Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

dạy thơ trữ tình ở thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.43 KB, 30 trang )

A- Đặt vấn đề.
I-Lời mở đầu.
Thơ trữ tình là một trong ba thể loại của văn bản. Thể loại thơ trữ tình
chiếm 1 tỉ lệ không nhỏ trong bộ môn văn học trong nhà trường. Ngay từ cấp
tiểu học, các em học sinh đã phải đọc thơ, thuộc thơ và bắt đầu tập phân tích thơ.
Điều này lên cấp THCS càng được nâng cao hơn một bước. Tuy nhiên việc phân
tích thơ trữ tình không phải lã dễ : Đặc biệt trong việc tìm hiểu các yếu tố hình
tượng nghệ thuật, trong các tác phẩm thơ trữ tình nhiều khi chưa được chú ý
đúng mức. Quả thật nếu chúng ta phân tích một tác phẩm trữ tình mà yếu tố
nghệ thuật chưa được chú ý đúng mức thì chúng ta không thể hiểu hết được về
nội dung tư tưởng cũng như cái hay trong hình thức nghệ thuật và nghệ thuật là
phương tiện để thể hiện nội dung. Muốn hiểu đúng, đủ nội dung tư tưởng thì
chúng ta cần tìm hiểu xem người viết đã dùng yếu tố nghệ thuật nào để thể hiện.
Như vậy yếu tố nghệ thuật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm trữ
tình.
II- Thực trạng của vấn đề.
1.Thực trạng.
Trong tác phẩm thơ trữ tình yếu tố nghệ thuật đóng vai trò quan trọng. Vì
nó góp phần không nhỏ vào việc thể hiện tư tưởng, chủ đề, nội dung của tác
phẩm. Nhưng thực tế qua theo dõi, dự giờ, kiểm tra học sinh thì chúng tôi thấy
toát lên một số vấn đề sau :
-Học sinh khi đọc các tác phẩm trữ tình ( nhất là về thơ ) chưa đúng nhịp điệu
dẫn đến hiểu vấn đề ( nội dung ) sai lệch.
-Khi tìm các vấn đề mà tác giả đã sử dụng thì học sinh còn lúng túng, chưa biết
cách tìm hoặc chưa phân biệt được các vấn đề.
-Khi chỉ ra các biện pháp tu từ phần đông các em chỉ liệt kê chứ chưa nêu được
vai trò, tác dụng, ý nghĩa của nó.
Chính vì vậy nhiều học sinh cho rằng vấn đề này khó quá làm cho các em
giảm đi phần nhiệt huyết học tập dẫn đến kết quả giáo dục chưa cao.
2)Kết quả, hiệu quả của thực trạng.
Qua theo dõi, kiểm tra đánh giá học sinh khi yêu cầu các em phân tích các


biện pháp nghệ thuật hoặc giá trị nghệ thuật trong một tác phẩm trữ tình nào đó
thì các em phân tích một cách hời hợt, qua loa, đại khái, chưa làm toát lên được
vấn đề. Vì vậy mà kết quả đạt được còn rất thấp .
Cụ thể như sau :
-Số bài đạt điểm trung bình chỉ khoảng 36- 40 %.
-Số bài đạt điểm khá : 5 %
-Số bài đạt điểm giỏi : Không có.
Từ thực trạng trên tôi thấy nhiệm vụ đặt ra cho việc giảng dạy các tác
phẩm trữ tình là phải chú ý đến một số yếu tố hình thức nghệ thuật.
B. Giải quyết vấn đề.
I- Giải pháp thực hiện.
Trong tác phẩm thơ trữ tình tác giả sử dụng nhiều yếu tố nghệ thuật
nhưng không phải là tất cả các yếu tố nghệ thuật đều có mặt trong một tác phẩm.
Vì vậy chúng tôi xin nêu ra các yếu tố hình thức nghệ thuật chủ yếu trong tác
phẩm trữ tình như sau :
1.Nhịp thơ.
Nhịp điệu có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thơ trữ tình. Nó giúp
nhà thơ nâng cao khả năng biểu cảm, cảm xúc khi phân tích thơ trữ tình không
thể không phân tích nhịp điệu.
2.Vần thơ.
3. Các biện pháp tu từ .
4. Thời gian và không gian trong tác phẩm trữ tình.
II- Biện pháp tổ chức để thực hiện.
Chúng tôi tiến hành theo các biện pháp sau :
1. Nhịp thơ.
Giáo viên chỉ cho học sinh thấy được vai trò, ý nghĩa tác dụng của nhịp
thơ ( như đã nói ở trên ).
Cụ thể thường thường nhịp điệu của thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại,
thanh thoát; nhịp thơ thất ngôn bát cú, chặt chẽ; nhịp thơ tự do, thơ hiện đại rất
phóng khoáng, phong phú.

Trong thơ trữ tình cùng với dấu câu, các em cần chú ý cách “ ngắt nhịp”.
Bởi sự ngắt nhịp là một trong những phương tiện hữu hiệu để thể hiện nội dung,
tạo ra “ ý tại ngôn ngoại ”, tính hàm nghĩa và gợi ra những điều mà từ không
nói hết. Tâm trạng nhà thơ chi phối trực tiếp cách tổ chức, vận hành nhịp điệu
của bài thơ. Với cảm xúc ào ạt, sôi nổi, đầy hứng khởi trước khí thế lao động sản
xuất của miền Bắc thời kì bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Huy Cận có những
câu thơ với nhịp điệu nhanh, mạnh, khoẻ khoắn, linh hoạt, sôi nổi. Điều này ta
có thể thấy rõ ở bài “Đoàn thuyền đánh cá” ở ngữ văn 9 tập 1, khi dạy bài này
giáo viên có thể chỉ ra cho học sinh thấy rõ điều này. Khi hiểu được các em rất
dễ dàng phân tích nội dung.
Để ngắt nhịp, ngưòi ta thường dừng dấu câu. Trong trường hợp này, khi
giảng giáo viên lưu ý cho học sinh cần phải thông nghĩa, hiểu ý mới ngắt nhịp
đúng. Ví dụ câu thơ của Tố Hữu “ Càng nhìn ta lại càng say ”, có em đọc “ càng
nhìn/ ta lại càng say ” ( nhịp 2/4 ) nhưng thực ra phải đọc là “ càng nhìn ta / lại
càng say ” ( nhịp 3/3 ). Vì ở đây ý thơ muốn thể hiện à : Ai đó ( thế giới ) càng
nhìn ta ( Việt Nam ) thì càng say lòng chứ không phải ta tự say ta.
Tóm lại khi tiếp xúc với tác phẩm văn học nhất là khi đọc bằng mắt, giáo
viên lưu ý cho học sinh đến hình thức dấu câu và xem cách ngắt nhịp của tác giả
có gì đặc biệt. Làm như thế, trước hết là để đọc cho đúng, cho diễn cảm và sau
đó hãy phân tích và chỉ ra ý nghĩa cũng như tác dụng của hình thức ấy trong việc
biểu hiện nội dung.
2.Vần thơ.
Giáo viên chỉ cho học sinh thấy được căn cứ vào đâu để xác định vần thơ.
Căn cứ vào cấu trúc âm thanh- sự hoà âm của vần người ta chia thành vần
chính và vần thông. Vần chính và vần âm giống nhau :
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Vần thông là vần có âm na ná như nhau :
Nhân tình nhắm mắt chưa xong
Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như

