Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU, THỰC TR&.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.64 KB, 50 trang )

Mục Lục
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI
PHIẾU
I. Tổng quan về trái phiếu
1. Khái niệm
2. Đặc trưng:
2.1. Mệnh giá
2.2.Tỷ suất sinh lời của trái phiếu:
2.3. Giá mua:
2.4. Thời hạn:
2.5. Quyền mua lại:
3. Phân loại trái phiếu
3.1. Căn cứ theo tính chất chuyển nhượng:
3.2. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu:
3.3. Theo thời gian đáo hạn:
3.4. Căn cứ theo phương thức trả lãi
3.5. Căn cứ theo phạm vi lưu thông
4. Điều kiện phát hành
II. Thị trường trái phiếu
1. Khái niệm
2. Phân loại thị trường trái phiếu
2.1. Thị trường sơ cấp
2.2. Thị trường thứ cấp
2.3. Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT
NAM
I. Các chủ thể phát hành.
II. Phân tích thực trạng thị trường trái phiếu VN hiện nay
1. Trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc Nhà nước
2. Trái Phiếu chính quyền địa phương
3. Trái Phiếu Doanh Nghiệp


3.1. Ưu nhược điểm của trái phiếu doanh nghiệp
3.2. Điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay
3.3. Thực trạng phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay
4. Các Phương Pháp Phát Hành Trái Phiếu Việt Nam Hiện Nay
5. Phát Hành Trái Phiếu Quốc Tế
Chương 3: Một Số Giải Pháp Kiến Nghị
I. Giải pháp cho thị trường Trái phiếu Chính phủ Việt Nam
II. Giải pháp cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam.
III. Giải pháp cho việc phát hành trái phiếu quốc tế.
M ở đầu
Năm 2011, tình hình kinh tế thế giới đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức rất lớn,
tác động tiêu cực đến nước ta. Ở trong nước, kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Lạm phát
vẫn còn ở mức cao, sản xuất kinh doanh còn không ít ách tắc, hàng tồn kho lớn. Đời
sống nhân dân, nhất là người nghèo, ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn.
Trong hoàn cảnh này việc huy động vốn dài hạn để thực hiện những chính sách nhằm ổn
định nền kinh tế của chính phủ, cũng như nhằm duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Làm sao để đảm bảo được lượng vốn huy động?
Đây quả thật là một câu hỏi khó cho các nhà quản trị doanh nghiệp cũng như chính phủ
trong tình hình khó khăn hiện nay. Vấn đề nan giải này chính là lý do khiến chúng em
chọn đề tài “Những giải pháp để hoàn thiện và phát triển thị trường trái phiếu tại Việt
Nam” bởi lẽ trái phiếu là một công cụ vay nợ số lượng lớn và dài hạn hữu hiệu đối với
doanh nghiệp và chính phủ.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
I. Tổng quan về trái phiếu
1. Khái niệm
Trái phiếu (TP) là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích
hợp pháp của người sở hữu (Trái chủ) đốivới một phần vốn nợ của tổ chức phát hành,
gồm Chính phủ, Chính quyền địa phương và doanh nghiệp.
2. Đặc trưng:
Một trái phiếu thường có những đặc trưng sau:

2.1. Mệnh giá:
Là giá trị danh nghĩa của trái phiếu được in ngay trên tờ phiếu, đại diện cho
số vốn gốc được hoàn trả cho trái chủ tại thời điểm đáo hạn.
Ở VN, mệnh giá của trái phiếu được ấn định là 100.000 VNĐ và các mệnh
giá khác là bội số của 100.000 VNĐ. Mệnh giá của trái phiếu được xác định phụ
thuộc vào số tiền huy động trong kỳ và số trái phiếu phát hành.
Công thức tính:
MG = VHĐ/SPH Với:
MG: mệnh giá trái phiếu
VHĐ: số vốn huy động
SPH: số trái phiếu phát hành
2.2.Tỷ suất sinh lời của trái phiếu:
Là lãi suất danh nghĩa của trái phiếu quy định mức lãi mà nhà đầu tư hưởng hàng
năm. Thông thường có 2 phương thức trả lãi: 6 tháng/lần và 1 năm/ lần.
Mỗi trái phiếu có ghi lãi suất của tổ chức phát hành cam kết sẽ thanh toán cho
chủ sở hữu trái phiếu một số tiền lãi vào một ngày xác định và có thể theo định kỳ.
Lãi suất danh nghĩa được xác định bởi các điều kiện thị trường tại thời điểm chào
bán trái phiếu.
Số tiền lãi nhà đầu tư nhận được hàng năm = lãi suất coupon x MG
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất trái phiếu:
+ Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào
chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân
sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
+ Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của
lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
+ Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau,
nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
2.3. Giá mua:
Giá mua trái phiếu là khoản tiền thực tế mà nhà đầu tư bỏ ra để có được quyền sở
hữu trái phiếu. Giá mua có thể bằng, cao, hoặc thấp hơn mệnh giá. Tuy nhiên dù giá

