Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

thực trạng thị trường chứng khoán phái sinh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.68 KB, 34 trang )

Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
PHỤ LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những khó
khăn, những cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, những biến động bất thường
về nền kinh tế toàn cầu, những tăng giảm đột ngột của giá xăng, dầu thế giới, những bấp
bênh của tỷ giá đồng USD… đang là những vấn đề đáng lo lắng cho những NĐT, những
doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vậy phải làm gì để giảm bớt rủi ro? Để tối thiểu tổn thất
và tối đa hoá lợi nhuận? Một đòi hỏi cấp thiết đối với thị trường là phải đa dạng hoá các
sản phẩm tài chính PS, nâng cao chất lượng các dịch vụ hiện có, khuyến khích các doanh
nghiệp tích cực tham gia vào thị trường này để loại bỏ bớt những rủi ro không đáng có.
Đề tài này tập trung nghiên cứu thực trạng về TTCK PS ở Việt Nam, tìm ra nguyên nhân,
tồn tại và kiến nghị những giải pháp, định hướng cho sự phát triển của TTCK PS Việt
Nam trong tương lai.
Đề tài tập trung nghiên cứu:
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 1
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
- Quá trình hình thành và của dụng các công cụ tài chính PS ở Việt Nam.
- Cơ sở pháp lý cho hoạt động của các Ngân hàng thương mại, các Tổ chức tín
dụng khi tham gia kinh doanh các sản phẩm tài chính PS.
- Tìm hiểu về TTCK PS ở Việt Nam, mức độ áp dụng các công cụ tài chính PS
của các doanh nghiệp.
Bố cục nội dung đề tài gồm 3 phần:
 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHỨNG KHOÁNVÀ CHỨNG KHOÁN PS
 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHỨNG KHOÁN PS
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÔNG CỤ
CHỨNG KHOÁN PS
Bảng phụ lục từ viết tắt:
TTCK Thị trường chứng khoán
UBCK Ủy ban chứng khoán


SGDCK Sở giao dịch chứng khoán
NĐT Nhà đầu tư
PS Phái sinh
TPCP Trái phiếu chính phủ
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 2
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHỨNG KHOÁN
VÀ CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH
1.1. Chứng khoán và các loại chứng khoán
1.1.1. Khái niệm về chứng khoán
Chứng khoán là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư, xác nhận quyền sở hữu
hoặc quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong một thời
hạn nào đó và có khả năng chuyển nhượng. Chứng khoán là tài sản tài chính có những
đặc điểm sau đây:
- Tính thanh khoản (tính lỏng): tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển đổi tài sản ra
tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời gian cần thiết cho việc
chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của tài sản đó do chuyển đổi. Chứng
khoán có tính lỏng cao hơn các tài sản khác, thể hiện khả năng chuyển nhượng cao trên
thị trường và các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng khác nhau.
- Tính rủi ro: khi nói đến chứng khoán thì người ta thường nghĩ tới những rủi ro tác
động tới nó. Rủi ro có thể là có hệ thống như rủi ro do những chính sách của nhà nước,
do phản ứng của NĐT, do lạm phát, thay đổi của lãi suất hoặc đó có thể là rủi ro phi
hệ thống bao gồm những rủi ro trong khi phát hành, trong kinh doanh, Các NĐT
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 3
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
thường quan tâm tới việc xem xét đánh giá các rủi ro liên quan tới chứng khoán mà
mình muốn đầu tư, hoặc đang đầu tư để đưa ra quyết định nắm giữ hay là bán chứng
khoán đi.
- Tính sinh lời: khi đầu tư và chứng khoán, cái mà NĐT quan tâm chính là tính sinh lời

của tài sản. Các NĐT luôn mong muốn nhận được một thu nhập lón hơn trong tương
lai. Và thu nhập này được đảm bảo bằng lợi tức phân chia hàng năm và việc tăng giá
chứng khoán trên thị trường. Khả năng sinh lời cao luôn đi kèm với rủi ro cao và
ngược lại, khả năng sinh lời thấp thì rủi ro thấp.
1.1.2. Các loại chứng khoán
a) Cổ phiếu
 Khái niệm: cổ phiếu là là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi
sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty. Cổ phiếu thường là
loại tài sản có thu nhập biến đổi. Thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu mang lại gọi là cổ
tức, biến động theo kết quả kinh doanh của công ty.
 Các loại cổ phiếu:
+ Cổ phiếu thường (cổ phiếu phổ thông): là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ
đông đối với công ty và xác nhận cho phép cổ đông được hưởng các quyền lợi thông
thường trong công ty. Người nắm giữ cổ phiếu thường là cổ đông thường và là đồng sở
hữu của công ty cổ phần. Cổ phiếu thường có những đặc điểm chủ yếu sau:
 Là loại cổ phiếu có thu nhập phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty.
Người sở hữu cổ phiếu phổ thông được tham gia họp Đại hội đồng cổ đông và được bỏ
phiếu quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty, được quyền bầu cử và ứng
cử vào Hội đồng Quản trị của công ty.
 Cổ phiếu của công ty không có thời hạn hoàn trả, vì đây không phải là khoản nợ
đối với công ty.
 Cổ đông được chia phần giá trị tài sản còn lại khi thanh lý công ty sau khi công ty
đã thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho các cổ đông ưu đãi.
 Người góp vốn vào công ty không được quyền trực tiếp rút vốn ra khỏi công ty,
nhưng được quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phần dưới hình thức bán lại cổ phiếu hay
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 4
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
dưới hình thức quà tặng hay để lại cho người thừa kế. Chính điều này đã tạo ra tính
thanh khoản cho cổ phiếu công ty, đồng thời cũng hấp dẫn NĐT.
 Được quyền ưu tiên mua cổ phiếu khi công ty phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn.

 Được quyền triệu tập đại hội đồng cổ đông bất thường theo luật định.
 Cổ đông thường cũng phải gánh chịu những rủi ro mà công ty gặp phải, tương ứng
với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm giới hạn trong phạm vi số lượng vốn góp vào
công ty.
+ Cổ phiếu ưu đãi: là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một công ty, đồng thời
cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu tiên hơn so
với cổ đông phổ thông. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được gọi là cổ đông ưu đãi của
công ty. Cổ phiếu ưu đãi được xem là một loại chứng khoán lai ghép giữa cổ phiếu
thường và trái phiếu do có những đặc điểm sau:
• Quyền được nhận cổ tức trước các cổ đông thường, mặc dù người có cổ phiếu ưu đãi
chỉ được quyền hưởng lợi tức cổ phần giới hạn nhưng họ được trả cổ tức trước khi chia
lợi tức cho cổ đông thường. Khác với cổ tức của cổ phiếu phổ thông, cổ tức của cổ
phiếu ưu đãi được xác định trước và thường được xác định bằng tỷ lệ phần trăm cố định
so với mệnh giá của cổ phiếu hoặc bằng số tiền nhất định in trên mỗi cổ phiếu.
• Quyền ưu tiên được thanh toán trước, khi giải thể hay thanh lý công ty, nhưng sau
người có trái phiếu.
• Tương tự như cổ phiếu phổ thông, nhưng cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được
tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng Quản trị và quyết định những vấn đề quan trọng
của công ty.
• Cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá và mệnh giá của nó cũng
không ảnh hưởng tới giá thị trường của cổ phiếu ưu đãi. Mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi
có ý nghĩa hơn đối với mệnh giá của cổ phiếu phổ thông, vì nó là căn cứ để trả cổ tức
và là căn cứ để hoàn vốn khi thanh lý hay giải thể công ty.
• Tuy cổ tức của cổ phiếu ưu đãi là cố định, nhưng cổ đông ưu đãi cũng chỉ được nhận cổ
tức khi công ty làm ăn có lợi nhuận.
b) Trái phiếu
 Khái niệm:
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 5
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
Trái phiếu theo nghĩa đơn giản là giấy hứa trả tiền dài hạn do người phát hành (người đi