( Tố Hữu- kính gửi cụ Nguyễn Du )
Căn cứ vào vị trí các tiếng hiệp vần với nhau người ta chia thành vần lưng
và vần chân.
Vần lưng là lối reo vần đứng giữa câu:
Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa nắng dài bãi cát
( Tố Hữu - Mẹ Tơm )
Vần chân là lối hiệp vần ở cuối câu.
Sông Mã xã rồi Tây Tiến ơi.
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
( Quang Dũng – Tây Tiến )
Trong cách phân chia vần theo vị trí của các tiếng hiệp vần với nhau, lại
còn có thể chia ra thành các loại : vần liền, vần cách, vần hỗn hợp.
Vần liền là vần được gieo liên tiếp ở các dòng thơ.
Anh đội viên thức dậy
Thấy trời khuya lắm rồi
Mà sao Bác vẫn ngồi
Đêm nay Bác không ngủ
(Đêm nay Bác không ngủ- Minh Huệ )
Vần cách : các vần tách ra không liên nhau :
Ngày Huế đổ máu
Chú Hà Nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau hàng bè
( Lượm- Tố Hữu )
Vần hỗn hợp : Gieo vần không theo một trật tự nào.
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh

( Lượm- Tố Hữu )
Có khi hai loại vần này lại sóng đôi nhằm diễn đạt một tâm trạng phức tạp :
Tài cao phận thấp chí khí thấp
Giang hồ mê chơi quên quê hương
( Tản Đà )
Nói tóm lịa khi đọc, phân tích tác phẩm văn học ( nhất là thơ ) các em cần
hết sức chú trọng yếu tố này. Một khi thấy âm điệu, âm hưởng, nhạc điệu của
câu thơ không bình thường, có sự chuyển đổi thì hãy tập trung phân tích chỉ ra
giá trị ( vai trò và tác dụng ) của chúng trong việc thể hiện nội dung.
3.Các biện pháp tu từ.
Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngôn từ.
Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học không thể có cách nào
khác là nhờ vào hệ thống từ ngữ này. Có thể nói, ngôn từ là một đặc trưng quan
trọng và nổi bật của văn học. Vì thế khi phân tích các em cần lưu ý một số điểm
sau :
Thứ nhất : Phân tích tác phẩm văn học không thể thoát li và bỏ qua các
yếu tố từ ngữ, trước hết phải nắm vững nghĩa của từ, sau đó luôn suy nghĩ để trả
lời các câu hỏi. tại sao tác giả dùng từ này mà không dùng từ khác ? Tại sao từ
ngữ này lại xuất hiện nhiều như thế ? Trong câu ấy, đoạn ấy, những từ ngữ nào
cần chú ý phân tích. Ở đây cũng cần nhắc các em, trong một đoạn văn, một bài
văn, bài thơ không phải từ nào, câu nào cũng đáng để phân tích. Trong thực tế
không ít những em rơi vào tình trạng hoặc là phân tích tất cả, câu nào cũng phân
tích, từ nào cũng khen hay hoặc từ ngữ đáng phân tích tích thì lại bỏ qua, từ
không đáng thì say sưa tán tụng…
Thứ hai : Người ta nói nhiều đến vấn đề phân tích hình ảnh trong tác phẩm văn
học. Bởi vì cách nói của văn học, cách thể hiện của văn chương là cách nói, cách
viết bằng hình ảnh. Điều đó hoàn toán đúng. Nhưng hình ảnh trong tác phẩm
văn học là gì .Nếu không phải do hệ thống từ ngữ tạo nên. Vì thế phân tích hình
ảnh thực ra là phân tích từ ngữ. Câu thơ của Nguyễn Du tả Tú Bà :
Thoắt trông lờn lợt màu da

Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao
( Truyện Kiều )
Đã vẽ chính xác thần thái của một mụ chủ nhà chứa, bọn buôn thịt bán
người. Ta cũng thấy rõ thái độ của tác giả đối với loại người đó. Chữ “ lờn lợt ”
lột tả được rõ nét nhất thần thái của Tú Bà. Thật khó diễn tả bằng từ ngữ khác:
vừa bóng bẩy, vừa mai mái hay vàng bủng chăng ? Còn hai chữ ăn gì lại dường
như muốn liệt mụ chủ chứa này vào một giống loại gì đó, không phải giống
người. Bởi vì giống người thì ăn cơn, ăn gạo, ăn thịt, ăn cá….chứ ăn gì .
Hệ thống từ ngữ gợi hình ảnh, cảm giác trong Tiếng Việt rất phong phú,
đa dạng.
Ví dụ : -Gợi về tâm trạng : xao xuyến, buâng khuâng.
- Gợi về thị giác như : La đà, lơ lủng…
- Gợi về vị giác như : Mặn chát, chua lòm.
- Gợi về xúc giác như : lạnh ngắt, nóng bỏng.
Thứ ba : Để tạo ra cách nói, cách viết có hình ảnh, gợi hình tượng bằng từ
ngữ, cách viết có hình ảng, gợi hình tượng bằng từ ngữ, các nhà văn có thể vận
dụng nhiêu cách. Khi dùng từ láy :
Lưng giậu phất phơ màu khối nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
( Nguyễn Khuyến )
Ngay cả trong văn xuôi cũng vậy, hình ảnh Lão Hạc được Nam Cao khắc
hoạc bằng một đoạn văn ngắn với một số từ rất gợi hình tượng : “ Mặt lão đột
nhiên co rúm lại Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái
đầu lão nghẹo lại một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão
hu hu khóc .” ( Lão Hạc ).
Hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc cũng được các nhà văn sử dụng rất hiệu quả
trong việc miêu tả hiện thực :
Cỏ non xanh rơn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
( Nguyễn Du )

Thứ tư : Ngôn từ văn học là loại ngôn từ đã được chắt lọc từ ngôn ngữ đời
thường, được nâng cấp, sửa sang làm cho nó óng ả, giàu đẹp hơn. Các biện pháp
tu từ chính là những phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trang điểm
cho ngôn từ văn học. Có rất nhiều biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá,
điệp ngữ, so sánh…Theo Đinh Trọng Lạc có tới 99 phương diện và biện pháp
tu từ . Tất cả những cách ấy đều nhằm mục đích giúp người nói, người viết có
nhiều cách diễn đạt hay hơn, đẹp hơn, phong phú hơn và do vậy hiệu quả cao
hơn.
Nói tóm lại, phân tích các biện pháp tu từ tức là chỉ ra tính hiệu quả của
cách viết, cách nói ấy, vai trò và tác dụng của chúng trong việc m,iêu tả, biểu đạt
chứ không đơn thuần là chỉ gọi tên, lệt kê các biện pháp mà nhà văn đã dùng.
4.Không gian và thời gian trong tác phẩm trữ tình.
Không gian trong thơ trữ tình là nơi tác giả- cái tôi trữ tình hoặc nhân vật
trữ tình xuất hiện để thổ lộ tấm lòng của mình trước mọi người và đất trời.
Trong Tiếng Việt có rất nhiều từ ngữ để nhà văn thể hiện không gian :
Trước hết bằng hệ thống từ ngữ chỉ vị trí và tính chất như : Trên, dưới,
trước, sau, trong, ngoài, bên phải, bên trái, lên, xuống…rồi mênh mông, bát
ngát, rộng, hẹp, thăm thẳm, mịt mù…
Hệ thống từ ngữ chỉ nơi chốn như bến đò, cây đa, mái đình, giếng nước…
Nhiều địa danh riêng đã trở thành những không gian tượng trưng trong văn học
như Tiêu Dương, Tầm Dương, Cô Tô, Xích Bích, tây Thiên, Địa ngục, Bồng
Lai…
Khi đọc các tác phẩm văn học, các em cần chú ý xem nhà văn mô tả
không gia ở đây có gì đặc biệt, không gian ấy có ý nghĩa gì và nói được nội
dung gì sâu sắc qua không gian đó. Ví dụ :
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát.
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông.
Là tác giả dân gian đã tạo được một không gian đẹp, rộng mở, khác hẳn
với không gian nhỏ hẹp trắc trở, cách ngăn trong câu ca dao này :
Ai đưa em tói chốn này