mua thế nào thì tiền lãi luôn được xác định theo mệnh giá. Và đến ngày đáo hạn, trái
chủ sẽ được trả lại vốn gốc bằng với mệnh giá trái phiếu.
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trái phiếu:
+ Kỳ hạn của trái phiếu: kỳ hạn càng dài, tính biến động của trái phiếu càng lớn
trước sự biến động của lãi suất thị trường.
+ Lãi suất tín dụng dài hạn: khi lãi suất này hạ thấp thì nhiều nhà đầu tư mua TP
làm cho cầu TP tăng và giá TP tăng và ngược lại
+ Tình hình lạm phát: khi nhà đầu tư mua TP các công ty phát hành cam kết sẽ
trả một lãi suất cố định trong suốt kỳ hạn của TP. Do đó khi lạm phát xảy ra, giá TP sẽ
giảm.
+ Tình hình kinh doanh và uy tín của doanh nghiệp phát hành
+ Rủi ro về tỷ giá
+ Rủi ro thanh lý: rủi ro về tính thị trường phụ thuộc vào khả năng bán dễ dàng
một TP mới.
+ Rủi ro do biến cố bất ngờ
+ Rủi ro TD: nguy cơ công ty phát hành không có khả năng chi trả đúng hạn, tức
là không có khả năng chi trả mệnh giá và lãi đúng hạn
2.4. Thời hạn:
Thời hạn của trái phiếu là số năm theo đó người phát hành hứa hẹn đáp ứng
những điều kiện của nghĩa vụ.
Kỳ hạn trái phiếu có ý nghĩa quan trọng vì lợi tức trái phiếu phụ thuộc vào thời
hạn của nó.
2.5. Quyền mua lại:
Đối với loại trái phiếu có điều khoản chuộc lại cho phép tổ chức phát hành trái
phiếu thu hồi trái phiếu và hoàn lại vốn gốc với mức giá dự kiến trước thời hạn thanh
toán. Tổ chức phát hành sử dụng quyền này để bảo vệ họ không phải trả lãi suất cao hơn
đối với số tiền mà họ vay. Tổ chức phát hành thu hồi trái phiếu khi tỷ lệ lãi suất
trên thị trường thấp hơn lãi suất của trái phiếu của tổ chức phát hành đã phát hành trước
đó và có thể phát hành trái phiếu mới với tỷ lệ lãi suất thấp hơn.
3. Phân loại trái phiếu

3.1. Căn cứ theo tính chất chuyển nhượng:
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng
như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, và khi
đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi
trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản
cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên
chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho
phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà
đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng
vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu
trên máy tính.
3.2. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu:
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục
đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ
điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và
cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu
chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ
khác có cùng kỳ hạn.
Trái phiếu chính phủ gồm những loại sau: TP công trình, TP kho bạc dài hạn, TP
đảm bảo bằng tài sản thế chấp, TP nghĩa vụ chung, TP thuế hạn chế, TP quốc tế.
+ Chủ thể phát hành trái phiếu chính phủ: Theo khoản 1 điều 3 Nghị định số
1/2011/NĐ-CP , chủ thể phát hành trái phiếu chính phủ là Bộ Tài chính
+ Mục đích phát hành trái phiếu chính phủ: Theo khoản 1 điều 4 Nghị định số
1/2011/NĐ-CP
 Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương
theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước
 Bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước từ vay trái phiếu ngắn hạn
 Cơ cấu lại khoản nợ , danh mục nợ Chính Phủ
 Cho doanh nghiệp , tổ chức tài chính , tín dụng , chính quyền địa phương vay lại

