Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

sáng kiến kinh nghiêm môn ngữ văn hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.37 KB, 18 trang )

Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

CON ĐƯỜNG HỌC SINH ĐẾN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC

Người viết: Vũ Ngọc Thiện
Chức vụ: giáo viên
Đơn vị cơng tác: Trường THCS Nguyễn Chí Thanh

………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
-1-


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đất nước ta đang trên đà đổi mới, ngành giáo dục đang có những bước
chuyển mình theo nhịp bước của thời đại. Do đó, việc đổi mới phương pháp
dạy học là vấn đề cần thiết và quan trọng trong tình hình hiện nay. Một trong
những biện pháp tối ưu trong q trình dạy học là phương pháp dạy học tích
cực và dạy học theo chuẩn kiến thức và kĩ năng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả
giáo dục ở bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường hiện nay, giáo viên cần đặc biệt
chú trọng hơn nữa trong việc rèn luyện kĩ năng cảm nhận, đọc- hiểu tác phẩm
văn học ở bậc phổ thông theo chuẩn kiến thức và kĩ năng mà ngành yêu cầu.
Mặt khác, hiện nay trong dạy học, người giáo viên đang sử dụng hai
loại hình giáo án: giáo án truyền thống (giáo án viết tay hoặc đánh máy trên
Word) và giáo án điện tử. Thời gian gần đây, loại hình giáo án điện tử đang


được người giáo viên ưu tiên soạn giảng và đã đạt hiệu quả cao. Nhưng khơng
phải vì thế mà tuyệt đối hóa loại hình giáo án điện tử. Bởi vì, mỗi loại hình
giáo án đều có những ưu – nhược điểm riêng, đặc biệt là trong các giờ dạy
Văn. Vì vậy, tùy vào tính chất của từng bài dạy mà GV lựa chọn sử dụng loại
hình giáo án làm sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất.
Thực tế mà nói, dù là soạn giảng theo hình thức nào thì giáo án có một
tác dụng rất lớn. Giáo án là một dàn ý chi tiết đã được giáo viên chuẩn bị
trước một cách kĩ lưỡng, trù tính trước ý đồ thiết kế - tổ chức quá trình dạy và
học cho từng bài dạy cụ thể trên lớp, nhằm giúp các đối tượng học sinh học
tập đạt hiệu quả cao nhất.
Tuy thế, trong mỗi lần kiểm tra giáo án hay họp chuyên môn, nhiều
giáo viên thường có câu nói cửa miệng “Giáo án chỉ là một hình thức đối
phó!”. Mới thống nghe, chúng ta đều thấy cũng có lí, nhưng suy nghĩ cho kĩ
càng, thấu đáo và nghiêm túc thì đó chỉ là sự bao biện không thể chấp nhận.
Thực tiễn dạy học cho thấy nếu lên lớp khơng có giáo án, tức là khơng trù tính
trước ý đồ tổ chức, thiết kế q trình dạy học, hay có nhưng soạn sơ sài thì
khơng có bất kì một giáo viên nào, dù đó là người có kinh nghiệm, có tay
nghề giỏi cũng khơng thể hướng dẫn học sinh học tập đạt hiệu quả như ý Đặc
biệt, đối với những bài soạn cho tiết dạy tác phẩm văn học.
Qua nhiều trao đổi, tham khảo ý kiến của giáo viên trong tổ cũng như
trao đổi với giáo viên, bạn bè đồng nghiệp của trường bạn chúng tôi thấy hầu
hết giáo viên đều soạn giảng tiết dạy tác phẩm văn học chưa sâu sắc. Đó là
những bài soạn chủ yếu thiên về khai thác nội dung mà khơng chú ý nghệ
thuật, khi dạy thì thiếu cảm xúc khơng thể hiện rõ đúng tính chất của một tiết
dạy tác phẩm văn học. Đó là vấn đề khiến cho tơi quan tâm và tìm cách
tháo gỡ.
Để chia sẻ kinh nghiệm nhằm góp phần khắc phục tình trạng nói trên,
tôi mạnh dạn xin trao đổi và đề xuất đề tài: phương pháp dạy học tác phẩm
văn học.
………………………………………………………………………………………………

Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
-2-


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

Do đối tượng tìm hiểu và áp dụng chỉ nằm trong phạm vi hẹp nên đề tài
mà tôi đề xuất có lẽ chưa được tồn diện và có sức thuyết phục cao. Vì vậy,
rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung và chia sẻ của quý thầy cô và quý đồng
nghiệp gần xa để đề tài này được tốt hơn.
II. PHẠM VI ĐỀ TÀI VÀ NGUỒN TƯ LIỆU:
1. Phạm vi đề tài:
Để tiến hành nghiên cứu và rút ra được kinh nghiệm cho đề tài này, chúng
tôi trao đổi, tham khảo ý kiến của giáo viên trong tổ cũng như trao đổi với
giáo viên, bạn bè đồng nghiệp của trường bạn, tìm hiểu và phân tích những
giáo án, các tiết dạy- học của giáo viên và các bài kiểm tra văn của các em HS
lớp 6, 7, 8, 9 trường THCS Nguyễn Chí Thanh, xã Nam Dong, huyện Cư Jút ,
tỉnh Đắk Nông.
2. Nguồn tư liệu:
- Giáo án dạy các tác phẩm văn học của các giáo viên trong và ngoài trường.
- Các tiết dự giờ dạy- học các tác phẩm văn học của các giáo viên trong và
ngoài trường.
- Các bài kiểm tra văn của các em HS lớp 6, 7, 8, 9 trường THCS Nguyễn
Chí Thanh, xã Nam Dong, huyện Cư Jút , tỉnh Đắk Nông.
III. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:
1. Mục tiêu:
- Khảo sát, phân tích, so sánh, đối chiếu và tìm hiểu hai cách soạn giáo án về
tiết dạy học tác phẩm văn học của giáo viên (giáo án truyền thống và giáo án