Bên kia mắc núi, bên này mắc sông.
Không gian thường gắn với điểm nhìn, điểm quan sát, mô tả của tác giả.
Câu thơ “ Trông lên mặt rất đen sì ” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
cho thấy người viết đứng phía dưới nhìn lên. Nhà thơ Tố Hữu cho rằng như thế,
Nguyễn Du đã đứng về phía quần chúng lao động để quan sát bọn thống trị.
Đi liền với không gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật, bởi vì một hành
động bao giờ cũng diễn ra ở một địa điểm, vào một thời gian nhất định. Có điều
khi đọc tác phẩm văn học ta quên đi thời gian hiện hiện thực, nhập vào tác
phẩm, sống cùng với nhận vật, cùng chứng kiến con người và sự việc theo thời
gian trong tác phẩm. Vì thế đang đọc giữa ban ngày mà cứ tưởng thời gian đã
khuya lắm rồi; quên hiện tại mà cứ tưởng mình đang ở “ ngày xửa ngày xưa ”
vào “đời Hùng Vương thứ mười tám ” hay “ năm gia tĩnh Triều Minh ”.
Thời gian trong tác phẩm văn học là thời gian tâm lí, không trùng khít với
thời gian ngoài đời. Vì thế không nên hiểu thời gian ấy một cách máy móc, cứng
nhắc và áp đặt.
Thời gian nghệ thuật cũng mang tính tượng trưng . Khi nhắc tới ngày mai
thường sẽ tượng trưng cho tương lai. Hoàng hôn, chiều tà thường tượng trưng
cho sự tàn lụi, sự kết thúc, cáo chung buông bã. Không phải ngẫu nhiên hay do
bí từ mà Nguyễn Du đã lặp lại chữ hoàng hôn và hôn hoàng trong một câu thơ “
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng ” để khái quát cả một đời Kiều đầy chuyện
u buồn, tàn tạ.
Có rất nhiều cách thể hiện thời gian trong tác phẩm văn học, không nhất
thiết phải có các từ, sáng trưa, chiều, tối hay xuân, hạ, thu, đông, thì ta mới biết.
Trong văn học cổ, một chiếc lá ngô đồng rụng xuống, ấy là mùa thu đã về, một
tiếng kêu khắc khoải của chim cuốc báo biệu hè sang . Khi Nguyễn Du tả cảnh “
Cỏ non xanh rợn chân trời- cành lê trắng điểm một vài bông hoa ” thì ai chẳng
biết đó là mùa xuân.
Như thế không gian và thời gian đều có rất nhiều cách thể hiện khác
nhau. Đấy chính là chỗ để các nhà thơ thể hiện sự sáng tạo và những cách cảm
nhận độc đáo, riêng biệt trong tác phẩm của mình.

C- Kết luận.
1.Kết quả, hiệu quả đối chứng.
Chúng tôi đã tiến hành các biện pháp trên trong những năm qua và có kết
quả như sau :
Học sinh đã đọc đúng được nhịp thơ trong tác phẩm trữ tình.
Biết phân tích được các yếu tố hình thức nghệ thuật.
Qua đợt khảo sát chất lượng đầu năm và thi chất lượng giữa học kì I có tới
90 % các em đạt điểm trung bình trở lên.
Riêng ở lớp 9A là lớp có nhiều học sinh khá, giỏi nổi trội của trường nên
có tới 50% bài đạt khá giỏi. Điều đáng nói ở đây là các em rất coi trọng các yếu
tố nghệ thuật khi học đến tác phẩm trừ tình.
2. Kiến nghị đề xuất.
Để làm tốt được nhiệm vụ đó các thầy, cô giáo cần phải nghiên cứu kĩ bài
trước khi lên lớp.
Khi giảng dạy phải có sự phân hoá trong việc dạy đại trà và dạy nâng cao.
Muốn làm được như vậy cần phải thường xuyên có hoạt động của tổ,
nhóm chuyên môn để cùng nhau xây dựng bài giảng…
Mặt khác mỗi giáo viên cũng cần phải đọc nhiều tài liệu để có thêm vốn
kiến thức phong phú cho mình.
Tuy chúng tôi có đưa ra một số ý kiến như vậy nhưng cũng không tránh
khỏi thiếu sót. Mong các đồng nghiệp tiếp thu, góp ý, bổ sung để chúng ta có thể
hoàn chỉnh được kinh nghiệm khi phân tích thơ trữ tình.
Mục lục Trang
A. Đặt vấn đề
I- Lời nói đầu
II- Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
1. Trực trạng
2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng
B- Giải quyết vấn đề
I-Giải pháp thực hiện.

II- Các biện pháp để tổ chức thực hiện
C- Kết luận
1. Kết quả nghiên cứu, hiệu quả đối chứng
2. Kiến nghị đề xuất.
A- Đặt vấn đề.
I-Lời mở đầu.
Dạy học chính tả ở tiểu học là một trog những vấn đề đang được quan tâm
nhằm nâng cao chất lượng của môn học Tiếng Việt trong nhà trường. Kĩ năng
chính tả thực sự cần thiết đối với mọi người, không chỉ đối với học sinh tiểu
học. Đọc một văn bản được viết đúng chính tả, người đọc có cơ sở để hiểu đúng
nội dung văn bản đó. Trái lại, đọc một văn bản mắc nhiều lỗi chính tả, người
đọc khó nắm bắt được nội dung và có thể hiểu sai hoặc không hiểu được đầy đủ
văn bản.
Chính tả là một trong những phân môn Tiếng Việt ở tiểu học. Theo định
nghĩa trong một số từ điển, chính tả là viết đúng, hợp với chuẩn và những quy
tắc về cách viết chuyển lời nói sang dạng thức viết.
Phân môn chính tả dạy cho học sinh tri thức và kĩ năng chính tả, phát triển
năng lực sử dụng ngôn ngữ ở dạng thức viết và hoạt động giao tiếp. Nếu tập viết
dạy học sinh biết viết, tức là hoạt đọng tạo ra chữ thì chính tả dạy cach tổ chức,
kết hợp các chỗ đúng quy ước của xã hội để làm thành chất liệu hiện thực hoá
ngôn ngữ.
Chữ viết là kí hiệu bằng hình ảnh thị giác ghi lại tiếng nói. Mỗi hình nét
tương ứng với 1 đoạn âm thanh có ý nghĩa của tiếng nói. Một tổ hợp gồm chuỗi
các hình nét được liên kết theo những cách thức nhất định để ghi lại lời nói, âm
thanh và trở thành phương tiện truyền đạt nội dung trong lời nói. Chính tả thực
hiện những quy ước của xã hội đối với chữ viết đề phòng ngăn ngừa sự vận
dụng tuỳ tiện, vi phạm các quy ước, làm trở ngại cho việc tri giác ngôn ngữ
trong quá trình giao tiếp.
Chữ viết là một phát minh quan trọng của loài người, sáng tạo ra chữ viết,
loài người có thêm một phương tiện vật chất có tác dụng phát huy hiệu quả các

