng của tín
dụng do sự cho vay dễ dãi, cùng với sự suy yếu của kinh tế đã làm
TTCK liên tục đỏ sàn. Rõ ràng, TTCK tuy hoạt động 12 năm nhưng
vẫn là ngành kinh doanh mới, chứa đựng nhiều khó khăn, rủi ro.
Tái cấu trúc cần minh bạch
Trong bối cảnh TTCK có những “nốt trầm” này, điều lo lắng nhất
vẫn chính là tính thanh khoản trên thị trường. Đây cũng chính là
thước đo “sức khỏe” không chỉ của TTCK nói riêng, mà của nền
kinh tế nói chung. Theo đó, thanh khoản tốt sẽ làm cho giá cả phản
ánh thực chất cung cầu mà không bị bóp méo bởi các giao dịch
thao túng, làm giá trên thị trường.
Sau 12 năm phát triển, quy mô thị trường đã có hơn 100 CTCK, 2
Sở giao dịch chứng khoán, hơn 700 công ty niêm yết và 131 công
ty đăng ký giao dịch. Tuy nhiên, quy định pháp luật về chứng
khoán và TTCK còn chậm ban hành, chưa theo kịp diễn biến thị
trường. Các tổ chức trung gian hoạt động chưa chuyên nghiệp, chất
lượng quản trị điều hành, quản trị rủi ro còn kém… Vì thế, sắp tới

đây UBCKNN sẽ tái cấu trúc TTCK, cụ thể là hợp nhất 2 Sở giao
dịch chứng khoán thành một. Điều này đồng nghĩa, TTCK Việt
Nam sẽ chuyển sang tập trung vào chất lượng. Theo đó sẽ giảm từ
hơn 100 xuống còn vài chục CTCK. Điều này sẽ giúp cho thị
trường cải thiện và nâng cao thanh khoản, giúp TTCK phát triển
bền vững.
Hiện có 40/105 CTCK khó khăn về thanh khoản không đảm bảo
chỉ tiêu an toàn tài chính , có 71 CTCK bị thua lỗ (do giá cổ phiếu
giảm thấp và đầu tư không hiệu quả). Chưa kể quý I/2012, đã có 4
CTCK xin rút nghiệp vụ môi giới, điều này đồng nghĩa những
CTCK này sẽ xóa sổ hoạt động. Nhiều chuyên gia dự báo, trong
tổng số các CTCK hiện nay, sẽ chỉ còn khoảng 1.3 tồn tại, khi mà
các quy định quản lý CTCK ngày càng chặt chẽ.
Những điểm còn hạn chế trong việc huy động vốn thông qua phát
hành chứng khoán ra công chúng.
18
- Không có kế hoạch sử dụng vốn huy động được
- Khi các công ty phát hành chứng khoán để huy động vốn, có doanh
nghiệp thu về cùng lúc một lượng vốn rất lớn rồi lúng túng, lúc đó
mới làm kế hoạch sử dụng vốn. Điều này thể hiện sự thiếu chặt chẽ
trong việc khai thác nguồn tiền của đại chúng, có thể làm môi
trường phát hành xấu đi.
- Thời điểm phát hành chứng khoán để huy động vốn là không thích
hợp
- Nếu lựa chọn sai thời điểm phát hành thì thông tin về đợt phát hành
có thể ảnh hưởng xấu đến thị trường và qua đó ảnh hưởng đến cổ
phiếu của công ty đang lưu hành (giá cổ phiếu đang lưu hành giảm)
và ảnh hưởng đến số vốn dự kiến huy động.
- Sử dụng vốn huy động được vào đầu tư tài chính, bất động sản
- Thặng dư vốn từ việc phát hành cổ phiếu ở nhiều DN là khá lớn.