theo quy định của pháp luật
 Các mục đích khác nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia
- Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho
những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng hay công
trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc chính
quyền địa phương phát hành.
- Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài
hạn.Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau:
Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự
vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định
kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi
công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Có
những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản vay.
Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:
+ Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp
cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ
ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một
tài sản cụ thể.
+ Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài sản
mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những trái chủ của
trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm, nhưng trước cổ
động. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển
trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy định, việc chuyển
đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ
thể xác định.
Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn
kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên nào
đó. Cụ thể là:
+ Trái phiếu có thể mua lại cho phép người phát hành mua lại chứng khoán trước
khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại bất lợi

cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với những trái
phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại
trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong trường
hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp hơn so với
những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi trái
phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành người
chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng hoá chứng khoán có
thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đây.
3.3. Theo thời gian đáo hạn:
+ Tp ngắn hạn: thời hạn 1 đến 5 năm:
+ TP trung hạn: thời hạn 5 đến 15 năm
+ TP dài hạn: trên 15 năm.
+ TP vô hạn: không ghi ngày đáo hạn
3.4. Căn cứ theo phương thức trả lãi
+ Tp lợi tức
+ Tp chiết khấu
3.5. Căn cứ theo phạm vi lưu thông
+ Tp quốc nội
+ Tp quốc tế
4. Điều kiện phát hành
Đối với chủ thể phát hành là doanh nghiệp phải hội đủ những điều kiện sau:
- Là công ty cổ phần, công ty TNHH, DNNN có mức vốn điều lệ đã góp tại thời
điểm đăng ký phát hành là 10 tỷ đồng VN.
- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có lãi,
đồng thơi không có lỗ luỹ kết đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải
trả quá hạn trên 1 năm.
- Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả vốn thu được từ đợt phát
hành trái phiếu.

- Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều
kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các
điều kiện khác.
II. Thị trường trái phiếu
1. Khái niệm
Thị trường trái phiếu là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế
chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng của
thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Thị trường trái phiếu là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho đầu tư
và phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và nền
kinh tế nói chung.
2. Phân loại thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
2.1. Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các trái phiếu mới phát hành. Trên thị
trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà
đầu mua các trái phiếu mới phát hành
Vài trò của thị trường sơ cấp
- Trái phiếu hóa các nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy động qua
việc phát hành chứng khoán
- Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhà rỗi tạm
thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền san dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp
- Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các trái phiếu đem lại vốn cho người phát
hành. Là trhị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời cũng tạo ra hàng hóa
cho thị trường giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị trường sơ cấp làm tăng
vốn đầu tư.
- Những người bán trái phiếu trên thị trường sơ cấp được xác định thường là Kho
bạc, Ngân hàng Nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành,...
- Thị trường sơ cấp chỉ được tổ chức một lần cho một loại chứng khoán nhất định,

trong thời gian hạn định.
2.2. Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các trái phiếu đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp. Là thị trường chuyển nhượng quyền nhượng quyền sở hữu trái phiếu. Thị
trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các trái phiếu đã phát hành.
Đặc điểm thị trường thứ cấp
- Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán trái phiếu thuộc về
các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh trái phiếu chứ không thuộc về nhà phát hành. Nói
cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành trái phiếu mà vận
chuyển giữa những người đầu tư trái phiếu trên thị trường. Thị trường thứ cấp là một bộ
phận quan trọng của thị trường trái phiếu, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp.
- Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá trái
phiếu trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
- Thị trường thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể
mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
2.3. Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường
thứ cấp vì đó là nơi cung cấp hàng hóa trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Không có thị
trườngsơ cấp thì không thể có sự xuất hiện của thị trường thứ cấp. Thị trường thứ cấp là
một lọai thị trường đặc biệt, nó không thể ra đời chừng nào vẫn chưa có một thị trường
sơ cấp rộng rãi, vững chắc với nhiều loại trái phiếu đa dạng, phong phú, hấp dẫn nhiều
nhà đầu và công chúng đến bỏ vốn ra để đầu tư trái phiếu.
Ngược lại, thị trường thứ cấp đến lượt nó là động lực, là điều kiện cho sự phát
triển của thị trường sơ cấp, vì một khi trái phiếu đã được phát hành ra trên thị trường,
nếu không có một thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra tính thanh
khoản cho trái phiếu thì thật khó có thể thuyết phục nhà đầu tư bỏ tiền ra mua trái phiếu.
Chính việc mua bán giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp làm cho lưu động
hóa vốn đầu tư, các nhà đầu tư có thể chuyển từ trái phiếu thành tiền mặt.
Vốn khả dụng thanh khoản cao của trái phiếu mà tính chất năng động của thị
trường thứ cấp đã hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ tiền ra mua trái phiếu. Điều này chính là