chức năng của ngôn ngữ. Lời nói được chuyển thành văn bản viết có khả năng
chuyển đạt và bảo lưu mọi tư tưởng của loài người qua mọi thời gian và không
gian, trong mọi hoàn cảnh và mục đích giao tiếp, với mọi đối tượng sử dụng,
không có chữ viết, không biết chữ và không thể hiện chữ viết đúng chuẩn, con
người tự hạn chế các hoạt động giao tiếp hoặc làm cho hoạt động giao tiếp bị
hạn chế, không biết chữ, năng lực tư duy của con người cũng bị hạn chế, khó
phát triển.
Trểm đến tuổi học, thường bắt đầu quá trình học tập bằng việc “ học ” .
Ở giai đoạn bậc tiểu học, trẻ tiếp tục được hoàn thiện năng lực “ nói ” tiếng mẹ
đẻ. Nhà trường xuất phát từ dạng nói, từ hệ thống ngữ âm tiếng mẹ đẻ để dạy trẻ
học chữ. Trẻ em biết chữ mới có phương tiện để học Tiếng Việt và học các
môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội khác, trẻ không biết chữ không có
điều kiện tiếp xúc ngôn ngữ văn hoá, không thể tiếp thu văn hoá, khoa học một
cách bình thường được. Nói tóm lại biết chữ là biết đọc thông viết thạo tiếng mẹ
đẻ hoặc đọc thông viết thạo mọi ngôn ngữ.
Muốn đọc thông viết thạo, trẻ em phải được học chính tả. Chính tả là phân
môn có tính chất công cụ. Nó có vị trí quan trọng trong giai đoạn học tập đầu
tiên của trẻ. Nó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc học tập Tiếng Việt và
học tập các bộ môn khoa học. Môn chính tả cung cấp cho trẻ em những quy tắc
sử dụng hệ thống chữ viết, làm cho trẻ em nắm vững các quy tắc đó và hình
thành kĩ năng viết ( và đọc, hiểu chữ viết ) thông thạo Tiếng Việt. Chính vì tầm
quan trọng của môn chính tả như trên tôi mạnh dạn đưa ra một vài phương pháp
hướng dẫn học sinh viết đúng chính tra trong trường Tiểu học.
II- Thực trạng của vẫn đề nghiên cứu.
1.Thực trạng.
Hoa lộc là một xã thuần nông, xong nhìn chung các bậc phụ huynh đã biết
quan tâm đến việc học tập của con em mình. Nhưng để luyện chữ viét cho học
sinh theo đúng cỡ chữ của quyết định 31 BGD- DDTthì vẫn còn 1 số phụ huynh
chưa đề cập đến còn chưa quan tâm sát sao đối với chữ viết của con em mình.
Chính vì thế việc dạy chính tả cho học sinh là cả một vấn đề đáng quan tâm của

giáo viên tiểu học. Nhận thức được vấn đề trên, ngay từ đầu năm nhận lớp tôi đã
đưa ra khảo sát đầu năm về chữ viết của các em.
Loại
Sĩ số hs
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
2.Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên.
Từ thực trạng và kết quả khảo sát như trên để việc dạy học chính tả cho
học sinh đạt hiệu quả tốt hơn tôi mạnh dạn cải tiến nội dung và phương pháp
dạy học như sau :
+ Về Phương pháp : Tôi thường xuyên quan tâm, gần gũi với học sinh,
nắm bắt kịp thời về chữ viết của từng em ngay từ đầu năm học để uốn nắn cho
các em.
+Về nội dung : Ngoài những tiết chính tả học trên lớp tôi còn giao bài viết
về nhà cho các em luyện viết. Khi chấm điểm chữ viết cho các em tôi sửa từng
nét chữ trong bài viết.
Qua 1 thời gian ngắn tôi thấy kết quả chữ viết của các em có rất nhiều tiến
bộ kể cả về thế chữ và nét chữ.
B-Giải quyết vấn đề.
I. Các giải pháp thực hiện.
1-Dựa vào nguyên tắc dạy chính tả.
* Dạy chính tả gắn với sự phát triển tư duy.
- Dạy chính tả hướng về dạng thức viết của hoạt động lời nói.
-Dạy chính tả chú ý đến trình độ phát triển ngôn ngữ của học sinh.
2.Dựa vào mẹo luật chính tả theo quy tắc ngữ nghĩa và thói quen.
II. Các biện pháp thực hiện .
1- Dựa vào nguyên tắc dạy chính tả.
1.1.Dạy chính tả gắn với ự phát triển t duy học sinh.
Phát triển tư duy cho học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên trong quá
trình dạy học chính tả nhằm đảm bảo kết quả việc tiếp thu và vận dụng lí thuyết

vào hoạt động thực tiễn. Khi phân tích luyện tập, sửa chữa hoặc cung cấp kiến
thức mới cần tiến hành theo một số thao tác tư duy để kích thích hứng thú tìm
hiểu, giúp học sinh nắm chắc các hiện tượng và tìm ra cách giải quyết đúng đắn
các hiện tượng đó.
Tránh áp đặt máy móc những quy tắc mà học sinh chưa được gợi mở sauy
nghĩ để thực hiện một cách tự giác . Việc đánh giá kết quả chính tả hướng về các
kĩ năng tự động hoá có ý thức, các vận động thuần thục của cơ bắp và trí óc thực
hiện các quy tắc chính tả một cách đầy đủ, chính xác, trở thành thói quen trong
hoạt động ngôn ngữ của học sinh và góp phần tạo ra những biểu tượng thị giác
và thính giác đúng đắn nhất. Trong quá trình dạy chính tả giáo viên thường
xuyên dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh các quy tắc chính tả và ghi nhở để áp dụng
vào việc viết văn bản bằng 1 hệ thống thao tác tư duy hợp lí.
a)Phân chia nhiệm vụ thực hiện quy tắc thành các bước cụ thể.
b) Lần lượt giải quyết các bước cụ thể theo một trình tự lô gíc.
c) Vận dụng các kinh nghiệm tực tiễn vào việc giải quyết từng bước cụ thể và
giải quyết nhiệm vụ chung.
Ví dụ : Dạy cho học sinh viết phấn l / n trong các chữ âm tiết. Nhiệm vụ chính tả
ở trường hợp này là giải quyết hiện tượng viết như nói, nói sao viết vậy, phát âm
lẫn lộn l / n thì viết cũng không biệt . Quy tắc chính tả phân biệt l / n hoàn toàn
khác với quy tắc phân biệt ch, tr, s, x trong 1 số phương ngữ vẫn tồn tại phát âm
l / n nhưng lại chỉ có ch/ x không có tr, s. Vì thế, có thể phân chia và lần lượt
cho học sinh tìm nguyên nhân viết lẫn lộn l / n, cách so sánh phát âm l / n, so
sánh đối chiếu phân biệt nghĩa các âm tiết để viết đúng l hay n.
Nói tóm lại, nguyên tắc dạy chính tả gắn liền với phát triển tư duy học
sinh đòi hỏi :
- Vận dụng các phương pháp thích hợp rèn luyện thao tác tư duy giúp cho học
sinh chủ động tích cực lính hội tri thức và tập luyện tập kĩ năng chính tả tự động
hoá.
-Hướng dẫn học sinh hoạt động trí tuệ để “ hiểu ” chữ viết và “ hiểu ” chức năng
chữ viết trong hệ thống các phương tiện biểu hiện ngôn ngữ, “ hiểu ” tác dụng