điện tử).
- Thống kê, phân tích, tổng hợp chất lượng, hiệu quả học tập của học sinh
(thái độ, ý thức học tâp và bài viết) trước hai cách soạn giáo án về tiết dạy học
tác phẩm văn học của giáo viên.
2. Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân của giờ dạy- học tác phẩm văn học từ đó
tìm hướng để thiết kế bài dạy hiệu quả cao nhất.
- Đề xuất khung sườn cách soạn giáo án tiết dạy- học tác phẩm văn học phù
hợp nhất, khả thi nhất.
- Từ đó, thống nhất dàn ý chung nhất cho tiết dạy- học tác phẩm văn học.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
1. Phương pháp khảo sát và phân loại.
2. Phương pháp thống kê.
3. Phương pháp so sánh, đối chiếu.
4. Phương pháp phân tích.
5. Phương pháp tổng hợp.

B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lí luận.
Văn học là môn học dùng chất liệu hiện thực kết hợp nghệ thuật ngôn từ để
phản ánh hiện thực, qua đó thể hiện tư tưởng tình cảm của tác giả . Nguyễn
………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
-3-


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………


Đình Thi đã viết “ Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật
liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà cịn
muốn nói một điều gì mới mẽ „Vì vậy dạy văn học là khai thác nghệ thuật
ngôn từ để làm rõ nội dung hiện thực và tư tưởng tình cảm của tác giả .
Từ đó, dạy văn học người giáo viên phải đảm bảo được đặc điểm trên của
môn học: phải giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm qua đó cảm nhận được thơng điệp mà nhà văn muốn gửi
đến người đọc. Mặt khác thông qua việc học những tiết văn học, giáo viên
cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự khám phá, cảm thụ một tác phẩm văn
học, giúp các em có khả năng giao tiếp đạt hiệu quả.
Một tiết dạy văn học thành cơng hay khơng có thể được đánh giá ở nhiều
cấp độ. Có thể là :
- Giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác nội dung, nghệ thuật thiếu chính
xác, sử dụng phương pháp chưa phù hợp dẫn đến học sinh không cảm thụ
được nội dung, nghệ thuật cũng như thông điệp mà người nghệ sĩ nhắn nhủ.
Giáo viên không giúp học sinh hình thành những kỹ năng, thái độ đối với bài
học và cuộc sống. Tiết học đó, bài giảng đó khơng đạt u cầu.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác đầy đủ nội dung, nghệ thuật , sử
dụng phương pháp phù hợp với môn học ,thực hiện linh hoạt các khâu lên lớp
, phân phối thời gian cho các khâu hợp lí. Tổ chức cho học sinh học tập tích
cực ,có chú ý giáo dục cho HS. Giáo viên gửi cảm xúc của mình vào bài dạy,
sống cùng với những vui buồn của tác giả, nhân vật. Phải giúp HS xúc động
và cảm nhận được cái hay cái đẹp của tác phẩm , đồng cảm với tác giả (cảm
nhận được những điều mà nhà văn gửi vào tác phẩm), học tập được những đặc
sắc về nghệ thuật của tác phẩm. Giáo viên giúp học sinh hình thành những kỹ
năng, thái độ đối với bài học và cuộc sống. Tiết học đó, bài giảng đó đạt yêu
cầu.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong nhà trường hiện nay, giáo viên dạy văn học còn chưa thật sự chú ý

đến đặc trưng của bộ môn. Do nhiều nguyên nhân nên giáo viên không đầu tư
vào bài soạn, kiến thức cung cấp cho học sinh chưa đầy đủ và khách quan,
hoặc chỉ chú ý cung cấp đủ nội dung bài học theo một trình tự cứng nhắc khơ
khan, máy móc, thiếu cảm hứng , thiếu sự đồng cảm với nhà văn. Từ đó học
sinh chán học mơn văn. Có thể nói tác phẩm văn học là một món ăn tinh thần.
Giáo viên là chế biến, phục vụ, học sinh là thực khách. Khách có ăn ngon hay
khơng - tâm hồn người thưởng thức có lâng lâng, rung động, say sưa, ngây
ngất hay khơng - là do ở người chế biến phục vụ . Cùng là một tác phẩm văn
học nếu GV biết cách khai thác, hướng dẫn đúng chỗ, đúng lúc thì HS sẽ rung
động, khắc sâu, yêu thích và nhớ mãi . Vậy GV phải làm gì để dạy một tiết
văn học đạt hiệu quả và có thể xem là đạt yêu cầu ?
II. THỰC TRẠNG.
1. Thực trạng của việc dạy học văn hiện nay.
………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
-4-