điều kiện cơ bản để các nhà phát hành trái phiếu có thể bán được trái phiếu trên thị
trường sơ cấp và huy động được nguồn vốn lớn theo nhu cầu.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
VIỆT NAM
I. Các chủ thể phát hành.
- Chính phủ: Chính phủ phát hành trái phiếu nhằm thu hút vốn cho đầu tư phát
triển, xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình trọng điểm quốc gia, phục vụ phát triển
kinh tế.
- Chính quyền địa phương: Chủ yếu cho các địa phương huy động vốn phục vụ
cho việc xây dựng các công trình cơ sở vật chất hạ tầng tại địa phương của mình, chủ
yếu phát hành thông qua công chúng của chính địa phương đó thông qua KBNN.
- Ngân hàng thương mại: Các ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu nhằm
huy động vốn trung dài hạn, đáp ứng nhu cầu kinh doanh, cho vay tín dụng của ngân
hàng.
- Doanh nghiệp: Các doanh nghiệp tham gia thị trường vói tư cách là nhà phát
hành trái phiếu trên thị trường sơ cấp, doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhằm huy động
vốn, đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh.
II. Phân tích thực trạng thị trường trái phiếu VN hiện nay
1. Trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc Nhà nước
Tháng 8/2000: TPCP lần đầu tiên được đưa vào giao dịch trên Trung tâm giao
dịch CK Tp. HCM (HOSE)
Tháng 11/2003: Chính phủ ban hành Nghị định 141/2003/NĐ-CP về việc phát
hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa
phương bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ trong phạm vi cả nước.
TPCP do Chính phủ phát hành bao gồm: Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái
phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ và công trái xây dựng
Tổ quốc.
Tháng 8/2005: TPCP được đưa vào giao dịch trên Trung tâm GDCK Hà Nội.
Tuy nhiên đến thời điểm này rất nhiều phiên đấu thầu thất bại do nhiều nguyên nhân
khác nhau mà lãi suất là một trong những nguyên nhân lớn.