của chữ viết trong quá trình giao tiếp và tư duy bằng ngôn ngữ viết.
- Luyện tập,, thực hành các hình thức chính tả để củng cố kĩ năng viết và kĩ năng
thao tác tư duy khoa học cho học sinh.
1.2.Dạy chính tả hướng về dạng thức viết của hoạt động lời nói.
Ngôn ngữ được thể hiện hoá trong quá trình giao tiếp ở dạng thức nói và
dạng thức viết. Nói và viết là những hoạt động có hai mặt : Một mặt là hành
động phát ra âm thanh hoặc viết thành chữ i một mặt là hoạt động giao tiếp có
nội dung và mục đích cụ thể, biểu hiện bằng chất liệu âm thanh hay kí tự được
nói hoặc viết ra thành lời. Chữ viết và chính tả là hệ thống hoạt động chức năng
của ngôn ngữ, chữ viết và chính tả có liên hệ với hình thức ngữ âm và với nội
dung ngữ nghĩa của văn bản. Sự sáng tạo ra chữ viết và các quy tắc chính tả
nhằm đảm bảo các mối liên hệ đó và đảm bảo cho chữ viết thực hiện có hiệu quả
chức năng biểu hiện ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp. Các kĩ năng chính tả
được hình thành và thuần thục từ văn bản viết. Muốn có kĩ năng viết, học sinh
không chỉ biết lí thuyết mà chủ yếu phải thông qua hoạt động viết, viết nhiều và
viết đúng chính tả.
Ví dụ : Khi dạy chính tả nghe- viết học sinh lớp 4 .
Bài : Sầu riêng.
-Phải giúp cho học sinh nắm được nội dung đoạn viết trong bài yêu cầu : Đọc
mỗi đoạn viết cho học sinh nghe, cho học sinh nắm được các hiện tượng chính tả
đáng chú ý trong bài, chẳng hạn như những từ ngữ dễ viết sai như : Trổ vào cuối
năm, toả khắp khu rừng, hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhuỵ li ti…)
Tổ chức cho các em viết vào vở nháp những từ ngữ đó trước khi viết bài .
Sau đó tổ chức cho học sinh viết bài theo đúng tốc độ quy định. Đọc cho
học sinh nghe viết từng câu hay từng cụm từ. Đọc cho học sinh soát bài và cuối
cùng là chấm, chữa bài cho học sinh. Những học sinh mắc lỗi, cần được tôi chú
ý rèn cặp thường xuyên như uốn nắn từng nét chữ, rồi đến cỡ chữ và thế chữ
cho từng em. Ví dụ như những em viết chưa đúng đẹp thì tôi sẽ luyện cho các
em viết các chữ có nét tròn trước rồi đến các nét khuyết, nét hất…Từ đó các em
sẽ viết đẹp và đúng thế chữ.

1.3.Dạy chính tả chú ý đến trình độ phát triển ngôn ngữ của học sinh.
Trước tuổi đi học, trẻ em mới chỉ biết sử dụng ngôn ngữ ở dạng thức nói.
Hệ thống ngữ âm, hệ thống từ vựng và hệ thống ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ được
hình thành ở trẻ em một cách tự nhiên, tự phát và vô thức, thông qua dạng thức
nói . Bước vào bậc tiểu học trểm mới bắt đầu học chữ, tiếp xúc với dạng thức
viết của ngôn ngữ. Để nắm được dạng thức viết (biết viết, biết đọc chữ viết)
trểm phải học chữ, viết chữ và học chính tả. Hệ thống chữ viết và hệ thống quy
tắc chính tả hình thành ở trẻ em qua con đường học vấn một cách tự giác và có ý
thức. Khi biết chữ, trình độ tư duy và ngôn ngữ của trẻ em sẽ có một bước phát
triển nhảy vọt. Từ tư duy cụ thể, trực quan và cảm tính, trẻ em tiến đến tư duy
khái quát trừu tượng và lí tính. Hoạt động ngôn ngữ của trểm phát triển. Khả
năng và lĩnh vực giao tiếp mở rộng. Hệ thống chữ viết và chính tả đối với học
sinh tiểu học laftri tức mới mẻ. Nắm bắt được nội dung kí hiệu của hệ thống chữ
viết, học sinh có phương tiện tiếp thu, lĩnh hội tri thức khoa học tự nhiên và xã
hội, hình thành những phẩm chất nhân cách có văn hoá. Dạy chính tả dựa vào
trình độ phát triển ngôn ngữ của trẻ em, tức là trên cơ sở trình độ trểm nắm và
sử dụng dạng thức nói ( hệ thống ngữ âm và các hệ thống bộ phần cấu thành
ngôn ngữ ). Ở độ tuổi khác nhau nguồn gốc dân tộc và địa bàn cư trú khác nhau,
với những ảnh hưởng của tiếp xúc văn hoá trong các cộng đồng có nét riêng,
trình độ nắm và sử dụng dạng thức nói của học sinh từng lớp và từng cấp học
không đồng đều. Do đó nội dung hình thức và yêu cầu dạy chính tả đề ra phải
sát hợp với từng loại đối tượng.
Ví dụ : Khi dạy chính tả ở lớp 1 coi trọng trước hết mối liên hệ âm- chữ ( cái
được biểu hiện và cái biểu hiện ) phát âm và ghi âm, viết và đọc. Dần dần, lên
các lớp trên, cung cấp những quy tắc chính tả biểu hiện mối quan hệ chữ- âm-
nghĩa. Hoặc chữ- nghĩa trong dạng thức viết của văn bản.
2. Dựa vào mẹo luật chính tả theo quy tắc ngữ nghĩa và thói quen.
2.1. Viết đúng chính tả các âm tiết có cấu trúc ngữ âm giống nhau ( các âm tiết
đồng âm, phát âm như nhau ) có cức năng phân biệt nghĩa trong từ( từ đồng âm
khác nghĩa ). Dựa vào nghĩa của từ hoặc tổ hợp từ có chứa các âm tiết đồng âm

để lựa chọn cách viết đúng.
Có ba trường hợp phân biệt cách viết có âm đầu phụ âm ( z ) viết d hay
gi :
- CHỉ viết d cho phụ âm / z / : dạc ( dõng dạc, vóc dáng…), dách ( số dách …),
dạm ( dạm vợ, dạm bán…); dạn ( dạ dày, bạo dạn…); dào ( dạt dào, ôi dào…)…
-Chỉ viết gi cho phụ âm / z / : giảm ( giảm béo, giảm giá…), giản( giản dị, đơn
giản …), giảng ( giảng bài, khai giảng…), giảo ( giảo quyệt, gian giảo…), giấc (
giấc ngủ, giờ giấc…)…
- Viết d hay gi cho phụ âm / z/ làm thành những cặp chữ âm tiết đồng âm khác
nhau (đồng âm không đồng tự ) ví dụ : da/ gia; dẫm ( dò dẫm,doạ dẫm …), giẫm
( giẫm chân, chết giẫm…)…
2.2.Viết các chữ âm tiết phát âm theo phương ngữ ( phòng đồng âm ) theo
chuẩn thống nhất ( chuẩn thống nhất thường lựa chọn cách viết theo phát âm
một phương ngữ ).
Ví dụ : Viết đúng chính tả d / gi / .
-Viết d hay gi cho phụ âm / z / làm thành những cặp chữ âm tiết đồng âm khác
nghĩa ( gia / da; dẫm ( doạ dẫm, dò dẫm…), giẫm ( giẫm chân…).
-Viết d, gi, r hay biểu hiện các âm tiết khu biệt nghĩa.
2.3. Viết các chữ âm tiết có hai biến thế phát âm đồng nghĩa.
- Chỉ có một cách viết đúng ( hiêu/ hươu viết hươu thày/ thầy viết thầy
-Chỉ tồn tại song song hai cách viết ( cách mệnh, cách mạng…nhưng mệnh
lệnh ).
2.4.Viết hoa chữ cái đầu trong chữ âm tiết trong danh từ riêng hoặc tổ hợp từ
làm tên riêng ; chữ cái đầu trong âm tiết đứng đầu cau hay đoạn .
2.5.Viết các chữ âm tiết trong từ phiên âm tiếng nước ngoài, có hai trường hợp.
-Âm tiết trong từ phiên âm tiếng nước ngoài có đặc điểm giống với âm Tiếng
Việt thì viết theo quy tắc ghi âm Tiếng Việt.
-Âm tiết trong từ phiên âm Tiếng nước ngoài có các âm vị không có chữ viết
tương ứng trong Tiếng Việt viết theo phát âm tiết trong từ Tiếng nước ngoài.
C- Kết luận