vay) cam kết hoàn trả cho trái chủ (người sở hữu trái phiếu – người cho vay) toàn bộ tiền
gốc và lãi theo các điều khoản ghi trên trái phiếu. Thông thường trên trái phiếu có các
điều khoản sau:
 Mệnh giá trái phiếu: hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi
trên trái phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác
định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền
người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn.
 Lãi suất danh nghĩa: Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người
phát hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này được xác định theo tỷ
lệ phần trăm so với mệnh giá trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu.
 Thời hạn của trái phiếu: là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người
phát hành hoàn trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung hạn
cóa thời gian từ 1 năm đến 5 năm. Trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm trở lên.
 Kỳ trả lãi: Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái
phiếu. Lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi suất trái
phiếu thường được mỗi năm hai hoặc một lần.
 Giá phát hành: Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông
thường giá phát hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy theo
tình hình của thị trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách
thích hợp. Có thể phân biệt 3 trường hợp:
- Giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá);
- Giá phát hành dưới mệnh giá (giá chiết khấu);
- Giá phát hành trên mệnh giá (giá gia tăng).
 Dù trái phiếu được bán với giá nào (ngang giá, giá chiết khấu hay giá gia tăng), thì
lợi tức luôn được xác định theo mệnh giá của trái phiếu và khi đáo hạn, người có trái
phiếu sẽ được thanh toán theo mệnh giá của trái phiếu.
Trái phiếu có những đặc điểm cơ bản sau:
 Chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ có Công ty, mà còn có Chính phủ Trung
ương và Chính phủ địa phương.
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 6

Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
 Người mua trái phiếu chỉ là người cho chủ thể phát hành vay tiền và là chủ nợ của
chủ thể phát hành trái phiếu. Khác với người mua cổ phiếu là người Chủ sở hữu Công
ty.
 Thu nhập của trái phiếu là tiền lãi, là khoản thu cố định không phụ thuộc vào kết
quả sản xuất kinh doanh của công ty.
 Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi Công ty bị giải thể hoặc phá sản thì trước
hết Công ty phải có nghĩa vụ thanh toán cho các Chủ trái phiếu trước, sau đó mới chia
cho các Cổ đông.
 Phân loại trái phiếu theo tính chất của trái phiếu:
• Giấy chứng nhận nợ là thuật ngữ áp dụng cho bất cứ khoản nợ dài hạn nào không
được đảm bảo bằng quyền xiết nợ đối với bất động sản thực tế (tương tự như món vay
không thế chấp.
• Trái phiếu cầm cố: ngược lại với giấy chứng nhận nợ thì trái phiếu cầm cố là loại trái
phiếu được đảm bảo bằng quyền xiết nợ đối với bất động sản thực tế. giá trị bất động
sản thực tế luôn phải lớn hơn tổng giá trị trái phiếu cầm cố được phát hành.
• Trái phiếu zerocoupon là loại trái phiếu cho phép công ty phát hành không trả lãi
hàng năm hoặc trả với lượng rất nhỏ. Loại trái phiếu này còn có thể gọi là trái phiếu
chiết khấu vì khi NĐT mua loại trái phiếu này chỉ phải trả với một lượng nhỏ hơn
mệnh giá.
• Trái phiếu mạo hiểm: đây là loại trái phiếu do các công ty mới chưa có thành công
nổi bật hoặc do các công ty nổi tiếng phát hành nhưng đang rơi tình trạng khó khăn
trong tài chính hoặc trái phiếu được đầu tư vào tài sản rủi ro cao. Những trái phiếu
này thường được đánh giá ở mức BB hoặc mức thấp hơn.
• Trái phiếu châu Âu (Eurobond): đây là loại trái phiếu được phát hành ở nước khác
với nước mà đồng tiền của nó được sử dụng để làm đơn vị tính toán trong trái phiếu.
Loại trái phiếu này không nhất thiết phải phát hành ở châu Âu. Chỉ cần đồng tiền
thanh toán khác với nước phát hành ra trái phiếu này.
Ngoài cách phân loại trên trái phiếu còn có thể phân loại theo phương thức trả gốc và
lãi, hoặc theo trái phiếu ghi danh và trái phiếu không ghi danh, hoặc theo chủ thể phát

hành
c) Chứng chỉ quỹ đầu tư
 Khái niệm quỹ đầu tư và chứng chỉ quỹ đầu tư
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 7
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của NĐT đối với một phần
vốn góp của quỹ đại chúng. Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán hình thành từ vốn
góp của NĐT, với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đa dạng hóa đầu tư vào chứng khoán
hoặc các dạng tài sản đầu tư khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó NĐT không có
quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. Khi muốn thành
lập quỹ, công ty quản lý quỹ phải phát hành chứng chỉ quỹ, NĐT mua chứng chỉ quỹ tức
là đã xác nhận sự góp vốn của mình vào quỹ chung đó.
 Các loại hình quỹ đầu tư:
- Căn cứ vào nguồn vốn huy động:
+ Quỹ đầu tư tập thể (Quỹ công chúng): Là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành
rộng rãi ra công chúng. NĐT có thể là cá nhân hay pháp nhân nhưng đa phần là các NĐT
riêng lẻ. Quỹ công chúng cung cấp cho các NĐT nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa
dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu quả cao do tính chuyên
nghiệp của đầu tư mang lại.
+ Quỹ đầu tư cá nhân (Quỹ thành viên): Quỹ này huy động vốn bằng phương thức
phát hành riêng lẻ cho một nhóm nhỏ các NĐT, có thể được lựa chọn trước, là các cá
nhân hay các định chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn, do vậy tính thanh khoản
của quỹ này sẽ thấp hơn quỹ công chúng. Các NĐT vào các quỹ tư nhân thường với
lượng vốn lớn, và đổi lại họ có thể tham gia vào trong việc kiểm soát đầu tư của quỹ.
- Căn cứ vào cấu trúc vận động vốn:
+ Quỹ đóng: Đây là hình thức quỹ phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi tiến
hành huy động vốn cho quỹ và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu
tư khi NĐT có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi kết
thúc việc huy động vốn (hay đóng quỹ), các chứng chỉ quỹ sẽ được niêm yết trên TTCK.
Các NĐT có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư của mình

thông qua thị trường thứ cấp. Tổng vốn huy động của quỹ cố định và không biến đổi
trong suốt thời gian quỹ hoạt động. Hình thức quỹ đóng này mới được áp dụng tại Việt
Nam, đó là Quỹ đầu tư VF1 do công ty VFM huy động vốn và quản lý.
+ Quỹ mở: Khác với quỹ đóng, tổng vốn cũa quỹ mở biến động theo từng ngày giao dịch
do tính chất đặc thù của nó là NĐT được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ, và
quỹ phải mua lại các chứng chỉ theo giá trị thuần vào thời điểm giao dịch. Đối với hình
thức quỹ này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 8
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên TTCK. Do việc đòi hỏi tính
thanh khoản cao, hình thức quỹ mở này mới chỉ tồn tại ở các nước có nền kinh tế và
TTCK phát triển như Châu Âu, Mỹ, Canada… và chưa có mặt tại Việt Nam.
- Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ:
+ Quỹ đầu tư dạng công ty: Trong mô hình này, quỹ đầu tư là một pháp nhân, tức là
một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật từng nước. Cơ quan điều hành
cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị do các cổ đông (NĐT) bầu ra, có nhiệm vụ chính là
quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động
đầu tư của công ty quản lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý quỹ. Trong mô hình
này, công ty quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến
hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh
doanh khác. Mô hình này chưa xuất hiện ở Việt Nam bởi theo quy định của UBCK nhà
nước, quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân.
+ Quỹ đầu tư dạng hợp đồng: Đây là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Khác với mô hình
quỹ đầu tư dạng công ty, mô hình này quỹ đầu tư không phải là pháp nhân. Công ty quản
lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo
những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Bên cạnh đó, ngân hàng giám sát có vai trò
bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng
giám sát được thể hiện bằng hợp đồng giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ
của hai bên trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các
NĐT. NĐT là những người góp vốn vào quỹ (nhưng không phải là cổ đông như mô hình