Tháng 6/2006: Quyết định số 2276/QĐ-BTC về tập trung đấu thầu TPCP tại
Trung tâm GDCK Hà Nội. và Quyết định 46/2006/QĐ-BTC ban hành Quy chế về việc
phát hành trái phiếu Chính phủ theo lô lớn.
Quyết định này quy định sẽ chỉ tập trung hoạt động đấu thầu trái phiếu Chính phủ, bao
gồm trái phiếu kho bạc và trái phiếu đầu tư tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà
Nội kể từ ngày 01/07/2006.
Chỉ sau 3 tháng kể từ ngày Quyết định này ra đời, Trung tâm GDCK Hà Nội đạt
được những thành công bước đầu khi tổ chức thành công 4 phiên đấu thầu Trái phiếu
Chính phủ theo kế hoạch huy động vốn của Kho bạc Nhà nước, huy động được 1.200 tỷ
đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm, đạt 80% khối lượng gọi thầu; đã có 38 loại trái phiếu
đăng ký giao dịch với tổng giá trị đạt 7.027 tỷ đồng. 6 tháng đầu năm 2007 thông qua
gần 30 phiên đấu thầu TPCP tại HASTC, đã huy động được 12.695 tỷ đồng cho ngân
sách nhà nước. Hơn nữa, lãi suất đấu thầu trái phiếu giảm dần (lần đầu tiên lãi suất
TPCP đã giảm xuống mức thấp hơn lãi suất ngân hàng, cụ thể lãi suất cơ bản vào ngày
1/6/2007 là 8,25% theo Quyết định 1143/QĐ-NHNN ngày 29/5/2007, trong khi đó lãi
suất trúng thầu TPCP kỳ hạn 5 năm vào ngày 11/6/2007 là 7,15%), dẫn đến lãi suất bảo
lãnh phát hành cũng giảm. Tuy nhiên sự thành công đó cũng bắt đầu giảm dần khi tỷ lệ
thành công các đợt đấu thầu giảm mạnh từ 99% quý 1 xuống còn 58,39% của quý III
năm 2007 và tiếp sau đó là sự thất bại của hàng loạt các đợt đấu thầu như lô 200 tỷ đồng
kỳ hạn 15 năm phát hành ngày 27/9/2007 của Ngân hàng Phát triển Việt Nam … nguyên
nhân chính là do yếu tố lãi suất thấp, mặc dù độ rủi ro là thấp. Nhiều người đã lạc quan
cho rằng “hoạt động đấu thầu loại chứng khoán này đang thực sự chuyển biến tích cực
và ngày càng hiệu quả hơn”.
Khối lượng phát hành của một lô lớn trái phiếu tối thiểu là 1.000 tỷ đồng. Kỳ hạn của
trái phiếu lô lớn từ 5 năm trở lên. Trái phiếu lô lớn được phát hành theo phương thức
sau: đấu thầu trái phiếu hoặc bảo lãnh phát hành trái phiếu. Thời hạn phát hành của một
lô lớn trái phiếu tối đa không quá 365 ngày..
Tháng 1/2008: Quyết định 86/2008/QĐ-BTC phê duyệt đề án xây dựng thị
trường TPCP chuyên biệt.
Đây được xem là mốc sự kiện quan trọng nhất vì đã đặt ra mục tiêu, lộ trình và

xác định mô hình phát triển của Thị trường TPCP. Đề án được xây dựng nhằm tạo ra
một thị trường giao dịch trái phiếu chuyên biệt, tách hẳn khỏi thị trường giao dịch cổ
phiếu.
Hàng hóa giao dịch bao gồm các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính
quyền địa phương, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh. Tất cả các loại trái phiếu giao dịch
trong hệ thống đều được lưu ký tập trung tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán.
Trái phiếu Chính phủ giao dịch sẽ được gán mã giao dịch và mã định danh riêng
biệt để tạo thuận lợi cho hoạt động giao dịch và quản lý. Phương thức giao dịch được áp
dụng là thỏa thuận. Thành viên có thể thực hiện giao dịch thỏa thuận từ xa thông qua hệ
thống mạng máy tính nội bộ mở rộng.
Tháng 5/2008: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quyết định chuyển trái phiếu
chính phủ từ sàn Tp.HCM sang niêm yết tại sàn Hà Nội.
Tháng 7/2008: Quyết định Số 46/2008/QĐ-BTC ban hành Quy chế quản lý giao
dịch TPCP tại Trung tâm GDCK Hà Nội.
Quy chế này quy định về hoạt động đăng ký niêm yết, công bố thông tin, thành
viên giao dịch trái phiếu Chính phủ (TPCP), giao dịch và quản lý giao dịch TPCP niêm
yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (TTGDCKHN).
Tính đến cuối năm 2008 thị trường TPCP đã huy động trên 300.000 tỷ đồng và hàng
trăm triệu USD. Thị trường này chiếm 70% giá trị giao dịch của thị trường trái phiếu và
trở thành một công cụ quan trọng trong việc điều hành chính sách tài khóa và chính sách
tiền tệ.
Từ khoảng đầu năm 2008, liên tục diễn ra các cuộc đấu giá TPCP không thành
công, số lượng tham gia rất èo uột, thậm chí không có ai tham dự. Một thống kê cho
thấy: trong 10 cuộc đấu giá từ tháng 3/2008 đến 11/7/2008 thì chỉ có 11 đơn vị tham gia
với tổng cộng 875 tỷ đồng được đăng ký đấu so với trên 8.000 tỷ đồng gọi thầu. 6 cuộc
đấu giá chỉ có một đơn vị tham gia đấu giá và 9 cuộc đấu giá không có một trái phiếu
nào được đấu thành công. Từ đầu năm 2009 đến tháng 7/2009, các cuộc đấu thầu TPCP
cũng chịu chung số phận. Thậm chí, từ đầu tháng 4 đến tháng 7, lãi suất trần huy động
TPCP tăng thêm đến 1,2 điểm phần trăm (từ 7,6% đến 8,8%), nhưng các cuộc đấu giá
TPCP vẫn chưa thể tạo được sức hút đối với các NĐT trong và ngoài nước, như sự thất