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học",
học văn là học làm người, học để biết cách chung sống. Vậy mà một thực
trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không cịn thích học văn. Thực trạng
này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở
với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn văn và nay đã trở thành đề
tài của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học
sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay đổi về
phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng như

chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tơi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện
thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh , cụ thể là:
- Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm
đến công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý
thờ ơ với việc học văn ở các trường phổ thông. Đa số các em học đối phó, thụ
động, máy móc. Khi kiểm tra bài cũ, các em khơng giám giơ tay trả lời vì
chưa học bài cũ. Khi dạy bài mới các em cũng không phát biểu xây dựng bài
vì chưa chuẩn bị bài mới. Nêu bắt buộc các em nên lên suy nghĩ của mình về
một vấn đề nào đó trong tác phẩm văn học thì các em trả lời lung tung. Trong
những bài kiểm tra văn thì các em cũng viết lan man... vì khơng có kiến thức.
Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên dạy văn là nhiều học sinh có năng
khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển văn. Các em cịn phải dành
thời gian học các mơn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho con
mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba mơn: Tốn, Lý, Hóa. Điều
đáng lo ngại hơn nữa, là có khơng ít phụ huynh đã chọn hướng cho con thi
khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh cịn đang được rèn nói,
viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng
khối A thì thật là nguy hại.
- Khả năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ
dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai,
viết chính tả sai, chữ viết quá xấu, quá cẩu thả. Bố cục và lời văn hết sức lủng
củng, thiếu logic hoặc thậm chí khơng có bố cục. Đặc biệt có những bài văn
diễn đạt vụng về, lủng củng, câu văn tối nghĩa, ... Đây là một tình trạng đã trở
nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta.
Mục tiêu của bậc học phổ thơng là đào tạo con người tồn diện, nhưng thực tế
hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ,
mặc dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi
người. Muốn khôi phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học
xã hội, không thể chỉ bằng biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi
mới phương pháp dạy học văn, khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh,

hình thành cho các em phương pháp học văn hiệu quả nhất.
2. Nguyên nhân.
a. Đối với giáo viên: Đa số giáo viên đều có tình u nghề, mến trẻ, tận
tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh, không ngừng
………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
-5-


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

học tập để nang cao kiến thức, trình độ chun mơn nghiệp vụ. Tuy nhiên,
vẫn cịn những mặt hạn chế sau :
- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương
pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài
của học sinh .
- Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi
được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học.
- Một số giáo viên chưa đầu tư vào việc tìm tịi tài liệu, thiết bị học tập
để thiết kế bài học. Giáo án của giáo viên được sử dụng cho mọi đối tượng
học sinh, mọi năm học khơng có sự thay đổi cho phù hợp.
b. Đối với học sinh:
- Một số học sinh vì mải chơi, lười học, chán học, dẫn đến hổng kiến
thức nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn.
- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí
như xem ti vi, đá bóng, chơi game, chơi bida . . . ngày càng nhiều làm cho
một số em chưa có ý thức học bị lơi cuốn, sao nhãng việc học tập.
- xem môn văn là môn học phụ, khơng cần học cũng có thể làm được

bài. Khi thi cứ nghĩ đến đâu viết đến đấy là có điểm để lên lớp.
c. Đối với gia đình và xã hội:
- Địa phương xã Nam Dong thuộc vùng kinh tế cịn khó khăn, hầu hết
phụ huynh đều đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình.
Bản thân các em cịn phải phụ giúp gia đình ngồi giờ lên lớp, khơng có thời
gian học.
- Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A
nên chủ yếu chú trọng ba mơn: Tốn, Lý, Hóa.
- Trong những năm gần đây ngành giáo dục phát động phong trào “ hai
không „ với bốn nội dung. Nhưng thực chất của việc thực hiện phong trào này
thì cần xem xét lại.

I.

ĐẶT VẤN ĐỀ.

1. Cơ sở thực tế.
Mơn Ngữ Văn có vị trí, vai trị rất quan trọng trong đời sống của con người. Bởi
vì bất kì lúc nào, hồn cảnh nào, cơng việc nào, bất kể là ai thuộc tầng lớp xã hội
nào cũng cần và sử dụng đến văn học. “Văn học là nhân học”.
Trong nhà trường phổ thông, những kiến thức, tư tưởng, kỹ năng văn học là
những yếu tố vô cùng quan trọng giúp học sinh hiểu về cuộc sống, về cách làm
người đồng thời nó là tiền đề để học sinh có thể tiếp cận và chiếm lĩnh kiến thức của
………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
-6-


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”