1. Kết quả nghiên cứu.
Qua đây tôi thấy việc dạy học sinh tiểu học viết đúng chính là rất quan
trọng như cha ông ta xưa có câu “nét chữ là nết người ”. Chính vì thế mà tôi đã
áp dụng một số phương pháp dạy chính tả cho học sinh tiểu học. Sự kết hợp hài
hoà giữa các phương pháp và nắm được từng đối tượng học sinh đã giúp việc
giảng dạy kết quả tốt. Kết quả cuối năm có tới em đạt loại giỏi,
khá , trung binh không còn học sinh yếu. Cùng với việc tiến bộ
trong học tập các em đã có những tình cảm thái độ đúng đắn trong học tập cũng
như trong đạo đức. Từ đó đã giúp các em tinh thần tự học tự rèn luyện, có tinh
thần vượt khó trong học tập.
Để thực hiện tốt quá trình dạy học người giáo viên trước hết phải có trách
nhiệm thực sự với các em, có tình cảm và thái độ đúng đắn đối với các em để
các em tin yêu và kính phục, phải có sự sáng tạo tìm tòi trong cách dạy, lựa chọn
và kết hợp hài hoà các phương pháp và cách thức tổ chức dạy học, phải đi sâu
đến từng đối tượng học sinh nắm được hoàn cảnh cụ thể của từng em, từ đó có
biện pháp giáo dục và bồi dưỡng cho các em./.
Phần I : Lí do chọn đề tài.
Hiện nay công tác giáo dục được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm và coi
trọng. Đặc biệt là mấy năm gần đây chúng ta đã và đang thực hiện Nghị quyết
của Bộ giáo dục về công tác cải cách giáo dục. Như ta đã biết mục tiêu giáo dục
đòi hỏi ngày càng cao, vì thế chương trình tiểu học đã được thay sách hoàn toàn
từ lớp 1- đến lớp 5.
Đối với học sinh lớp 1 chương trình mới có thêm dạng toán có lời văn
trong hệ thống kiến thức môn toán lớp 1 nên việc tìm ra biện pháp giúp học sinh
khắc phục khó khăn trong khi giải bài toán có lời văn là cần thiết cấp bách.
Dạy giải các bài toán có lời văn đối với học sinh lớp 1 là hết sức khó
khăn, bởi vì tư duy lô gíc chưa phát triển, chủ yếu là tư duy cụ thể. Nhưng giải
toán có lời văn đòi hỏi mỗi học sinh phải huy động gần như hết thảy các kiến
thức về toán vào các hoạt động. Nhưng thực tế ở các trường tiểu học,việc giải
toán có lời văn ở học sinh lớp 1 còn lúng túng khá phổ biến.

Nguyên nhân chính của kết quả trên là do các em chưa nắm được đường
lối chung để giải một bài tập,học sinh chưa có ý tức, rèn tính cẩn thận, kiên trì
trong giải toán. Đặc điểm tâm sinh lí của các em cũng chưa phát triển nên năng
lực suy luận toán học của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Hơn nữa phương pháp
dạy của giáo viên có phần chưa phù hợp với trình độ và tâm lí học sinh, đôi khi
phương pháp giảng dạy còn máy móc, cứng nhắc, chưa phát huy được óc sáng
tạo của các em, mà tôi đi sâu vào nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của đề tài khoa
học giáo dục đó là : “ dạy học sinh lớp 1 giải các bài toán có lời văn ”.
Phần II
NHiệm vụ của đề tài
-Trong nội dung chương trình của toán lớp 1 các bài toán có lời văn chiếm
khoảng 20- 25 % chương trình, nên việc nghiên cứu phương pháp giải toán là
việc làm phải cụ thể và chính xác.
Đối với học sinh lớp 1, khi nắm chắc cức phương pháp các bài toán có lời
văn ở các dạng bài tập khác nhau là đa giải quyết được phần rất lớn của chương
trình dạy học.
-Dạy toán ở tiểu học nhằm giúp các em biết vận dụng các kiến thức, rèn luyện
các kĩ năng thực hành cần thiết để đáp ứng nhu cầu bài học, môn học, qua đó
phát triển năng lực tư duy rèn luyện phương pháp suy luận và phẩm chất tốt đẹp
của con người lao động mới, học sinh biết xác định được sự liên hệ lô gíc giữa
các dự kiện, đại lượng, cái đã biết và cái phải tìm trong bài toán. Từ đó tìm ra
phép tính thích hợp, tính chính xác để trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
-Để hoàn thành được bài toán ta cần xác lập được các mức độ cụ thể, hoạt động
chuẩn bị cho việc giải toán.
-Làm quen với việc giải toán và hình thành kĩ năng giải toán.
Phần III
Phương pháp nghiên cứu
1) Phần lí luận :
Đọc sách, đọc tài liệu để làm sáng tỏ nội dung :
-Phương pháp dạy học toán ở tiểu học ” (Đỗ Đình Hoan- Đỗ Trung Hiệu- Vũ

Quốc Trung ) .
- “ Một số vấn đề môn toán bậc tiểu học ” ( Tập II- Đào Nãi )
- “ Giáo dục tiểu học ” ( Phó Đức Hoè )
- “ Thế giới trong ta ” ( tạp chí của hội taâ lí- giáo dục học Việt Nam ) số T9-
2002.
-SGK toán 1, SGV toán 1, vở bài tập toán 1, bài soạn toán 1.
2) Thực tiễn.
-Điều tra khảo sát thực tiễn lớp 1 A và lấy lớp đối chứng là lớp 1 B .
-Giảng dạy thực nghiệm.
-Dự giờ rút kinh nghiệm.
-Phỏng vấn học sinh bằng các câu hỏi ngắn.
PhầnIV
Nội dung nghiên cứu.
Trong thực tế dạy học ở các trường tiểu học hiện nay, việc dạy học môn
toán còn gặp rất nhiều khó khăn, nó đòi hỏi người giáo viên phải có một trình độ
kiến thức và có năng lực sư phạm nhất định để tổ chức tốt hoạt động học tập cho
học sinh, giáo viên là người cầm lái giúp các em chiếm lĩnh được tri thức khoa
học mới của xã hội. ĐỐi với học sinh tiểu học, kiến thức tự nhiên xã hội còn rất
nhiều thiếu thốn, trí nhớ của các em chưa bền vững. Tư duy trìu tượng kém phát
triển, nên khi gặp bài toán có lời văn dù đơn giản hay phức tạp thì các em đều
thể hiện sự ngại khó, vì thế dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao, lòng
ham mê không có, cho nên giáo viên không nhanh chóng khắc phục cho các em
những kiến thức thiếu hụt thì càng lên lớp trên sự trống kiến thức càng lớn.
Dạy giải bài toán có lời văn là một sự vận dụng tổng hợp ở điểm cao tri
thức , kĩ năng toán học và kiến thức cuộc sống của các em sẽ được nâng lên và
phong phú hơn.
Từ các dạng khác nhau của bài toán, các phép tính cộng trừ khi sử dụng
tính toán, từ chỗ đơn giản là hình vẽ cho đến bằng lời văn, đây là dịp thuận lợi
tạo đièu kiện cho các em phát triển kiến thức đã học. Nó được thể hiện đầy đủ
trong chương trình SGK.