bại của phiến đấu thầu lô 500 tỷ đồng ngày 29/5/2009 của Công ty CP Đầu tư phát triển
đường cao tốc VN (VEC) …
Tháng 9/2009: Hệ thống giao dịch Trái phiếu Chính phủ chuyên biệt chính thức
được Sở GDCK Hà Nội (HNX) đưa vào vận hành và ra mắt vào ngày 24/09/2009 tới
với mục tiêu phát huy tối đa tầm quan trọng của kênh huy động vốn này đối với nền
kinh tế.
Mục tiêu xây dựng và phát triển Thị trường TPCP là mở rộng thị trường, tăng
cường tính thanh khoản trên thị trường TPCP, liên kết thị trường sơ cấp và thị trường
thứ cấp, và tăng cường công tác giám sát thị trường.
Sự ra đời của thị trường này được kỳ vọng không chỉ là một kênh dẫn vốn hữu hiệu của
nền kinh tế mà còn làm đa dạng hóa các công cụ đầu tư trên thị trường vốn. Đồng thời,
thị trường TPCP còn giúp tăng cường sự độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ của
các ngân hàng trung ương thông qua mua bán TPCP, tác động trực tiếp đến lượng cung
tiền và các biến số kinh tế vĩ mô.
Sau một năm chính thức đi vào hoạt động, thị trường trái phiếu chuyên biệt đã có
những bước tiến mới, đó là thực hiện lưu ký tập trung tại HNX chứ không thực hiện một
cách rải rác trên nhiều thị trường. Hơn nữa, nhờ yêu cầu khắt khe đối với các thành viên
tham gia thị trường về các yếu tố trang thiết bị, chất lượng nhân sự, các bên tham gia thị
trường có thể yên tâm về tính an toàn khi giao dịch. Các cơ chế dành cho giao dịch
REPO rất hạn chế. Trong giai đoạn 2010 – 2015 thị trường sẽ có thêm giao dịch option,
future và giao dịch corporation để đưa các trái phiếu doanh nghiệp vào giao dịch.
Năm 2010 thị trường TPCP tiếp tục ảm đạm, như đợt đấu thầu cho lô 3.000 tỷ
đồng, kỳ hạn 2 năm tổ chức lần 1 vào ngày 25/1/2010 đã thất bại và phiên đấu thầu thứ
2 vào ngày 24/3/2010 cũng chỉ bán được 3,33% tổng khối lượng chào bán. Sau phiên
thành công ngày 28/10/2010, đến nay tất cả 15 phiên đấu thầu TPCP liên tiếp ở tất cả
các kỳ hạn 3, 5 và 10 năm đều trắng bảng dự thầu (tính đến phiên gần nhất ngày
30/11). Nhiều phiên không có thành viên nào đăng ký tham gia, hoặc có tham gia nhưng
không thể huy động được vốn.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn tới các thất bại trên đó chính là lãi suất
TPCP không bù đắp được ảnh hưởng của lạm phát, cũng như quá thấp so với mặt bằng