quỹ đầu tư dạng công ty) và ủy thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để bảo đảm khả
năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ.
d) Chứng khoán phái sinh
Nhắc đến chứng khoán, mọi người thường chỉ nghĩ đến cổ phiếu, trái phiếu hay chứng
chỉ quỹ đầu tư như những công cụ đầu tư hiệu quả, trong khi TTCK còn rất bao la, mà
những tài sản trên chỉ là một vài trong số đó. Còn vô số những khái niệm và công cụ đầu
tư khác phải kể đến, mà chứng khoán PS chính là yếu tố quan trọng đầu tiên không thể bỏ
qua. Vậy chứng khoán PS là công cụ như thế nào có đặc điểm ra sao chúng ta sẽ phân
tích kỹ trong phần 1.2.
1.2. Chứng khoán phái sinh
1.2.1. Khái niệm về chứng khoán phái sinh
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 9
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
Chứng khoán PS (derivatives) là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công
cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro,
bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán PS sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều
lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, hoặc để đảm bảo rằng nếu
giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ PS vẫn sẽ được
duy trì ở mức ban đầu.
1.2.2. Đặc điểm của chứng khoán phái sinh
a) Tự bảo hiểm:
Các PS cho phép rủi ro liên quan đến giá của tài sản cơ bản được chuyển giao từ một
bên này sang một bên khác. Ví dụ, công ty của Mỹ có thể ký với một ngân hàng của Nhật
một hợp đồng quyền chọn bán một số tiền mặt theo tỷ giá xác định trước. Cả hai bên đã
làm giảm nguy cơ trong tương lai: đối với công ty Mỹ là sự không ổn định hoặc là tỷ giá
sẽ giảm, còn đối với ngân hàng họ có thể kinh doanh nhờ thu được phí từ hợp đồng trên.
Tuy nhiên, nếu như tỷ giá tăng lên, công ty của Mỹ có thể không thực hiện hợp đồng
nhưng vẫn phải mất một mức phí được xác định trước.
Từ góc độ khác, cả công ty và ngân hàng ngoài việc làm giảm rủi ro thì họ cũng phải
chấp nhận rủi ro khác khi họ ký hợp đồng tương lai: đối với công ty, rủi ro xảy ra với họ

là tỷ giá sẽ tăng lên, họ sẽ mất một phần lợi nhuận từ mức phí mà họ phải chịu. Đối với
ngân hàng, rủi ro xảy ra là tỷ giá sẽ giảm xuống, và phần họ bị mất đó là phần chênh
lệch giữa tỷ giá trên thị trường và tỷ giá trong hợp đồng.
Bảo hiểm rủi ro cũng diễn ra khi một cá nhân hoặc tổ chức mua một tài sản (chẳng hạn
như một mặt hàng, trái phiếu có trả lãi, cổ phiếu trả cổ tức, vv) và bán nó bằng cách sử
dụng một hợp đồng tương lai. Các cá nhân hoặc tổ chức làm chủ tài sản trong một thời
gian nhất định, sau đó có thể bán nó trong tương lai tại một mức giá xác định theo hợp
đồng tương lai. Tất nhiên, điều này cho phép cá nhân hoặc tổ chức có được lợi ích của
việc nắm giữ tài sản, đồng thời giảm nguy cơ giá bán trong tương lai biến động không
mong muốn từ việc đánh giá hiện tại của thị trường về giá trị tương lai của tài sản.
Các PS có thể phục vụ mục đích kinh doanh hợp pháp. Ví dụ, một công ty vay mượn
một khoản tiền lớn với lãi suất cụ thể. Tỷ lệ lãi suất vay được xác định lại mỗi sáu tháng.
Công ty lo rằng tỷ lệ lãi suất có thể cao hơn nhiều trong vòng sáu tháng. Công ty này có
thể mua một hợp đồng lãi suất tương lai, thỏa thuận này là một hợp đồng phải trả một lãi
suất cố định đến sáu tháng sau khi mua một số tiền danh nghĩa. Nếu mức lãi suất sau sáu
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 10
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
tháng là cao hơn tỷ lệ ghi trên hợp đồng, người bán sẽ trả tiền chênh biệt cho công ty,
người mua hợp đồng trên, Nếu tỷ lệ thấp hơn, công ty sẽ trả tiền chênh lệch cho người
bán. Việc mua hợp đồng là để giảm sự không chắc chắn liên quan đến việc tăng lãi suất
và để ổn định thu nhập.
b) Đầu cơ và hưởng chênh lệch
Các PS có thể được sử dụng để nhận rủi ro, chứ không phải là để đảm bảo hoặc bảo
hiểm chống lại rủi ro. Vì vậy, một số cá nhân và các tổ chức sẽ tham gia vào một hợp
đồng PS để đầu cơ vào giá trị của tài sản cơ bản, đánh cược rằng bên tìm kiếm bảo hiểm
sẽ sai lầm về giá trị tương lai của tài sản cơ bản. Các nhà đầu cơ tìm mua một tài sản
trong tương lai tại một mức giá thấp theo hợp đồng PS khi cho rằng giá thị trường trong
tương lai của nó là cao, hoặc bán một tài sản trong tương lai tại một mức giá cao theo một
hợp đồng PS khi cho rằng giá thị trường trong tương lai của nó là thấp .
Cá nhân, tổ chức cũng có thể tìm kiếm các cơ hội chênh lệch, như khi giá mua hiện tại

của tài sản giảm xuống dưới mức giá được xác định trong một hợp đồng tương lai để bán
tài sản.
Mua bán đầu cơ các PS đã để lại tai tiếng vào năm 1995 khi Nick Leeson, một nhà đầu
cơ tại Ngân hàng Barings, khi thực hiện các đầu tư thiếu vốn và không được phép vào các
hợp đồng tương lai. Do thiếu phân tích, thiếu sự giám sát của các nhà quản lý của ngân
hàng và cơ quan quản lý và các sự kiện không may mắn khác như trận động đất Kobe,
Leeson đã gây lỗ 1,3 tỷ USD làm vỡ nợ tổ chức tài chính lâu đời hàng thế kỷ này.
1.2.3. Các kiểu phái sinh
a) Phái sinh phi tập trung (OTC)
Phái sinh OTC là các hợp đồng được giao dịch (và đàm phán riêng) trực tiếp giữa hai
bên, mà không cần phải thông qua một cuộc trao đổi hoặc trung gian khác. Các sản phẩm
như hợp đồng hoán đổi, thỏa thuận lãi suất kỳ hạn, và các tùy chọn ngoại lai hầu như
luôn luôn giao dịch theo cách này. Các thị trường PS OTC là thị trường lớn nhất cho các
PS, và phần lớn không được kiểm soát đối với việc tiết lộ thông tin giữa các bên, vì thị
trường OTC được thực hiện bởi các ngân hàng và các bên khác rất phức tạp, chẳng hạn
như các quỹ phòng hộ. Báo cáo các giao dịch OTC khó khăn bởi vì các giao dịch có thể
xảy ra riêng tư, mà không thể nhìn thấy bất kỳ hoạt động trao đổi nào.
b) Phái sinh niêm yết (ETD)
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 11
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
Phái sinh niêm yết (ETD) là những công cụ PS được giao dịch thông qua các chất dẫn
xuất chuyên ngành trao đổi, hoặc các thị trường niêm yết khác. Một thị trường PS niêm
yết là một thị trường nơi các cá nhân mua bán các hợp đồng được tiêu chuẩn hóa đã được
thị trường này xác định. Một thị trường PS niêm yết hoạt động như một trung gian cho tất
cả các giao dịch liên quan, và có lợi nhuận ngay từ đầu từ cả hai bên tham gia trao đổi để
hành động như người bảo lãnh.
1.2.4. Các hợp đồng phái sinh
a) Hợp đồng tương lai
- Khái niệm: Hợp đồng tương lai là một hợp đồng được tiêu chuẩn hoá, được giao dịch
trên thị trường giao dịch hợp đồng tương lai, để mua hay bán một số loại hàng hoá