Để vốn không nằm chết một chỗ, DN đưa tiền trở lại TTCK thông
qua hình thức đầu tư tài chính, hoặc dùng tiền huy động để đầu tư
bất động sản. Trong tình hình nền kinh tế ổn định thì không ảnh
hưởng nhưng nếu có biến động thì có nguy cơ kéo theo đổ vỡ dây
chuyền.
- Việc tăng vốn quá lớn trong một lộ trình quá nhanh có thể dẫn đến
phá vỡ cấu trúc vốn, mất cân đối giữa vốn chủ sở hữu và vốn nợ,
dẫn đến sử dụng vốn không hiệu quả
- Không xác định được cổ đông chiến lược của công ty trong phát
hành chứng khoán
- Xảy ra tình trạng loãng giá chứng khoán khi phát hành thêm chứng
khoán ra công chúng
III. Giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn trên TTCK
1. Nâng cao tỉ lệ tham gia của các doanh nghiệp vào TTCK
Các giải pháp xoay quanh việc tăng quyền lợi cho các doanh nghiệp
khi niêm yết trong điều kiện có thể như: giảm thuế nhiều hơn, giảm
thiểu các loại phí, thủ tục đơn giản, thuận tiện hơn, hỗ trợ tư vấn niêm
19
yết, hỗ trợ kiểm toán; tăng cường tuyên truyền về ưu thế niêm yết
trong tương lai dài hoặc hỗ trợ công ty để họ cú thờm cỏc dự án đầu
tư,…Tuy nhiên, giải pháp có tính then chốt, quyết định lại phải tập
trung giảm thiểu những ưu thế không chính đáng của việc không niêm
yết hiện nay của các công ty cổ phần. Những ưu thế này đang là điều
tai hại cho bản thân từng công ty, cho cả nền kinh tế, xã hội trên nhiều
phương diện nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
2. Nâng cao tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán.
- Tăng cung chứng khoán cho thị trường cả về số lượng, chất lượng
và chủng loại
+ Gắn tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước với việc tăng

phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng
khoán.
+ Lựa chọn các doanh nghiệp lớn, các ngân hàng thương mại cổ phần
có đủ điều kiện để phát hành thêm cổ phiếu và tham gia niêm yết trên
thị trường chứng khoán tập trung.
+ Mở rộng việc chuyển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
thành các công ty cổ phần và các chính sách khuyến khớch cỏc doanh
nghiệp tham gia niêm yết cổ phiếu trên thị trường phi tập trung.
+ Phát triển các loại chứng khoỏn khỏc: quyền mua cổ phiếu, trái
phiếu công ty, trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ
đầu tư để đưa vào niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán.
+ Giám sát và hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc thực hiện thông
lệ tốt nhất về giá trị công ty, thực hiện chế độ kiểm toán theo quy định
của pháp luật, tăng cường quản lý, giám sát các công ty niêm yết
20
trong việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin và các nghĩa vụ đối
với nhà đầu tư.
- Thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, tham
gia thị trường chứng khoán
+ Thực hiện chính sách khuyến khích về thuế đối với nhà đầu tư
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng, các tổ chức
và cá nhân nước ngoài tham gia trên thị trường chứng khoán .
+ Mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với nhà đầu tư nước ngoài
trên thị trường chứng khoán Việt Nam
- Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán.
+ Áp dụng biện pháp cưỡng chế thực thi quyết định về giá trị công ty
theo thông lệ quốc tế đối với các công ty niêm yết, các công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư và chế độ công bố thông tin theo
luật định.
+ Nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của tổ chức phát

hành, niêm yết và kinh doanh chứng khoán.
+ Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán.
+ Tăng cường năng lực quản lý nhà nước, bảo đảm sự quản lý linh
hoạt, nhạy bén đối với thị trường chứng khoán. Nhà nước thực hiện
điều chỉnh, điều tiết thị trường thông qua các chính sách, công cụ kinh
tế- tài chính- tiền tệ: thuế, lãi suất, đầu tư và cỏc cụng cụ tài chính
khác.
- Đẩy mạnh hoạt động và tăng cường vai trò của hiệp hội ngành
chứng khoán trong việc hỗ trợ các cơ quan quản lý nhà nước trên
21
các phương diện: xây dựng khuôn khổ pháp lý, đào tạo nhân lực,
giám sát,…
- Tăng cường hợp tác quốc tế.
3. Nâng cao định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp.
Việc nâng cao định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp không
phải tự mình doanh nghiệp là có thể thực hiện được. Ngoài những nỗ
lực từ chính bản thân doanh nghiệp để tự hoàn thiện mình, nâng cao
uy tín của bản thân trong mắt các nhà đầu tư thì các doanh nghiệp phải
tìm được cho mình các công ty định mức tín nhiệm có uy tín cao.
Hiện nay trên thế giới có 3 công ty định mức tín nhiệm quốc tế
đang thống lĩnh thị trường, đều là công ty ĐMTN của Mỹ, gồm :
Moody’s; Standard and Poor và Fitchratings. Trong khu vực Châu á
có một số công ty ĐMTN có uy tín như công ty định mức tín nhiệm và
thông tin quốc gia Hàn Quốc, công ty ĐMTN và thông tin Thái Lan…
Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có chính sách nào khuyến khích hay tạo
điều kiện cho tổ chức tín nhiệm ra đời.
4. Nâng cao hiệu quả của việc phát hành trái phiếu công ty.
- Giải pháp đầu tiên như đã nói ở phần 3, đó là thành lập công ty
ĐMTN ở Việt Nam. Công ty này có trách nhiệm đánh giá các tổ
chức phát hành trên thị trường nhằm giúp các nhà đầu tư nhận định