………………………………………………………………………

các môn học khác. Nhưng cho đến nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau cũng như
do nhiều thói quen của các giáo viên dạy Ngữ Văn , chưa tổ chức hoạt động dạy học
đúng đắn, đạt hiệu quả cao nhất. Hoặc thiên về hoạt động của giáo viên trên tác
phẩm mà coi nhẹ lao động của học sinh, coi học sinh là khách thể, thụ động trong
quá trình tiếp cận tác phẩm văn học; hoặc thiên về hoạt động của thầy mà coi nhẹ
hoạt đơng của trị, hoặc thiên về hoạt đông trên lớp mà bỏ rơi hoặc không chú trọng
hướng dẫn cho học sinh tự hoạt động ở ngoài lớp, ngoài trường… Cách nghĩ và tiến
hành một bài văn thường đơn giản, phiến diện. Thực chất quá trình tổ chức học sinh
đến với tác phẩm văn học là một quá trình phức tạp, đa dạng, hỗn hợp nhiều q
trình văn học, ngơn ngữ, tâm lý sư phạm; bao gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn,
nhiều hoạt động của thầy và trò.
Giờ giảng dạy, học tập trên lớp thể hiện đầy đủ, tập trung nhận thức đúng đắn,
toàn diện về cơ chế mới, về nhiệm vụ, mục đính của việc dạy- học văn đồng thời là
sự vận dụng một cách sáng tạo linh hoạt những phương pháp đặc thù của giảng dạy
văn nhằm phát huy sự chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh…
2. Cơ sở lý luận.
Trong tiến trình tổ chức giờ dạy- học văn, giáo viên đứng trước nhiều thử thách
về năng lực văn học (cảm thụ, phân tích, bình giá, khái qt- tổng hợp…) để tiếp
cận đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc những thông điệp mà nhà văn muốn nhắn gửi. Mặt
khác, giáo viên cần phải có bản lĩnh, kỹ năng sư phạm, biết cách tổ chức cho học
sinh tích cực chủ động …tiếp cận, chiếm lĩnh tác phẩm văn học một cách có hiệu
quả nhất. Chính ở khâu này giáo viên mới bộc lộ rõ tài năng văn học của mình, kể
cả những kỹ năng về nghiệp vụ sư phạm, bởi vì “cảm thụ đã khó làm cho học sinh
cảm thụ lại càng khó hơn”. Một giáo viên giỏi khơng phải là người nói hay, giảng
tài mà là người biết cách tổ chức học sinh đến với tác phẩm văn học.
Thông qua kinh nghiệm “Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”, tôi
muốn nêu lên kinh nghiệm tổ chức học sinh giúp các em tiếp cận và chiếm lĩnh tác
phẩm văn chương một cách khoa học nhất. Bài viết này không tránh khỏi những hạn

chế rất mong được các đồng chí đồng nghiệp góp ý, sửa chữa, bổ sung để xây dựng
………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
-7-


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

một con đường đưa học sinh đến với tác phẩm, bài văn cũng như giúp giáo viên
chúng ta định hướng cho mình cách thức tổ chức hoạt động dạy học đúng đắn, đạt
hiệu quả nhất…
II.NỘI DUNG. kinh nghiệm “Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”.
1.Nắm vững và vận dụng, tổ chức giờ học theo cơ chế mới: đó là mối tương
tác ba chiều: Nhà văn (N), Giáo viên (G) và học sinh (H).
Tổ chức người học (học sinh) tiếp cận tác phẩm văn học không phải chỉ xuất
hiện trong thời hiện đại ngày nay mà nó có nguồn gốc, truyền thống từ xa xưa.
Trong suốt quá trình dạy học văn, từ thuở khai thiên đến giờ, ta thấy có những
cơ chế sau:

N

G

N

G

N


G
H

H
H

Cơ chế 1: giáo viên tiếp xúc với văn bản. Mối liên hệ giữa giáo viên và nhà văn
được xác lập. Nhưng trong cơ chế này,nhà văn và học sinh chưa có mối liên hệ. Còn
mối liên hệ giữa giáo viên và học sinh chỉ là mối liên hệ một chiều. Giáo viên tiếp
cận trực tiếp với tác phẩm và truyền đạt cho học sinh. Học sinh chỉ là cái máy, con
vẹt nghe và ghi chép thuộc lịng. Giáo viên khơng cần để ý đến phản ứng của học
sinh.
Cơ chế 2: giáo viên tiếp xúc với tác phẩm đồng thời cũng đã biết quan tâm đến
học sinh. Giáo viên và học sinh đã xác lập được mối quan hệ qua lại. Nhưng điều
nghiêm trọng trong cơ chế này là học sinh vẫn chưa được tiếp xúc trực tiếp với tác
phẩm. Vì vậy hoạt động văn học chưa hiệu quả và chưa thực sự diễn ra.
………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
-8-


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

Cơ chế 3: đây là cơ chế tối ưu nhất, có sự tương tác qua lại giữa giáo viên- học
sinh- tác phẩm.
Sơ đồ tương tác ba chiều:


G

N

H

Trong cơ chế này, học sinh có mối liên hệ với giáo viên, với tác phẩm. Học sinh
được thừa nhận, tôn trọng là chủ thể của hoạt động tiếp nhận. Học sịnh có thể trực
tiếp đọc tác phẩm, tìm tịi, phân tích, bình giá tác phẩm.
2. Xác định mục đích, nội dung và phương pháp.
Giáo viên phải xác định được mục đích của việc dạy học tác phẩm là gì? Nội
dung và phương pháp dạy tác phẩm đó như thế nào? Muốn vậy giáo viên phải nắm
vững những yếu tố sau:
- Bản thân bài văn (tác phẩm), đối tượng học sinh.
- Mục đích, vị trí của bài văn với cả q trình.
- Nhiệm vụ chính trị, xã hội và nhà trường đặt ra…
2.1. Bài văn (Tác phẩm văn học) sẽ được giảng dạy là công cụ, phương tiện giáo
dục, là cơ sở cho tiến trình sư phạm theo một mục đích xác định. Dạy cái gì? Là câu
hỏi đầu tiên mà giáo viên phải xác định và trả lời thật rõ ràng, cụ thể trước khi đi
vào dạy học. Giáo viên phải nắm vững mục đính, nội dung của bài học. Nếu không
nắm vững nội dung, không hiểu những lời mà nhà văn muốn nói thì tiết học sẽ trở
nên nhạt nhẽo, vô vị. Hiểu đúng, hiểu hết, hiểu sâu sắc cái hay, cái đẹp, cái độc đáo
về nội dung và nghệ thuật của bài văn là tiền đề quyết định chất lượng giờ dạy học.
Câu hỏi tiếp theo là dạy ai? Điều này không phải giáo viên nào cũng xác định được
đúng đối tượng mình sẽ dạy. Nhiều giáo viên theo thói quen nghề nghiệp hoặc chưa
tiếp cận kịp thời với cơ chế dạy học mới, nên xem nhẹ học sinh. Chưa đặt ra nhiệm
………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
-9-



Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

vụ, trách nhiệm nghiên cứu, năm chắc học sinh trước khi xác định nội dung và
phương pháp cho tiết học. Vẫn còn phổ biến hiện tượng giáo viên dùng một bài
giảng, giáo án cho nhiều đối tượng học sinh, nhiều lớp, nhiều năm học khác nhau.
Nếu không nghiên cứu để hiểu rõ học sinh thì tiết dạy đó chỉ là “ Dạy không địa
chỉ”.
Nắm đối tượng trong giảng dạy văn chương không chỉ dừng lại ở mức độ hiểu
biết chung chung về tâm lý lứa tuổi mà còn phải nắm trình độ, phản ứng cụ thể của
học sinh trước mỗi tác phẩm văn học mà giáo viên sắp tổ chức. Những gì sẽ diễn ra
trong tâm trí các em khi tiếp xúc với bài văn đó địi hỏi giáo viên phải nắm được đó
là nguyên tắc.
2.2. Mỗi bài văn không thể là hiện tượng biệt lập mà luôn ln gắn bó với cả
khóa trình. Bài văn khơng chỉ đặt trong mồi liên hệ với tác giả, khuynh hướng, giai
đoạn, trào lưu mà cần phải được xem xét trong mối quan hệ với các phân môn: Tập
làm văn, Tiếng Việt…vào tiến trình phát triển của văn học Việt Nam cũng như thế
giới. Khi bắt tay vào dạy tác phẩm, nếu không thấy rõ mối liên hệ trước sau của tác
phẩm theo chiều dọc của sách giáo khoa, cũng như của cả nền văn học thì tiết dạy
khơng đạt hiệu quả, không đạt được mục tiêu bài học đặt ra…
2.3. Một tác phẩm phải được đặt trong mối liên hệ giữa nhiều yếu tố: học sinhnhà văn- giáo viên- cơ cấu chương trình và những mơn vắn hóa khác. Mối liên hệ
giữa tác phẩm văn học với cuộc sống thời đại và những nhiệm vụ của nhà trường là
một liên hệ nền tảng. bài văn phải được đưa vào mạch sống chung của thời đại. Giáo
viên phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều phương pháp để nghiên cứu và tổ chức
cho học sinh tiếp cận, chiếm lĩnh tác phẩm. Cần phải nắm vững chủ trương, đường
lối của Đảng và chính sách Pháp luật của Nhà nước trong từng thời kì, giai đoạn,
hồn cảnh cụ thể để liên hệ với bài giảng dạy…
Tóm lại, trước khi bắt tay vào giảng dạy, giáo viên cần phải suy nghĩ nghiêm

túc về bài văn, về học sinh, về vị trí của bài văn trong khóa trình, về những nhiệm
vụ cụ thể mà Nhà trường và xã hội đặt ra. Cần phải có sự liên hệ đa chiều thì bài văn