nhất định, ở một mức giá nhất định, vào một ngày xác định trong tương lai. Ngày trong
tương lai đó gọi là ngày giao hàng, hay ngày thanh toán cuối cùng. Giá được xác định
ngay tại thời điểm kí hợp đồng được gọi là giá tương lai (futures price), còn giá của
hàng hoá đó vào ngày giao hàng là giá quyết toán. Thông thường, càng dần đến ngày
giao hàng thì giá quyết toán sẽ hội tụ dần về giá tương lai.
Trong khi hợp đồng tương lai nói đến việc mua bán trong tương lai thì mục đích của sở
giao dịch tương lai là giảm thiểu rủi ro phá vỡ hợp đồng giữa hai bên. Do đó, việc mua
bán đòi hỏi cả hai bên đặt cọc một khoản tiền ban đầu, gọi là tiền ký quỹ (hay "biên",
margin). Ngoài ra, thông thường do giá tương lai thay đổi hàng ngày nên mức chênh lệch
giữa giữa giá đã ấn định trước và giá tương lai mỗi ngày cũng được tính toán hàng ngày.
Trung tâm giao dịch sẽ rút tiền trong tài khoản ký quỹ của một bên và chuyển vào tài
khoản của bên kia, sao cho mỗi bên sẽ nhận được khoản lãi hay lỗ thích hợp mỗi ngày.
Nếu tài khoản ký quỹ xuống thấp hơn một giá trị nào đó thì người ta sẽ yêu cầu thêm
khoản ký quỹ (gọi là "gọi vốn biên") và chủ sở hữu sẽ phải bổ sung thêm tiền vào tài
khoản này. Quy trình này gọi là ghi giá thị trường(marking to the market). Do đó, vào
ngày giao hàng, số tiền mua bán không phải theo giá ghi trong hợp đồng mà là giá trị
giao ngay (do mọi khoản lãi và lỗ trước đó đã được thanh toán thông qua quá trình ghi
giá thị trường).
- Đặc điểm:
+) Hợp đồng tương lai là những sản phẩm do các sở giao dịch tạo ra. Là một thỏa thuận
giữa một người mua hoặc bán với sở giao dịch. Trung tâm thanh toán của SGD đóng vai
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 12
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
trò là đối tác của tất cả hợp đồng, họ đưa ra yêu cầu về ký quỹ và quan trọng là cũng cung
cấp một cơ chế thanh toán.
+) Các bên trong hợp đồng tương lai phải thực hiện hợp đồng vào ngày thanh toán. Để
thoát khỏi cam kết trước ngày thanh toán, các bên có thể bán (mua) một hợp đồng đối
ứng, để thoát khỏi vị thế và nghĩa vụ hợp đồng của mình.
+) Vị thế mua (long position): người nắm giữ vị thế mua có nghĩa vụ mua tài sản cơ sở
theo giá đã thỏa thuận vào ngày đáo hạn của hợp đồng.

+) Vị thế bán (short position): người nắm giữ vị thế bán có nghĩa vụ bán tài sản cơ sở
theo giá đã thỏa thuận vào ngày đáo hạn của hợp đồng
Ví dụ, vào ngày 17/2/1991, A ký một hợp đồng tương lai mua 100 cổ phiếu XYZ với giá
tương lai là F0 = 80.000đ/cổ phiếu. Để hạn chế rủi ro, khi ký hợp đồng, A phải ký quỹ
một khoản tiền trong tài khoản bảo chứng tại công ty thanh toán bù trừ. Ví dụ, mức bảo
chứng (margin) là 1 triệu đồng. Sau mỗi ngày, nếu có lãi, thì khoản lãi sẽ được cộng vào
tài khoản, còn nếu lỗ thì cũng sẽ bị trừ vào tài khoản. Nếu giá trị trong tài khoản bảo
chứng giảm xuống tới một mức giới hạn, ví dụ là 0,8 triệu đồng, gọi là mức bảo chứng
duy trì (maintenance margin) thì NĐT sẽ được yêu cầu ký quỹ thêm tiền cho đạt mức bảo
chứng 1 triệu đồng ban đầu, còn nếu không thì công ty bảo chứng sẽ “đóng” toàn bộ hay
một phần giá trị hợp đồng tương lai của NĐT để đảm bảo mức bảo chứng được thỏa mãn.
b) Hợp đồng kỳ hạn
- Khái niệm:
Hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng mua hay bán một số lượng nhất định đơn vị tài sản cơ sở
ở một thời điểm xác định trong tương lai theo một mức giá xác định ngay tại thời điểm
thỏa thuận hợp đồng. Thời điểm xác định trong tương lai gọi là ngày thanh toán hợp đồng
hay ngày đáo hạn. Thời gian từ khi ký hợp đồng đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của
hợp đồng. Giá xác định áp dụng trong ngày thanh toán hợp đồng gọi là giá kỳ hạn. Tại
thời điểm ký kết hợp đồng kỳ hạn, không hề có sự trao đổi tài sản cơ sở hay thanh toán
tiền. Hoạt động thanh toán xảy ra trong tương lai tại thời điểm xác định trong hợp đồng.
Vào lúc đó, hai bên thoả thuận hợp đồng buộc phải thực hiện nghĩa vụ mua bán theo mức
giá đã xác định, bất chấp giá thị trường lúc đó là bao nhiêu đi nữa.
- Đặc điểm:
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 13
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
+) Được ký kết giữa hai tổ chức, hai NĐT hoặc giữa một tổchức với một NĐT.
+) Là công cụ hỗ trợ cho người mua và người bán phòng chống lại các nguyên nhân
gây nên sự không chắc chắn về giá cả trong tương lai.
+) Ràng buộc trách nhiệm của hai chủ thể là bên mua và bên báncủa hợp đồng. Cả hai
bên đều có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp nếu một bên không muốn

thực hiện tiếp hợp đồng thì việc giao dịch để bán lại hợp đồng cho một bên thứ 3 gặp rất
nhiều khó khăn do các điều kiện trong hợp đồng là do người mua và người bán là tự thỏa
thuận với nhau.
+) Được sử dụng khá rộng rãi trong việc giao dịch các hàng hóa thông thường, giao
dịch vàng, ngoại tệ hay chứng khoán.
Ví dụ, Vào ngày 17/02/1991, A ký hợp đồng kỳ hạn mua của B 1 tấn gạo với kỳ hạn 3
tháng (tức là vào ngày 17/5/1991) với giá 7.000đ/kg. B được gọi là người bán trong hợp
đồng kỳ hạn, A là người mua trong hợp đồng kỳ hạn. Sau 3 tháng B phải bán cho A một
tấn gạo với giá 7.000đ/kg và A phải mua 1 tấn gạo của B với giá đó, cho dù giá gạo trên
thị trường sau ba tháng là bao nhiêu đi nữa.
c) Hợp đồng quyền chọn
- Khái niệm:
Hợp đồng quyền chọn là một hợp đồng giữa người mua và người bán, nó cho phép
người mua có quyền-không phải là nghĩa vụ- mua hoặc bán một khối lượng nhất định
hàng hóa hay tài sản tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Đổi lại,
người bán quyền chọn sẽ thu một mức phí từ người mua. Tại thời điểm xác định trong
tương lai, người mua quyền có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền mua (hay bán)
tài sản cơ sở. Nếu người mua thực hiện quyền mua (hay bán), thì người bán quyền buộc
phải bán (hay mua) tài sản cơ sở. Thời điểm xác định trong tương lai gọi là ngày đáo hạn;
thời gian từ khi ký hợp đồng quyền chọn đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của quyền
chọn. Mức giá xác định áp dụng trong ngày đáo hạn gọi là giá thực hiện (exercise price
hay strike price). Giá hàng hóa cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu,
chỉ số trái phiếu, hàng hóa, lãi suất hay hợp đồng tương lai…
- Đặc điểm: một hợp đồng quyền chọn gồm những đặc điểm cơ bản sau:
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 14
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
+) Loại quyền (chọn mua hoặc bán - call hoặc put option) quyền chọn mua là kiểu hợp
đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc, được mua
một số lượng hàng hóa ở một mức giá và trong thời hạn được xác định trước. Còn quyền
chọn bán là kiểu hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền, nhưng không