cơ hội đầu tư trái phiếu, đồng thời giúp các doanh nghiệp và các tổ
chức trung gian khỏc xác định mức lãi suất phù hợp trên thị trường.
- Hai là, hình thành lãi suất chuẩn trái phiếu chính phủ, làm cơ sở
xác định lãi suất trái phiếu công ty trên thị trường.
- Ba là: có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái
phiếu công ty.
- Bốn là: phát huy vai trò và nâng cao năng lực của các tổ chức trung
gian trên thị trường, đặc biệt là các công ty chứng khoán trong việc
bảo lãnh phát hành trái phiếu.
- Năm là: phát huy vai trò của các tổ chức bảo lãnh thanh toán trái
phiếu. để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, trong giai đoạn đầu, trái
phiếu công ty rất cần được sự nâng đỡ của các tổ chức tài chính có
22
uy tín trên thị trường như: ngân hàng thương mại nhà nước, quĩ hỗ
trợ phát triển, …
- Sáu là: đẩy mạnh phát triển thị trường chứng khoán nhằm nâng cao
tính thanh khoản cho trái phiếu công ty, tạo thuận lợi cho việc phát
hành. Đặc biệt chú trọng đến các nhà đầu tư có tổ chức trên thị
trường, đây chính là các đối tượng quan trọng trong tạo lập thị
trường.
- Bảy là: xây dựng các thể chế thị trường trong việc giám sát các
nguồn vốn phát sinh từ trái phiếu, minh bạch húa cỏc thông tin về
tổ chức phát hành.
- Tám là: Đa dạng hóa hình thức các loại trái phiếu. Tổ chức phát
hành có thể lùa chọn cỏc hỡnh thức lãi suất cố định hay thả nổi, trái
phiếu có bảo đảm hoặc kèm chứng quyền, trái phiếu chuyển đổi
nhằm tạo tính hấp dẫn cho trái phiếu thu hót nhà đầu tư.
- Chín là: làm cho các tổ chức phát hành, các nhà đầu tư, các tầng
lớp dân cư hiểu rõ lợi ích của việc phát hành trái phiếu công ty.
4. Một số giải pháp khác

Bên cạnh những giải pháp chủ yếu để khắc phục những hạn chế
còn tồn tại ở trên, ta có thể đi tìm một số giải phỏp khỏc để làm tăng
khả năng huy động vốn qua thị trường chứng khoán
Thứ nhất: cần có chính sách mở rộng tỉ lệ tham gia của các nhà đầu
tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Hiện nay, tỉ lệ
nắm giữ cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 30 – 49%
tổng số cổ phiếu của các công ty niêm yết. Việc mở rộng tỉ lệ tham gia
của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán là một giải
pháp nhằm thu hút vốn đầu tư, đồng thời cũng là một bước đi nằm
trong lộ trình mở cửa thị trường phù hợp với các cam kết quốc tế mà
Việt Nam đã tham gia khi trở thành thành viên của WTO.
Tuy nhiên, điều đó lại gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán, đặc biệt là sau khi Việt Nam ra nhập WTO ngày
7/11/2006, bởi sẽ có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài lớn nhảy vào
23
thị trường chứng khoán Việt Nam, điều đú đũi hỏi các doanh nghiệp
Việt Nam cần phải bản lĩnh và phải chủ động trước những cơ hội,
thách thức của thị trường.
Thứ hai: bên cạnh việc tích cực phát hành trái phiếu ra thị trường
trong nước, cần đẩy mạnh phát hành trái phiếu công ty ra thị trường
quốc tế. Đây là một hình thức khá mới mẻ, phức tạp đòi hỏi các doanh
nghiệp phải đi từng bước, không được nóng vội. Cần phải thận trọng
khi xác định các thị trường sẽ phát hành còng như sè lượng sẽ phát
hành; khi mới phát hành, nên chọn những thị trường không đòi hỏi
xếp hạng tín nhiệm( thị trường châu á, thị trường tư nhân ở Mỹ,…)
bởi vì hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa được xếp hạng tín
nhiệm hay mức tín nhiệm không cao.
Những giải pháp đưa ra trên đây chỉ là lí thuyết, căn cứ đưa nó
được vào thực tế hay không là còn phụ thuộc vào các cơ quan quản lí
nhà nước, và khả năng của chính bản thân các doanh nghiệp. Hi vọng

rằng trong tương lai không xa, việc huy động vốn qua thị trường
chứng khoán Việt Nam sẽ trở thành kênh quan trọng.
24
25

×