………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
- 10 -


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

mới được tổ chức giảng dạy đúng đắn hiệu quả. Đó cũng là mục đích, nội dung,
phương pháp giảng dạy một bài văn.
3. Bước học sinh chuẩn bị ở nhà.
Đã từng có ý kiến phản đối việc học sinh chuẩn bị, nghiên cứu trước bài học vì
người ta cho rằng:
Thứ nhất: việc chuẩn bị ở nhà của học sinh làm cản trở sự tiếp thu trên lớp, cản
trở khả năng sáng tạo, nhanh nhạy tiếp thu cái mới.
Thứ hai: học sinh tự mình học sẽ có những ấn tượng sai lạc ban đầu.
Thứ ba: Day- học văn không cần cho học sinh chuẩn bị ở nhà như các mơn khoa
học khác.
Vì vậy, khâu chuẩn bị bài ở nhà của học sinh đã bị nhiều giáo viên xem nhẹ,
thậm chí bỏ qua, hoặc có hướng dẫn nhưng hồn tồn khơng liên quan đến những
hoạt động của thầy và trị trên lớp.
Như chúng ta đã biết: tiếp cân, chiếm lĩnh đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc một tác
phẩm văn chương khơng phải dễ, cũng khơng thể nhanh chóng, thuận lợi…mà nó là
một q trình từ thấp đến cao, từ ngồi vào trong, từ nơng đến sâu, từ cảm tính đến
khái quát tổng hợp (lí tính) trên cơ sở nhiều khâu, nhiều hoạt động, nhiều thao tác,
năng lực tâm lí của bản thân… Vì vậy khơng cho học sinh chuẩn bị trước thì giờ học

khơng đạt hiệu quả như mong muốn. Chuẩn bị ở nhà là bước tập dượt cho sự tiếp
thu trên lớp, giúp cho học sinh có cái nhìn sơ lược về tác phẩm. Trên cơ sở những
cảm nhận ban đầu, giáo viên khơi sâu, gợi mở cho học sinh phát huy những ấn
tượng đúng đắn của mình. Nếu học sinh có cảm thụ sai lạc thì các em cũng biết tìm
ra nguyên nhân, điiều chỉnh, sửa chữa những sai sót đó. Mặt khác, cuối mỗi bài văn
đều có hệ thống câu hỏi hướng dẫn đọc- hiểu văn bản, các em có thể dựa vào những
định hướng ấy để đi sâu, tìm tịi, phát hiện chiếm lĩnh bài văn. Khâu chuẩn bị ở nhà
của các em vẫn đặt trong quỹ đạo, nội dung, mục đích và phương pháp của bài học.
Hơn nữa các em cịn có thể tự mình rèn luyện nhiều kỹ năng: đọc, tìm hiểu, giải
nghĩa từ cổ, từ khó, điển tích, điển cố… hoặc bình luận, đánh giá về các chi tiết,
hình tượng tác phẩm…mà phát huy sự chủ động sáng tạo của mình. Điều này cũng
………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
- 11 -


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

làm cho các em hứng thú chủ động hơn trong giờ học và cũng hình thành nên
phương pháp tự học của học sinh.
Cũng căn cứ vào hệ thống câu hỏi cuối bài mà giáo viên xây dựng cho mình một
hệ thống câu hỏi gợi mở, khêu gợi đúng vào hứng thú, gõ đúng vào “óc thơng minh”
của học sinh.
4. Cấu tạo một giờ dạy hoc trên lớp.
4.1. Ổn định tổ chức lớp.
Giúp giáo viên năm tư thế, tác phong của học sinh.
4.2. Kiểm tra bài cũ: giúp học sinh ôn lại kiến thức cũ và liên hệ với bài mới để
thấy sự lơgíc của bài học.

4.3. Dạy bài mới
Trong cơ chế dạy học truyền thồng một giờ day học văn trên lớp có mơ hình là:
thầy đồ + con roi + cái tráp + chiếc chiếu (hoặc phản); học sinh nằm bò ra viết hoặc
đọc ê, a theo nhịp roi của thầy, từ đó bắt đầu những bài khai tâm “Thiên là trời, địa
là đât, tử mất,tồn còn…” cho đến mảnh bằng khoa cử. Học sinh chỉ là cái máy ghi
chép, nghe và thuộc lòng. Thầy giáo là tối cao, thầy nói gì trị nghe nấy, khơng được
hỏi, khơng được phép bộc lộ suy nghĩ của mình. Mối quan hệ thầy trị là mối quan
hệ độc tơn thầy (một chiều).
Trong cơ chế dạy học hiện đại phải đảm bảo u cầu có tính ngun tắc: đó là
hoạt động song phương của thầy và trò, “thầy chủ đạo, trò chủ động”, “thầy thiết kếtrị thi cơng…” là hoạt động đặt trong mối liên hệ giữa ba yếu tố cơ bản: học sinhgiáo viên- nhà văn (tác phẩm).
4.3.1. Lời vào bài.
Cho đến nay lời vào bài của giáo viên chưa được quy định. Có người chuyển tiếp
từ bài cũ sang bài mới. Có người theo cách tác giả tác phẩm… có người kiểm tra bài
cũ, có người tạo tình huống có vấn đề để dẫn dắt học sinh vào bài học. Có giáo viên
chuẩn bị cơng phu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lịng học sinh nhưng có người
chỉ đem đến cho học sinh sự thờ ơ, lãnh đạm với bài văn. Lời vào bài khơng cần là
tình huống “giật gân” lạnh lùng để cho học sinh xa lánh tác phẩm, vô hồn vô cảm
………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
- 12 -


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

mà nó phải thiết lập trật tự cho giờ học, khơi gợi tâm thế cho học sinh cảm thụ bài
văn. Nếu chỉ là rung cảm bước đầu mà khơng xác lập trật tự, nội dung bài học thì
khơng đạt mà nó phải có sức khơi gợi và sự tị mị, ham hiểu biết của học sinh, từ đó
các em có hứng thú tìm hiểu trọn vẹn tác phẩm.