bắt buộc, được bán một số lượng hàng hóa ở một mức giá và trong thời hạn được xác
định trước.
+) Chủng loại và khối lượng hàng hóa cơ sở (underlying asset) trong hợp đồng quyền
chọn có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, hàng hóa, lãi suất
hay hợp đồng tương lai…
+) Giá thực hiện của hàng hóa cơ sở (strike price) là mức giá áp dụng cho hàng hóa khi
đến ngày đáo hạn.
+) Ngày hết hạn (expiration date) là ngày mà hợp đồng quyền chọn đáo hạn. Người
mua quyền dù có thực hiện hay không cũng phải trả phí cho người bán quyền. Còn người
bán quyền có trách nhiệm thực hiện theo thỏa thuận hợp đồng nếu nhu người mua quyền
quyết định thực hiện.
+) Điều kiện thanh toán (Settlement terms) người mua quyền và người bán quyền có thể
thỏa thuận thanh toán với nhau bằng tiền mặt hoặc theo hình thức khác
+) Phí mua quyền (Premium) là phí mà người mua quyền phải trả cho người bán quyền
để được nắm giữ hay sở hữu quyền chon. Cho dù thực hiện hợp đồng hay không người
mua quyền vẫn phải trả phí quyền chọn.
- Ví dụ về quyền chọn mua và quyền chọn bán:
Quyền chọn mua: giá cổ phiếu của IBM trong thời điểm hiện tại là 80 USD/cổ phiếu,
sau khi phân tích, NĐT dự báo rằng giá sẽ tăng lên trong thời gian tới. Nếu đầu tư 1000
cổ phiếu thì số tiền bỏ ra là 80000 USD. Nhưng nếu như dự đoán của NĐT là không
chính xác, giá cổ phiếu có thể giảm xuống 40 USD/cổ phiếu thì NĐT sẽ thua lỗ. Tuy
nhiên nếu NĐT đầu tư vào hợp đồng quyền chọn mua với giá thỏa thuận là 80 USD/cổ
phiếu (theo dự đoán) với mức phí là 2 USD/cổ phiếu và thời hạn là 1 tháng. Khi đến hạn,
nếu giá cổ phiếu tăng lên 90 USD/cổ phiếu thì NĐT chỉ phải mua với mức giá là 80
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 15
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
USD/cổ phiếu theo thỏa thuận. Lợi nhuận thu được là 8000 USD. Còn nếu như giá cổ
phiếu giảm xuống thì NĐT có thể không thực hiện hợp đồng, chi phí cho hợp đồng quyền
chọn là 2
x

1000 = 2000USD là một mức phí không lớn.
Quyền chọn bán: khi NĐT lo lắng về giá chứng khoán sẽ sụt giảm, họ có thể sử dụng
quyền chọn bán để tự bảo vệ. Với 1000 cổ phiếu IBM trị giá 80 USD/cổ phiếu trong tay,
NĐT có thể mua quyền chọ với mức phí hợp lý để đảm bảo rằng trong 1 tháng tới bất kỳ
lúc nào cũng có thể bán cổ phiếu với giá trị 80 USD/cổ phiếu bất kỳ lúc nào. Vì vậy NĐT
không phải lo lắng khi cổ phiếu mất giá vì người bán quyền chọn sẽ bảo đảm mức giá là
80 USD/cổ phiếu. Còn cổ phiếu lên giá thì NĐT không cần thực hiện theo hợp đồng và
mức phí 2000 USD là một mức phí không phải là lớn.
d) Hợp đồng hoán đổi
 Khái niệm:
Hợp đồng hoán đổi là một cam kết song phương, theo đó các NĐT sẽ trao cho nhau vào
một ngày nhất định một số lượng nhất định của một quốc gia A để lấy một số lượng nhất
định đồng tiền của quốc gia B đã được quy đổi theo tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời
hạn xác định, với điều hứa hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn.
Những dòng tiền này được tính dựa trên giá trị nguyên tắc danh nghĩa, mà giá trị danh
nghĩa này thường không được trao đổi giữa các bên. Kết quả là hợp đồng hoán đổi có thể
được sử dụng để tạo ra những giá trị của hàng hóa cơ sở không được đảm bảo tài trợ, vì
các bên có thể kiếm lời hay chịu lỗ từ sự biến động giá cả mà không ký gởi khoản giá trị
danh nghĩa bằng tiền mặt hay bằng tài sản đảm bảo.
Hợp đồng hoán đổi được sử dụng để phòng ngừa rủi ro lãi suất, hay đầu cơ vào sự thay
đổi của giá cả hàng hóa cơ sở.
 Đặc điểm: trong một hợp đồng hoán đổi có những đặc điểm cần chú ý sau:
+) Thời hạn giao dịch – Thời hạn giao dịch hoán đổi có thể từ 3 ngày đến 6 tháng. Nếu
ngày đáo hạn rơi vào ngày Chủ nhật hoặc ngày lễ thì hai bên sẽ thoả thuận chọn một
ngày đáo hạn thích hợp và thời hạn hợp đồng sẽ tính trên số ngày thực tế.
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 16
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
+) Điều kiện thực hiện – Giao dịch hoán đổi áp dụng đối với khách hàng có đủ các điều
kiện sau: (1) có giấy phép kinh doanh, (2) xuất trình các chứng từ chứng minh nhu cầu sử
dụng ngoại tệ, (3) mở tài khoản ngoại tệ và tài khoản VND ở ngân hàng, (4) trả phí giao

dịch theo qui định, (5) duy trì một tỷ lệ đặt cọc tối đa không quá 5% trị giá hợp đồng để
bảo đảm việc thực hiện hợp đồng, và (6) ký hợp đồng giao dịch hoán đổi với ngân hàng.
+) Ngày thanh toán – Trong giao dịch hoán đổi, ngày thanh toán bao gồm hai loại ngày
khác nhau: ngày hiệu lực và ngày đáo hạn. Ngày hiệu lực là ngày thực hiện thanh toán
giao dịch giao ngay trong khi ngày đáo hạn là ngày thực hiện thanh toán giao dịch có kỳ
hạn.
+) Xách định tỷ giá hoán đổi – Một hợp đồng hoán đổi liên quan đến hai loại tỷ giá: tỷ
giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn. Tỷ giá giao ngay là tỷ giá do ngân hàng niêm yết tại
thời điểm giao dịch do hai bên thoả thuận. Tỷ giá có kỳ hạn được tính trên cơ sở tỷ giá
giao ngay, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ, và số ngày thực tế của hợp đồng.
+) Quy trình thực hiện giao dịch hoán đổi – Tại ngân hàng thương mại quy trình thực
hiện giao dịch hoán đổi tiến hành qua các bước sau đây:
• Khách hàng có nhu cầu thực hiện giao dịch hoán đổi đến liên hệ với phòng kinh doanh
tiền tệ của ngân hàng
• Căn cứ vào cung và cầu ngoại tệ, phòng kinh doanh tiền tệ sẽ chào giá và kỳ hạn cụ thể
cho khách hàng
• Nếu khách hàng đồng ý giá cả thì hai bên sẽ ký hợp đồng hoán đổi.
Ví dụ, Đầu thập niên 90, Citi Bank, ngân hàng lớn nhất tại Mỹ đã mở rộng một số hoạt
động đầu tư sang Nhật bản nên cần một lượng tiền yên Nhật rất lớn trong một thời gian
ngắn, trong khi vốn của Citibank lại không có đủ đồng yên. Các chuyên gia nghiệp vụ
ngân hàng của Citibank lập tức nghĩ ngay đến Chifon Bank của Nhật bản. Citibank đã
thoả thuận một hợp đồng hoán đổi với Chifon Bank, theo đó Citi Bank chuyển cho
Chifon Bank một lượng USD nhất định, đổi lại Chifon Bank sẽ cung cấp đồng yên cho
hoạt động đầu tư của Citibank tại Nhật bản. Nhờ vậy mà chỉ trong vòng 24 tiếng,
Citibank đã có đủ vốn cần thiết cho dự án đầu tư tại đây. Như vậy, hợp đồng hoán đổi là
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 17
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
một cam kết song phương, theo đó các NĐT sẽ trao cho nhau vào một ngày nhất định
một số lượng nhất định đồng tiền của một quốc gia A để lấy một số lượng nhất định đồng
tiền của quốc gia B đã được quy đổi theo tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời hạn xác