lãi suất chung, hay sự căng thẳng trên thị trường tiền tệ khiến các ngân hàng (lực lượng
tham gia đấu thầu chính) khó huy động được vốn.
• TPCP được chuyển nhượng, tặng, thừa kế ( 2010 )
Bộ Tài chính được Chính phủ uỷ quyền phát hành TPCP. Trái phiếu được phát
hành và thanh toán bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi; dưới dạng
chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử.
Về phương thức phát hành, tín phiếu kho bạc được phát hành theo phương thức
đấu thầu qua Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước. Trái phiếu kho bạc, trái phiếu ngoại tệ
được phát hành theo 4 phương thức (đấu thầu qua Sở giao dịch chứng khoán; bảo lãnh
phát hành; đại lý phát hành và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Công trái xây
dựng tổ quốc được phát hành theo phương thức bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước
và các phương thức phát hành khác (nếu có).
Lãi suất trái phiếu do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở tình hình
thực tế của thị trường tài chính tại thời điểm phát hành. Trường hợp đấu thầu, bảo lãnh
phát hành thì lãi suất hình thành theo kết quả đấu thầu, bảo lãnh phát hành.
Chủ sở hữu trái phiếu được dùng trái phiếu để chuyển nhượng, cho, tặng, để lại
thừa kế, chiết khấu và cầm cố trong các quan hệ tín dụng theo quy định của pháp luật.
Để phát hành TPCP ra thị trường quốc tế, phải có đề án phát hành trái phiếu được
các cấp có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt; trị giá phát hành TPCP quốc tế phải nằm
trong tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài của Chính phủ hàng năm được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt...
• Bảo lãnh thanh toán tối đa 100% giá trị trái phiếu phát hành ( 2010 )
Chủ thể phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là doanh nghiệp, ngân
hàng chính sách của Nhà nước và tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện chương trình tín
dụng có mục tiêu của Nhà nước.
Bộ Tài chính là cơ quan cấp bảo lãnh thanh toán cho trái phiếu được Chính phủ
bảo lãnh. Mức bảo lãnh thanh toán tối đa bằng 100% giá trị (gốc, lãi) trái phiếu phát
hành nhưng không vượt quá 80% tổng mức đầu tư của chương trình, dự án; đối với
ngân hàng chính sách của Nhà nước là 100% giá trị (gốc, lãi) trái phiếu.
Việc phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh ra thị trường quốc tế phải đáp

ứng các điều kiện: Có đề án phát hành được các cấp có thẩm quyền thẩm định và phê
duyệt; có báo cáo tài chính đã được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập của ba
năm gần nhất; trong đó không bị lỗ và không có các khoản nợ quá hạn...
• Vốn TPCP dự kiến qua các năm:
 Năm 2010, vốn TPCP dự kiến 56.000 tỷ đồng
Mặc dù được đánh giá là tiến độ triển khai giải ngân các dự án trong năm 2009
tích cực hơn so với năm 2008, tuy nhiên tình hình giải ngân vốn TPCP năm qua vẫn
chưa hoàn thành như kế hoạch.
Theo báo cáo của Chính phủ, đến hết tháng 10/2009 mới giải ngân được 26.586
tỷ đồng, bằng 47,5% kế hoạch được giao. Ước giải ngân vốn TPCP theo kế hoạch cả
năm 2009 đạt khoảng 46.000 tỷ đồng, bằng 82,1% kế hoạch cả năm.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chậm tiến độ giải ngân vẫn là do công tác giải
phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn, việc giao vốn của một số Bộ, ngành, địa phương
còn chậm, một số dự án trong danh mục đầu tư đến nay còn chưa hoàn thành các thủ tục
đầu tư; các Bộ, ngành và địa phương còn lúng túng trong triển khai các văn bản pháp
luật về đầu tư xây dựng về đền bù, định mức, đơn giá xây dựng giá không theo kịp biến
động thị trường…
Về kế hoạch phân bổ vốn TPCP năm 2010, nhiều ý kiến đề nghị cần tiếp tục ưu
tiên cho những dự án giáo dục, y tế, nông nghiệp, nông thôn có liên quan mật thiết đến
đời sống dân sinh. Bố trí vốn theo tiến độ giải ngân, điều chuyển vốn linh hoạt không để
tình trạng tồn ngân. Kiên quyết loại bỏ những dự án, công trình kéo dài 2 – 3 năm chưa
hoàn thành thủ tục đầu tư.
 Kế hoạch vốn TPCP năm 2011
Với 89% đại biểu tán thành, sáng 9/11, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế
hoạch vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 2011-2015.
Theo đó, tổng mức đầu tư vốn trái phiếu chính phủ (TPCP) giai đoạn 2011-2015
không quá 225.000 tỷ đồng.
Quốc hội giao Chính phủ xây dựng nguyên tắc, tiêu chí cụ thể để rà soát danh
mục các dự án, công trình trong Nghị quyết số 881/NQ-UBTVQH12 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), 40 dự án đã được UBTVQH cho phép bổ sung năm