4.3.2. Tổ chức cho học sinh nghiên cứu tác phẩm.
Khi tổ chức cho học sinh nghiên cứu tác phẩm, giáo viên cần tránh lối trình diễn,
đọc thoại. Giáo viên nắm vững nội dung bài học là điều bắt buộc. nhưng không nên
đóng vai là người hùng biện, diễn thuyết. mà phải đặt trong sự liên hệ đa chiều giữa
nhiều yếu tố, phải biết tổ chức cho học sinh chủ động tích cực chiếm lĩnh tác phẩm
theo tài năng văn học và nghiệm vụ sư phạm của minh. Do đó giáo án không phải là
đề cương sơ sài hay chi tiết hoạt động của thầy mà phải là hoạt động song phương
của thầy và trò với tinh thần “thầy chủ đạo, trò chủ động”gõ vào sự tị mị, ham hiểu
biết và trí thơng minh, óc sáng tạo, năng nỗ của học sinh. Giáo viên vừa là người am
hiểu tác phẩm vừa là người nắm chắc học sinh, vừa là nhà phân tích sâu sắc, tinh tế,
vừa là nhà kĩ sư thiết kế tỉ mỉ tiến trình giờ học hướng vào mục tiêu, nội dung,
phương pháp định sẵn.
Sau đây là một vài hình thức tiến hành nghiên cứu tác phẩm.
a. Kể lại bài văn (Áp dụng đối với văn xuôi).
Giúp học sinh nắm được kết cấu, nội dung,hệ thống nhân vật, chi tiết, sự kiện
chính của tác phẩm. Chú ý giọng điệu khi kể, phải làm nổi bật tiếng nói của nhà
văn, tránh lấn át, xuyên tạc nhà văn.
b. Miêu tả bằng lời nói (Áp dụng cả văn và thơ).
Trong tác phẩm khơng phải chổ nào tác giả cũng miêu tả hay kể một cách chi tiết
mọi diễn biến của sự việc hay tâm trạng…. Có thể đó là những lời dẫn truyện sơ
qua, điểm dừng mà nhà văn muốn cho người đọc tự tìm hiểu. Do đó cần phải hiểu
và miêu tả được những chổ mà nhà văn muốn dành cho độc giả.
Trong tác phẩm Tắt Đèn của Ngơ Tất Tố có chi tiết: Chị Dậu sau khi phải đứt
ruột bán đứa con gái đầu lòng để cứu lấy chồng, thằng Dần khóc nằng nặc địi chị về
với nó. Tác giả chỉ nêu sự việc như vậy, nhưng đằng sau lời kể đơn sơ đó có biết
………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
- 13 -



Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

bao sự dằn vặt, suy tư của người đàn bà đau khổ đã phải cầm lòng bán đứa con đầu
lịng của mình. Đứa bé khóc địi chị nó chính là những nhát dao đâm vào lịng người
mẹ, vừa thương đứa con phải sống xa lìa mẹ cha, em út, vừa thương đứa em bơ vơ
khơng cịn chị, vừa thương cho thân phận chồng, và phận mình…
c. Kể lại có sáng tạo (Áp dụng thơ văn).
Kể sáng tạo khơng phải là xuyên tạc tác phẩm, thay đổi nội dung văn bản mà là
mở rộng trí tưởng tượng của học sinh, tôn trọng nguyên tác, nhưng cần tô điểm để
nhấn mạnh, để làm nổi bật chi tiết, sự kiện, nhân vật chính. Học sinh có thể nhập vai
để đồng thể nghiệm…
d. Đọc diễn cảm.
Có hiểu sâu sắc nội dung tác phẩm học sinh mới đọc diễn cảm được. Đọc để nắm
bắt giọng điệu của tác giả, âm điệu của tác phẩm. Đọc để xâm nhập vào thế giới
nghệ thuật, để tiếng nói nhà văn và học sinh hịa làm một
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mõi chân thì hãy ở tù
Hai câu đầu trong bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”, của Phan Bội
Châu cần đọc với giọng vui vẻ, tự hào pha chút trào lộng để thấy rõ khí phách, hào
khí, phong thái của nhà lãnh tụ yêu nước khi bị bắt giam vào nhà ngục mà vẫn lẫm
liệt, đàng hoàng, vươn lên làm chủ hoàn cảnh…
Đã khác khơng nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu
Giọng điệu thống thiết, trầm lắng diễn tả nỗi đau cố nén trong lòng của bậc anh
hùng khi sự nghiêp không thành…
e. Khắc họa điểm sáng thẩm mĩ.
Những “nhãn tự” “danh cú” hay những nhân vật điển hình, khái quat, tiêu biểu…
phải phân tích, bình giá được. Điều này là then chốt, là coots lõi khi phân tích tác

phẩm văn học.
g. Định hướng vào những vấn đề cốt lõi của tác phẩm.