định, với điều hứa hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHỨNG KHOÁN PS TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
2.1. Đánh giá khái quát TTCK Việt Nam
2.1.1. Những kết quả đạt được
Năm 2000, với 02 công ty niêm yết khi đưa TTGDCK TP.HCM vào hoạt động, TTCK
đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan hiếm, chỉ số VN
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 18
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày 25/6/2001. Sau đó, thị
trường đã liên tục sụt giảm trong suốt 3 năm sau đó, trước khi tăng mạnh trở lại vào cuối
năm 2003. Năm 2005, sau khi TTGDCK Hà Nội đi vào hoạt động, tổng số các công ty
niêm yết trên cả hai thị trường là 44 công ty với tổng giá trị niêm yết là 4,94 nghìn tỷ
đồng. Tuy nhiên, nhìn chung, giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn hoạt động khá trầm của
TTCK Việt Nam.
Kể từ năm 2006 đến nay, TTCK Việt Nam bắt đầu khởi sắc và đã có bước tăng trưởng
mạnh mẽ cả về số lượng công ty niêm yết lẫn doanh số giao dịch. Tính đến cuối năm
2009, đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai SGDCK và 4 chứng chỉ quỹ
đại chúng niêm yết, với tổng giá trị niêm yết đạt 127,489 nghìn tỷ đồng, tăng 66,5 lần so
với cuối năm 2005. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính tại thời điểm ngày 31/12/2009
ước đạt 620,551 ngàn tỷ đồng tương đương với gần 38% GDP cả năm 2009.
TTCK đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết mà cả về tính thanh khoản
của thị trường. Nếu như năm 2005, bình quân có 667.600 cổ phiếu được giao dịch một
phiên, thì năm 2006, con số này tăng lên 2,6 triệu đơn vị (tăng 3,93 lần), tiếp tục tăng lên
9,79 triệu và 18,07 triệu trong hai năm sau đó. Tốc độ luân chuyển thị trường trong giai
đoạn này liên tục tăng từ 0.43 lần (năm 2006) lên 0.64 lần (năm 2007), 0.68 lần (năm
2008) và ước đạt 1.13 lần (năm 2009).
Giai đoạn 2006-2009 cũng chứng kiến những kỷ lục của TTCKVN. Tháng 3/2007, các
chỉ số chứng khoán đạt được mức cao nhất. VNIndex đạt mức 1,170.67 điểm và HASTC-
Index đạt 459.36 điểm. Trong khi đó, xét về khối lượng giao dịch, tháng 5/2009 là tháng

có khối lượng giao dịch lớn nhất, bình quân có 77 triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi
phiên, với giá trị đạt 2.270,57 tỷ đồng.
Đồng thời, với sự mở rộng của các thị trường chính thức, có sự quản lý với số lượng
ngày càng lớn các tổ chức đăng ký niêm yết, đăng ký giao dịch là sự thu hẹp của thị
trường tự do (thị trường OTC). Mặc dù còn nhiều loại cổ phiếu giao dịch trên thị trường
OTC, chủ yếu từ các DNNN cổ phần hóa, tuy nhiên, tính thanh khoản của thị trường này
trong năm 2009 đã sụt giảm rõ rệt.
Ngoài ra, nhằm từng bước hoàn chỉnh cấu trúc thị trường, mở rộng thị trường có tổ
chức, có sự quản lý của Nhà nước, từng bước thu hẹp thị trường tự do, hệ thống giao dịch
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 19
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
UpCom trên SGDCK Hà Nội – hệ thống giao dịch cho các chứng khoán của công ty đại
chúng chưa niêm yết – cũng đã được đưa vào vận hành vào ngày 24/6/2009. Cuối 2009,
đã có 34 cổ phiếu được giao dịch trên hệ thống Upcom với tổng giá trị giao dịch đạt gần
540 tỷ đồng. Giá trị thị trường ngày 31/12/2009 đạt 4.075 tỷ đồng.
Trong giai đoạn 2000-2002, TPCP là hàng hóa niêm yết chủ đạo trên SGDCK
Tp.HCM, tuy nhiên, số lượng không nhiều (40 mã). Trong giai đoạn này, TPCP tương
đối kém thanh khoản, giá trị giao dịch bình quân cũng rất thấp, với khoảng 2% giá trị
TPCP niêm yết. Giai đoạn 2004-2007, giá trị trái phiếu niêm yết so với GDP tăng đáng
kể, lên tới 11,3% GDP, đồng thời, nhiều quy định mới được áp dụng nhằm thúc đẩy giao
dịch trái phiếu như: không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu của các tổ chức, cá
nhân nước ngoài; bỏ biên độ dao động giá; cơ chế giao dịch thỏa thuận; rút ngắn thời
gian thanh toán T+1. Vì vậy, tính thanh khoản của thị trường cũng tăng dần. Trong thời
gian gần đây, do biến động của lãi suất, việc phát hành TPCP không được như mong
muốn, dẫn đến tỷ lệ giá trị niêm yết so với GDP giảm xuống và chỉ còn khoảng 10,81%
vào cuối năm 2009.
Trước năm 2006, TPCP được giao dịch đồng thời tại HoSE và HNX. Tuy nhiên, từ
ngày 24/9/2009, hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt với gần 30 thành viên, trong đó, có
nhiều ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán lớn đã chính thức hoạt động.
Hệ thống này tách biệt khỏi hệ thống giao dịch cổ phiếu và với nhiều đặc điểm mới, được