-Vận dụng về mối quan hệ giữa các yếu tố đại lượng học trong đại lượng các
mối quan hệ giữa các yếu tố của hình học và các quan hệ giữa các đại lượng
thường gặp trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày.
-Vận dụng thực hiện phép tính cộng trừ, từ một bài toán khi hai thành phần đã
biết để tìm ra kết quả và ngược lại.
-Vận dụng về mối quan hệ giữa số, số tự nhiên, số tự nhiên liên tiếp, số chẵn, số
lẻ. Từ đó giải các bài toán liên quan đến có vận dụng đặc điểm của mỗi loại toán
điển hình, từ đó tìm ra cách giải quyết phù hợp riêng biệt của loại toán áp dụng
vào bài tập tương tự.
Muốn dạy tốt dạng bài : Bài toán có lời văn, giáo viên hiểu được sự gắn
bó hữu cơ giữa việc dạy toán có lời văn và số các phép tính, khi dạy về số có kết
hợp chuẩn bị và củng cố cho phép dạy phép tính và giải bài toán. Việc giải toán
có lời văn luôn luôn được gắn vào các giờ học về số và các phép tính.
-Đối với học sinh lớp 1, việc giải toán có lời văn chỉ dừng lại ở dạng bài toán
đơn ( chỉ có một phép tính ).
A-Các dạng toán đơn về cộng trừ.
- Học sinh nắm được các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ sau :
1. Loại toán “ tìm tổng khi biết hai số hạng ”
Ví dụ : Đoạn thăng AB dài 3 cm và đoạn thẳng BC dài 6 cm . HỎi đoạn thẳng
AC dài mấy xăng ti mét ?
( BT4 trang 125 toán 1 )
Bước 1 : Tóm tắt bài toán.
A 3cm B 6cm C

? cm
Bước 2 : bài giải
Cả hai đoạn thẳng dài tất cả là :
3 + 6 = 9 ( cm )
Đáp số: 9 cm
Ví dụ : Một hộp bút có 12 bút xanh và 3 bút đỏ . Hỏi hộp bút đó có tất cả bao

nhiêu cái bút ?
Bước 1 : Tóm tắt bài toán
Có : 12 bút xanh
Có : 3 bút đỏ
Có tất cả …….cái bút ?
Bước 2 : Bài giải
Có tất cả số bút là :
12 + 3 = 15 ( cái bút )
Đáp số : 15 cái bút.
2. Loại bài toán “ tìm hiệu khi biết số bị trừ và số trừ ”.
Ví dụ : Lan gấp được 14 cái thuyền, Lan cho bạn 4 cái thuyền, hỏi Lan có bao
nhiêu cái thuyền.
Bước 1 : TÓm tắt bài toán
Có : 14 cái thuyền
Cho : 4 cái thuyền
Còn lại :………cái thuyền ?
Bước 2 : Bài giải
Lan còn lại số thuyền là :
14 – 4 = 10 ( cái )
Đáp số : 10 cái thuyền
Trong chương trình toán lớp 1 hiện nay, chỉ có hai loại toán bài giải như
vừa nêu trên. Thực ra đây là hai bài thuộc dạng toán đơn giản nhất của kiểu bài
toán có lời văn chính vì thế khi dạy giáo viên cần khắc sâu cho học sinh biết mối
quan hệ giữa các thành phần trong đề toán. Từ đó để tìm ra thành phần chưa biết
trên các thành phần đã biết, như thế là ta đã giúp học sinh trả lời được câu hỏi
của đề toán.
Trong thực tế khi dạy học sinh giải các bài toán có lời văn các em còn
lúng túng trong việc ghi tóm tắt bài toán. Cách trình bày và cách ghi câu trả lời,
chỉ có 25 – 30 % học sinh có thể tự tóm tắt và tìm được câu lời giải thích hợp,
còn đa số học sinh không tóm tắt đầu bài mà giải bài toán luôn nên kết quả chưa

cao. Các em chưa thấy được tầm quan trọng của việc tóm tắt bài toán, đây là
bước đầu tiên quyết định cách giải bài toán.
B- Các bước tiến hành giải bài toán có lời văn.
Gồm 4 bước.
1. Đọc tìm hiểu bài
2. Tóm tắt bài toán
3. Phân tích các đại lượng liên quan
4. Thực hiện lời giải.
Bước 1 : Yêu cầu học sinh nhất thiết phải đọc kĩ đề bài ( 3 lần trở lên ) tìm
hiểu để biết được cái đã cho và cái phải tìm, đây là điều quan trọng không thể
bỏ qua được, giáo viên cần nhắc học sinh tránh thói quen là vừa đọc đầu bài
xong chưa hiểu kĩ bài đã vội vàng giải toán. Như vậy học sinh giải toán hay sai
và lạc đề. Vì vậy giáo viên nên đưa ra các câu hỏi để giúp các em dễ hiểu hơn.
Ví dụ : Bài toán cho biết những gì ?
Bài toán bắt ta tìm gì ?
Bước 2 : Tóm tắt bài toán
Đây là bước quan trọng bởi vì lúc này bài toán được tóm gọn lại chủ yếu
bằng lược đồ đơn giản. NHờ đó mà mối quan hệ giữa các số đã cho và số phải
tìm hiện rõ hơn, dễ hiểu hơn.
Vì vậy học sinh cần phải tóm tắt bài toán : ở chương trình lớp 1 giáo viên
dạy cho học sinh các cách tóm tắt sau :
a) Tóm tắt bằng chữ :
Ví dụ : Mai gấp được 6 cái thuyền, Hà gấp được 3 cái thuyền. HỎi cả 2 bạn gấp
được mấy cái thuyền.
b ) Tóm tắt bằng lời .
Mai gấp : 6 cái thuyền
Hà gấp: 3 cái thuyền
Cả hai bạn gấp : ……cái thuyền ?
* Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Ví dụ : 6 cái thuyền 3 cái thuyền