2011 và chương trình kiên cố hóa trường lớp học, nhà công vụ cho giáo viên trình
UBTVQH xem xét, quyết định.
Quốc hội cũng yêu cầu không bổ sung mới danh mục, dự án, công trình sử dụng
vốn TPCP giai đoạn 2011-2015. Khẩn trương quyết định các giải pháp đối với các công
trình, dự án thuộc diện chuyển đổi hình thức đầu tư, giãn, hoãn, không được tiếp tục sử
dụng từ nguồn vốn TPCP giai đoạn 2011-2015
Không chuyển chỉ tiêu kế hoạch vốn TPCP được Quốc hội quyết định hàng năm
sang năm sau, căn cứ tiến độ giải ngân để huy động vốn TPCP đáp ứng nhu cầu của
công trình, dự án, không để tồn đọng vốn, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đã huy động.
Trước đó, giải trình tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội về tình hình thực hiện vốn
trái phiếu Chính phủ năm 2011, dự kiến kế hoạch năm 2012 và kế hoạch giai đoạn
2011-2015, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Phùng Quốc Hiển
cho biết, một số đại biểu đề nghị Chính phủ bố trí vốn TPCP cho cả giai đoạn 2011-
2015 đáp ứng khoảng 70% tổng mức đầu tư (khoảng 350.000 tỷ đồng, tương ứng với
70.000 tỷ đồng mỗi năm) để hoàn thành cơ bản các công trình đã được phê duyệt, giảm
tối đa các tổn thất do các công trình dở dang.
Tuy nhiên theo UBTVQH, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô còn bất ổn, nền kinh tế
còn khó khăn, nếu tiếp tục đáp ứng đủ nhu cầu vốn TPCP cho những công trình, dự án
đã được phê duyệt thì ước tính cần phát hành khoảng 405.000 tỷ đồng, tính cả trượt giá
khoảng 500.000 tỷ đồng, như vậy sẽ vượt quá khả năng huy động của nền kinh tế, gây
bất ổn cho kinh tế vĩ mô.
• Kết quả đạt được và một số hạn chế của thị trường trái phiếu chính phủ
2011
 Kết quả đạt được
Trên thị trường sơ cấp, từ đầu năm đến 30/06/2011, tổng khối lượng TPCP huy động
trong 6 tháng đầu năm 2011 đạt 48.392,7 tỷ đồng so với 103.200 tỷ khối lượng gọi thầu;
tỷ lệ trúng thầu của toàn thị trường là 46.89%, có xu hướng tăng hơn so với cùng kỳ
năm 2010. Cùng với đó, tổng khối lượng đăng kí của nhà đầu tư đạt hơn 140.365,2 tỷ
đồng, tương đương với 136,01% so với khối lượng gọi thầu chứng tỏ sự quan tâm lớn
của nhà đầu tư với kênh phát hành TPCP. Lãi suất trúng thầu đạt đỉnh trong tháng 4,

tháng 5 (khoảng 13.00 – 13.20% với các kì hạn 3 và 5 năm) và có xu hướng giảm dần
vào tháng 6 (12.1 – 12.3% tại các kì hạn trên) do sự cải thiện thanh khoản của hệ thống
NHTM. Trên thị trường thứ cấp, tính đến thời điểm 30/06/2011, giá trị giao dịch trên hệ
thống giao dịch TPCP chuyên biệt đạt hơn 31.083 tỷ đồng; giá trị giao dịch bình quân
khoảng 263,42 tỷ đồng/phiên, giảm nhẹ so với giá trị cùng kì năm 2010 (khoảng 293,7
tỷ đồng/phiên).
Trên thị trường thứ cấp TPCP, lợi suất giao dịch tiếp tục bám sát lãi suất trúng thầu
của cùng một kì hạn trên thị trường sơ cấp. Ngoại trừ những kì hạn dài có lợi suất giao
dịch tương đối ổn định (trong khoảng 11.15 – 12.8%) thì lợi suất giao dịch tại những kì
hạn ngắn từ 0 – 5 năm lại giao động khá lớn (tăng khoảng 2 – 2.5% từ 10 – 12% lên 12
– 14% trong những tháng 4, 5, 6).

×