phát triển phù hợp với các đặc thù của giao dịch trái phiếu đã khắc phục một số hạn chế
của hệ thống giao dịch trái phiếu trước đây.
2.1.2. Những hạn chế
Với những kết quả đạt được ở trên chúng ta thấy rằng TTCK là một phần không thể
thiếu cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được
ở trên thi TTCK Việt Nam cũng cho thấy những hạn chế cần phải khắc phục ngay.
Về khung pháp lý, Luật Chứng khoán vẫn còn hẹp về phạm vi điều chỉnh, mới chỉ bao
hàm những nội dung cơ bảnvà chưa bao quát mọi hoạt động trên TTCK theo thông lệ
quốc tế; một số quy định của văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán còn chồng chéo,
chưa thống nhất với các văn bản pháp luật khác; việc ban hành các quy định pháp lý nhìn
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 20
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
chung đều có độ trễ so với mục tiêu đề ra, đồng thời, nhiều quy định tại Luật Chứng
khoán chưa được hướng dẫn thực hiện,…
Về quy mô và nguồn cung hàng hóa của thị trường hoạt động phát hành của các công ty
đại chúng vẫn còn mang tính tự phát, không hoàn toàn dựa trên nhu cầu sử dụng vốn của
doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Không ít tổ chức phát hành huy động vốn
trên TTCK để đầu tư trở lại vào chứng khoán mà không phải để mở rộng sản xuất kinh
doanh, góp phần tạo nên bong bóng thị trường và rủi ro mất vốn khi thị trường sụt giảm.
Hoạt động chào bán riêng lẻ không có sự điều chỉnh đầy đủ của pháp luật và quản lý của
các cơ quan có thẩm quyền dẫn đến các hành vi lạm dụng, ảnh hưởng đến sự lành mạnh
của TTCK. Bên cạnh đó, việc tuân thủ chào bán ra công chúng phải đăng ký với
UBCKNN còn hạn chế (đặc biệt vào thời kỳ ngay sau khi Luật chứng khoán mới ban
hành) đã tạo nên những rủi ro tiềm ẩn cho TTCK. Hoạt động phát hành TPCP còn nhiều
bất cập, công tác kế hoạch hoá phát hành trái phiếu chưa tốt, cơ chế phát hành trái phiếu
còn nhiều bất cập, chưa có các tổ chức tạo lập thị trường TPCP đúng nghĩa để đảm bảo
thành công cho các đợt phát hành cũng như tạo tính thanh khoản cho thị trường thứ cấp.
Thiếu đường cong lợi suất chuẩn và tổ chức định mức tín nhiệm.
Hàng hóa niêm yết trên TTCK chưa đa dạng, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng nhu
cầu đầu tư và phòng ngừa rủi ro của NĐT (chưa có các sản phẩm PS, các sản phẩm đầu

tư tập thể). Các dịch vụ tiện ích cho NĐT trên thị trường còn nghèo nàn (chưa có nghiệp
vụ bán khống, vay ký quỹ, bán trước ngày hoàn thất giao dịch), tính minh bạch của thị
trường chưa đáp ứng nhu cầu của công chúng đầu tư.
Số lượng các tổ chức kinh doanh và cung cấp dịch vụ cho TTCK tăng quá nhanh, với
năng lực về vốn và chuyên môn còn hạn chế, tiềm ẩn rủi ro hệ thống và chưa tương xứng
với hiệu quả hoạt động chung của thị trường.
2.2. Chủ trương của nhà nước về TTCK PS
Trong 10 năm hoạt động của TTCK tại Việt Nam, Vn-Index từng có lúc lên tới 1.170 điểm
nhưng cũng đã đã có thời điểm chỉ còn 235 điểm. Biên độ dao động rất lớn này cho thấy NĐT
đang rất cần các công cụ để bảo hiểm rủi ro. Vì thế tại hội thảo về xây dựng thị trường PS ở
Việt Nam, UBCK dự kiến sẽ xây dựng một thị trường PS tập trung, dựa trên các chứng khoán
cơ sở đang được niêm yết tại 2 Sở giao dịch Hà Nội và TP HCM hiện nay. Phương án xây
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 21
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
dựng thị trường OTC cũng từng được tính đến nhưng không được ủng hộ do chứng khoán
trên thị trường phi tập trung có độ rủi ro cao trong khi thanh khoản lại thấp, không thích hợp
để tạo ra các sản phẩm PS. Và hợp đồng tương lai của chỉ số chứng khoán (cụ thể là Vn-
Index) sẽ là chứng khoán PS đầu tiên được dự kiến giao dịch trên thị trường vì đây là loại sản
phẩm tương đối phổ biến trên thế giới và tương đối “dễ hiểu” đối với NĐT. Sau khi thử
nghiệm thành công hợp đồng tương lai của Vn-Index, UBCK dự kiến sẽ mở rộng sản phẩm
sang các loại hình chứng khoán khác (trái phiếu, cổ phiếu, chứng chỉ quỹ…) và xa hơn là các
“hàng hóa” khác như vàng, lãi suất, hối đoái, dầu mỏ, cà phê… Các giao dịch trên thị trường
PS sẽ được thanh toán bằng tiền, thay vì các loại hàng hóa cơ sở.
Riêng với chứng khoán niêm yết, UBCK đề xuất chỉ sử dụng các loại chứng khoán có
thanh khoản cao, chất lượng công bố thông tin tốt và được quản lý tài chính chặt chẽ… để tạo
ta sản phẩm PS. Cơ quan quản lý sẽ tiến hành một cuộc kiểm tra toàn diện về thanh khoản của
các chứng khoán niêm yết trước khi cho phép tạo ra sản phẩm PS. Về mô hình thị trường,
UBCK dự kiến không triển khai hình thức 2 Sở giao dịch độc lập, 2 bảng điện tử như áp dụng
với các loại chứng khoán cơ sở hiện nay bởi về lâu dài, mô hình này sẽ gây chia tách thị
trường và tốn kém khi xây dựng. Hai phương án còn lại được tính đến là xây dựng một tập

đoàn Giao dịch chứng khoán - nơi các Sở giao dịch là công ty thành viên hoạt động song song
hoặc tiến hành hợp nhất 2 Sở giao dịch hiện nay. Tuy nhiên, cả 2 mô hình này đều đang được
bỏ ngỏ vì còn phụ thuộc khá nhiều vào định hướng phát triển TTCK giai đoạn 2015 - 2020,
trong đó có việc tách - nhập các Sở giao dịch hiện nay. Hiện tại UBCK đang hoàn thiện
khung pháp lý cũng như cho thử nghiệm các công cụ hỗ trợ thị trường như giao dịch ký quỹ,
bán khống, vay và cho vay chứng khoán bắt buộc… Cơ quan này dự kiến, nếu các bước
chuẩn bị diễn ra suôn sẻ, thị trường PS tại Việt Nam sẽ chính thức đi vào hoạt động kể từ năm
2014.
2.3. Sự cần thiết của việc triển khai công cụ chứng khoán PS trên TTCK Việt
Nam
2.3.1. Nhu cầu phòng ngừa rủi ro
Những rủi ro chủ yếu mà các chủ thể tham gia trên TTCKVN phải đối mặt gồm có:
a) Rủi ro từ chính sách quản lý của Nhà nước
Chính sách quản lý của Nhà nước có tác động trực tiếp đến môi trường kinh tế vĩ mô, đến
hoạt động của TTCK. Một khi chính sách quản lý đưa ra không phù hợp thời điểm hay
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 22
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
liều lượng, lập tức sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường và cả nền kinh tế, dẫn
đến các biến động trên thị trường, gây thiệt hại cho các NĐT.
b) Rủi ro từ hệ thống thông tin
Thông tin có vai trò quyết định đến giá chứng khoán trên thị trường. Thị trường
có thông tin minh bạch và đầy đủ sẽ hình thành nên giá chứng khoán hợp lý và tạo
được niềm tin của công chúng vào TTCK. Trong kinh doanh chứng khoán, NĐT nào
nắm được thông tin tốt hơn thì sẽ dễ dàng chiến thắng và giảm thiểu được nhiều rủi ro.
Nếu không nắm được các thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời liên quan đến môi
trường đầu tư, chất lượng chứng khoán và tình hình thị trường, NĐT sẽ dễ đưa ra các
quyết định đầu tư sai lầm, từ đó sẽ phải gánh chịu tổn thất.
c) Rủi ro từ hàng hóa của thị trường
Một thị trường có qui mô hàng hóa nhỏ, chủng loại hàng hóa hạn chế sẽ dễ xảy ra trình
trạng lũng đoạn thị trường bởi các NĐT có tiềm lực tài chính. Đồng thời, cơ hội lựa chọn

để đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm hạn chế rủi ro cũng bị bó hẹp.
d) Rủi ro từ trình độ và tâm lý của NĐT.
Khi NĐT trên thị trường có trình độ hiểu biết về đầu tư không tốt cũng như tâm lý đầu tư
không vững, các quyết định đầu tư của họ sẽ chủ yếu dựa trên các mục tiêu kinh doanh
ngắn hạn và mang tính đầu cơ, những phán đoán và phản ứng của họ sẽ thường nặng về
cảm tính và tâm lý đám đông. Điều này sẽ rất dễ dẫn đến những biến động bất thường
trên thị trường khi đứng trước các tình trạng làm giá hoặc thông tin bất cân xứng.
e) Rủi ro từ hệ thống tổ chức quản lý, giám sát thị trường.
Vì hệ thống tổ chức quản lý và giám sát thị trường có chức năng và vai trò quan trọng
trong mục tiêu lành mạnh hóa TTCK, bảo vệ lợi ích cũng như giảm thiểu rủi ro cho các
NĐT, hướng tới một thị trường ổn định – bền vững và hiệu quả. Nên nếu hệ thống này
không hoạt động hiệu quả với chức năng của mình thì nhất định sẽ tạo ra những rủi ro và
tổn thất cho thị trường cũng như cho các NĐT trên TTCK.
Trong thời gian qua, những rủi ro kể trên đã làm TTCK không ngừng biến động, mang
lại nhiều tổn thất cho NĐT cũng như cho toàn thị trường. Vì thế, phòng ngừa rủi ro là
nhu cầu hết sức bức thiết của các NĐT trên TTCKVN, đặc biệt là khi các NĐT cá nhân ít
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 23
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
hiểu biết, ít kinh nghiệm và vốn nhỏ hiện đang chiếm hơn 80% số NĐT tham gia trên thị
trường. Trong khi đó, cả lý thuyết cũng như thực tiễn đã chứng tỏ được rằng sử dụng các
công cụ chứng khoán PS, đặc biệt là hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn là một
trong những phương cách mang tính thị trường rất hữu hiệu giúp phòng ngừa rủi ro, giảm
thiểu tổn thất cho NĐT. Từ đó cho thấy, việc triển khai các công cụ chứng khoán PS trên
TTCKVN sẽ là việc làm hết sức cần thiết và vô cùng có ý nghĩa đối với các NĐT vẫn còn
đang e ngại rủi ro, lo sợ tổn thất.
2.3.2. Nhu cầu đa dạng hóa cơ hội đầu tư
Hiện nay TTCK Việt Nam vẫn chỉ giao dịch trên 3 loại hàng hóa là cổ phiếu, trái phiếu
và chứng chỉ quỹ đầu tư. Trong đó, giao dịch cổ phiếu luôn chiếm trên 80% tổng giao
dịch thị trường. Trái phiếu chủ yếu là TPCP. Hàng hóa chưa đa dạng đã hạn chế sự lựa
chọn đối với NĐT. Vì thế, nếu có thêm công cụ để lựa chọn đầu tư chắc chắn sẽ thỏa

mãn tốt hơn nhu cầu đầu tư của các NĐT trên thị trường.
Bên cạnh đó, với đặc điểm nổi bật của chứng khoán PS là chỉ cần một lượng vốn nhỏ ở
hiện tại, NĐT hoàn toàn có thể tham gia vào các giao dịch chứng khoán PS để mua bán
lượng chứng khoán cơ sở có giá trị lớn sau một thời gian thỏa thuận, từ đó giúp mở ra
nhiều cơ hội tìm kiếm lợi nhuận tốt hơn cho các NĐT. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với
thực trạng NĐT trên TTCKVN.
2.3.3. Nhu cầu thúc đẩy TTCK phát triển hiệu quả của Chính phủ
Đứng ở góc độ quản lý Nhà nước, Chính phủ có nhiệm vụ thúc đẩy TTCKVN tiếp tục
phát triển hiệu quả hơn nhằm phát huy các giá trị tích cực của TTCK đối với công cuộc
xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
Với các ưu điểm của mình, các công cụ chứng khoán PS hoàn toàn có khả năng trở
thành động lực thúc đẩy sự phát triển của TTCK. Bởi kỳ vọng giảm thiểu rủi ro và tìm
kiếm lợi nhuận qua các hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn chắc chắn sẽ thu hút
thêm nhiều đối tượng tham gia vào thị trường. Bên cạnh đó, triển khai hợp đồng tương lai
và hợp đồng quyền chọn sẽ tạo áp lực hoàn thiện không ngừng các yếu tố của thị trường
như số lượng và chất lượng hàng hóa, trình độ quản lý, chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở
vật chất…
Nhận thức được các tác động tích cực khi triển khai các công cụ chứng khoán PS trên
TTCK, Chính phủ cũng đã đưa ra định hướng phải xây dựng và phát triển các công cụ
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 24
Đề án lý thuyết tài - chính tiền tệ Trường Đại học KTQD
này trên TTCKVN. Điều này trước tiên được khẳng định rất rõ ngay tại Luật chứng
khoán Việt Nam năm 2007. Tiếp sau Luật chứng khoán, ngày 02/08/2007, Thủ tướng
chính phủ đã ký quyết định số 128/2007QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển thị
trường vốn Việt nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Trong quyết định,
nhiệm vụ phải xây dựng và phát triển các công cụ chứng khoán PS được nhắc rất chi tiết
và rõ ràng.
2.4. Những khó khăn trong việc phát triển TTCK PS
2.4.1. Thiếu khung pháp lý:
Qua 10 năm phát triển, TTCK đã manh nha hình thành sản phẩm PS. Việc triển khai các

sản phẩm PS nằm trong định hướng Chiến lược phát triển TTCK giai đoạn 2011 - 2020.
Đây cũng là sản phẩm tất yếu trong tiến trình phát triển thị trường tài chính. Tuy nhiên,
điểm mắc nhất của lộ trình này vẫn là khung pháp luật cho thị trường này hầu như chưa
có gì. Đến nay, khung pháp lý điều tiết cao nhất trên TTCK Việt Nam là Luật chứng
khoán 2010 sửa đổi bổ sung Luật chứng khoán 2006. Việc áp dụng luật chứng khoán trên
TTCK đã đem lại những kết quả tích cực, thúc đẩy TTCK phát triển. Nhưng bên cạnh đó
luật chứng khoán cũng đang có những hạn chế cần sớm khắc phục. Về chứng khoán PS
Luật chứng khoán quy định cũng chưa cụ thể. Việc đưa loại hình này vào TTCK là một
điều cần thiết cho sự phát triển của TTCK. Tuy nhiên đây là một loại hình khá mới đối
với NĐT. Nếu như không có những quy định cụ thể thì NĐT sẽ khó nắm bắt quy chế
điều hành. Xây dựng hoàn thiện cơ sở pháp lý, trong đó Luật chứng khoán PS là điều
kiện cần để chứng khoán PS được hình thành. Ngoài ra, việc hình thành các hợp đồng
được tiêu chuẩn hóa, quy định về vốn và ký quỹ, quy định về sự rõ ràng trong đăng ký,
báo cáo, minh bạch thông tin và đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các tổ chức tài chính trong
khu vực và thế giới là các điều kiện đủ để chứng khoán PS áp dụng cho TTCK Việt
Nam.
2.4.2. Khó khăn trong việc lựa chọn thị trường cơ sở
Tại hội thảo “xây dựng TTCK PS ở Việt Nam” UBCK đã đưa ra những khó khăn cho
việc phát triển thị trường này, trong đó có việc lựa chọn thị trường cơ sở giao dịch. UBCK
đứng trước hai hướng đi đó là giao dịch trên thị trường tập trung hay thị trường phi tập
trung. Tuy nhiên thị trường phi tập trung đang cho thấy những hạn chế như rủi ro cao hơn,
tính thanh khoản không tốt. Ngoài hai hướng trên, UBCK còn đưa ra một hướng nữa là
thành lập tập đoàn Giao dịch chứng khoán. Tất cả những hướng trên vẫn đang được UBCK
Thái Văn Duyên Tuấn - Thị trường chứng khoán K51 Page 25

×