………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
- 14 -


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

Điều quan trọng là học sinh phải rút ra được nội dung chính của tác phẩm. từ đó
mà liên hệ với bản thân mình, sống tốt hơn và đẹp hơn. Văn học có sức thanh lọc
tâm hồn của con người là ở điều này.
h. Đối chiếu tác phẩm dạy với những tác phẩm cùng thời
Đây chính là cơng đoạn rất quan trọng giúp các em có thể liên hệ và hiểu sâu sắc
hơn. Ngồi ra cịn có thể cho học sinh liên hệ với các loại hình hình nghệ thuật khác:
phim, tranh ảnh…
Dạy “Chuyện người con gái Nam Xương” có thể cho học sinh liên hệ với Thúy
Kiều, Hồ Xuân Hương…
Dạy “Lão hạc” cỏ thể cho học sinh liên liên hệ với Chị Dậu, Chí Phèo…
4.4 Tổng kết, củng cố
Bước này nhiều giáo viên thường bỏ qua hoặc tiến hành vội vàng, do đó bài học
khơng được học sinh khắc sâu. Đây không phải là bước lặp lại nộ dung bài học mà
giáo viên phải khái quát toàn bộ nội dung chính, cơ bản nhất, khái quát nhất nhất để
các em nắm vững đồng thời phải nâng nội dung phân tích, mở rộng, khắc sâu kiến
thức cho học sinh. Thơng qua khâu này q trình văn học mới trọn vẹn.
4.5 Dặn dò.
4.5.1 Củng cố kiến thức, phát triển kết quả học tập. Hướng dẫn làm bài ở

nhà.
Đây cũng là khâu vơ cùng quan trọng bởi vì muốn các em học sinh nắm vững
trọng tâm bài học thì sau mỗi bài chúng ta cần dành thời gian để nhắc lại nội dung
chính và có thể liên hệ, mở rộng kiến thức cho học sinh. Cách cũng cố chúng ta nên
dùng hệ thống bảng phụ để nêu ra các bài tập trắc nghiệm hoặc theo hình thức ơ chữ
từ đó học sinh vùă thích thú vừa ơn tập, hệ thống và củng cố kiến thức.
4.5.2 Hướng dẫn chuẩn bị bài mới.
Để các em chuẩn bị bài mới giáo viên lưu ý phải dăn dò, hướng dẫn các em cụ
thể. Từ đó các em chuẩn bị bài mới để lên lớp tiếp thu tốt hơn.
5. Kết quả đạt được.
Năm học 2009-2010
………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
- 15 -


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

Mức

Giỏi
Sl

9A ( 33) 2
9B (34) 2

Tỉ lệ
%

6
6

Khá
Sl

Trung bình
Sl
Tỉ lệ

Tỉ lệ

12
12

%
36
35

17
18

Khá
Sl

Tỉ lệ

Trung bình
Sl
Tỉ lệ


13
14

%
41
41

%
52
53

Yếu
Sl

Tỉ lệ

2
2

%
6
6

Yếu
Sl

Tỉ lệ

1

1

%
3
3

Năm học 2010-2011
Mức
Lớp

Giỏi
Sl

9A ( 33) 2
9B (34) 2

Tỉ lệ
%
6
6

17
17

%
52
50

III. KẾT LUẬN.
Tồn bộ phần trình bày trên là kinh nghiệm tổ chức cho học sinh đến với tác

phẩm văn học của bản thân tôi. Nhưng quá trình vận dụng vào thực tế giảng dạy
phải hết sức linh hoạt, phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả chủ quan và khách quan nhằm
mục đích là đem lại hiệu quả cao nhất cho học sịnh. Trong bài viết này chắc chắn có
nhiều hạn chể. Rất mong được sự góp ý, sửa chữa của các đồng nghiệp để hồn
thành kinh nghiệm này, đồng thời giúp tôi vững vàng tự tin hơn trong cơng việc
giảng dạy của mình đáp lại lòng tin của Đảng, Nhà Nước, của nhân dân … giao phó.
Nam Dong, ngày 1 tháng 10 năm
2011
Người viết


Ngọc Thiện

………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
- 16 -


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

MỤC LỤC
Mục Nội dung
I.
ĐẶT VẤN ĐỀ

Trang
2


II

2

1
2
3

NỘI DUNG

NẮM VỮNG, VẬN DỤNG, TỔ CHỨC DẠY- HỌC 2
THEO CƠ CHẾ MỚI
XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG 3

4

PHÁP

5

5

BƯỚC HỌC SINH CHUẨN BỊ BÀI Ở NHÀ

5

III

CẤU TẠO MỘT GIỜ DẠY- HỌC TRÊN LỚP


8

KẾT LUẬN

………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
- 17 -


Kinh nghiệm “ Con đường học sinh đến với tác phẩm văn học”
………………………………………………………………………

Tài liệu tham khảo.
1. Phương pháp dạy học văn.
2. Lý luận văn học.
3. Sách giáo khoa ngữ văn.
4. Ngơn ngữ học.

………………………………………………………………………………………………
Giáo viên- Vũ Ngọc Thiện
Trường THCS Nguyễn Chí Thanh
- 18 -



×