? cái thuyền.
c) Tóm tắt bằng chữ và dấu.
Có : 2 gà trống
Trống, mái ? con
Có : 5 gà mái
Trên đây là 3 cách tóm tắt bài toán mà tôi thờng dùng để dạy cho học sinh
lớp 1. Tuy nhiên đối với học sinh lớp 1 hiện nay thì kiểu tóm tắt bằng chữ là chủ
yếu và thông dụng nhất. Khi học sinh đã tóm tắt được bài toán thì các em dễ
dàng tìm ra cách giải.
Bước 3 : Phân tích đề bài toán.
Đây là bước quan trọng trong quá trình giải toán, tập trung cao độ tư duy
học sinh để lập được các mối liên quan giữa các đại lượng, trong bước này
người thầy giúp các em biết suy luận. Muốn biết được y/c của đề tài là gì ? thì
phải làm như thế nào ?
Để thực hiện được điều đó giáo viên cần tổ chức cho học sinh đọc kĩ đề
toán, hiểu rõ một số từ quan trọng như “ thêm, và, tất cả…” hoặc “ bớt, bay đi,
ăn mất, còn lại …” ( có thể quan sát tranh vẽ để hỗ trợ ).
Trong thời kì đầu ( tiết 81, 82 ) giáo viên giúp học sinh tóm tắt bằng cách
đàm thoại “ bài toán cho biết gì ? hỏi gì ? ” và dựa vào câu trả lời của học sinh
để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là
cách tốt nhất để học sinh ngầm phân tích đề toán.
Ví dụ : Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà . Hỏi nhà An có tất cả
mấy con gà .
Trong các bước phân tích bài toán, giáo viên cần hướng dẫn học sinh qua
các câu hỏi cụ thể để đi đến yêu cầu được giải quyết tránh tình trạng lan man,
thiếu trọng tâm và hướng đi lệch vấn đề.
Bước 4 : Trình bày bài giải.
Đây là bước cụ thể của quá trình tư duy, nó thể hiện rõ nét kĩ năng, kĩ xảo
giải bài tập của học sinh. Học sinh dựa vào sơ đồ phân tích trên để viết bài giải.
Nhìn vào bảng tóm tắt phân tích ví dụ trên giáo viên hướng dẫn học sinh

trình bày bài giải như sau :
Bài giải
Nhà An có tất cả số gà là.
5 + 4 = 9 ( con gà ).
Đáp số : 9 con gà
- Khi giải các bài toán có lời văn thông thường các em chỉ cần viết bước 4, còn
lại các bước 1, 2, 3 là bước suy nghĩ và làm miệng. Song cũng cần phải tỉ mỉ,
cẩn thận để tránh học sinh qua loa đại khái, dẫn đến kết quả sai. Trong quá trình
giảng dạy bài toán có lời văn có 2 điều mà chúng ta cần chú ý là :
1. Luôn củng cố ý thức nắm các bước giải toán.
2. Thành thạo kĩ năng tính toán, học thuộc bảng cộng, trừ, biết làm cộng
trừ trong phạm vi 100 ( không nhớ )
-Nếu trong quá trình giải toán học sinh không nắm được các qui tắc, tiến trình
các bước thì không thể tránh được sự nhầm lẫn. Bài toán có thể bế tắc hoặc tìm
ra cách giải chưa hay. Cho nên khi giải một bài toán có lời văn dù đơn giản hay
phức tạp thì học sinh cần phải tuân thủ chặt chẽ các bước tiến hành, không thể
qua loa đại khái bước nào thì mới đạt kết quả cao.
Nếu trong quá trình giải toán học sinh không thuộc bảng cộng trừ thì kết
quả sai. Đây cũng chính là kĩ năng quan trọng trong tính toán vì thế giáo viên
luôn rèn luyện cho học sinh đọc đúng và vận dụng thành thạo các phép tính cộng
trừ ( không nhớ ) trong phạm vi 100.
Vậy muốn giải một bài toán có lời văn tốt thì hocjsinh phải nắm vững 2
điều cần chú ý như đã nêu trên.
C- Tổ chức thực hiện.
Đối với các lớp 1 bài toán có lời văn chỉ đơn thuần là bài toán đơn, các
em chủ yếu làm quen với hai loại bài ( như đã nói ở phần A ). Trong chương
trình mới thay sách này, yêu cầu học sinh khi giải phải viết thêm lời giải. Đối
với bài toán đơn thì các em sẽ dựa vào yêu cầu của bài toán để viết câu lời giải.
Ví dụ : Tóm tắt đề toán.
Lan có : 8 quả bóng

Lan thả : 3 quả
Còn lại : ……quả bóng ?
Điều khó khăn nhất đối với học sinh lớp 1 hiện nay là việc tìm ra một câu
trả lời thích hợp. Các em rất lúng túng trong việc tìm lời giải cho mỗi bài toán.
Vậy để giúp học sinh tìm ra câu trả lời đúng và nhanh nhất, giáo viên có
thể hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải như sau :
+Cách 1 : Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu ( hỏi ) và từ cuối ( mấy
quả bóng ) để có câu trả lời “ Lan còn lại ” hoặc thêm từ để có câu lời giải “
Lan còn lại số quả bóng là ”
+Cách 2 : Đưa từ “ quả bóng ” ở cuối câu hỏi lân đầu thay thế cho từ “ hỏi ” và
thêm từ “ số ” ở đầu câu “ là ” ở cuối câu để có “ số quả bóng của Lan còn lại là
”.
+ Cách 3 : Giáo viên nêu miệng câu hỏi “ Hỏi Lan còn mấy quả bóng” để học
sinh trả lời miệng “ Lan còn lại 5 quả bóng” rồi chèn phép tính vào để có cả
bước giải ( gồm lời giải và phép tính )
Lan còn số quả bóng là :
8 – 3 = 5 ( quả bóng )
+Cách 4 : Sau khi học sinh tính xong 8 – 3 = 5 ( quả bóng ) giáo viên chỉ vào 5
và hỏi “ 5 quả bóng ” ở đây là số quả bóng của ai còn lại ? ( số bóng của Lan
còn lại ) . Từ câu trả lời của các em giáo viên giúp học sinh sửa thành câu lời
giải. Số bóng của Lan còn lại là.
*Lưu ý : Giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh tự nêu nhiều câu lời giải khác
nhau. Sau đó cùng bàn bạc, thảo luận để tìm câu lừi giải thích hợp nhất. Không
nên bắt buộc các em nhất nhất phải tuân theo một kiểu nhất định.
Ngoài ra từ tuần thứ 7 ( học kì I ) ta đã ngầm chuẩn bị cho học sinh các
tiền đề để giải toán có lời văn sau này. Ở đây có sự chuản bị từ xa cho việc viết
câu lời giải.
Ví dụ : từ bức tranh “ 3 con chim, 1 con chim bay tói ” ( trang 47 SGK lớp 1 )
sau khi học sinh quan sát vẽ tranh và điền phép tính vào dãy ô trống.
3 + 1 = 4

Giáo viên nên định hình dần cho các em bằng việc đặt thêm các câu hỏi “
vậy tất cả có mấy con chim ? ” hoặc “ số chim có tất cả là bao nhiêu ? ”. Cứ làm
như vậy học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải bằng miệng . Do đó các em
sẽ dễ dàng viết được câu lời giải sau này.
*Hướng dẫn học sinh cách trình bày mọt bài toán có lời văn như sau :
Ví dụ : Bài giải
Lan còn lại số quả bóng là
8 – 3 = 5 ( quả bóng )
Đáp số : 5 quả bóng
Trong thực tế khi mới làm quen với dạng bài toán này có một số học sinh
viết phép tính cùng dòng với câu lời giải.
Ví dụ : Lan còn lại số quả bóng là : 8 – 3 = 5 ( quả bóng )
Nếu viết như thế bài giải không được đẹp.
Như vậy để học sinh trình bày giải được đúng, đủ, giáo viên phải luôn
luôn nhắc nhở học sinh ( nêu miệng ) cách trình bày bài toán hoặc yêu cầu học
sinh nhắc lại các việc cần làm khi giải một bài toán.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×