Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN Góp phần rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong giờ học văn lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.61 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI
TRƯỜNG THPT SỐ 2 THÀNH PHỐ LÀO CAI
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
GÓP PHẦN RÈN LUYỆN SỰ SÁNG TẠO CHO
HỌC SINH LỚP 12 TRƯỜNG THPT SỐ 2 TP LÀO CAI
TRONG GIỜ ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC.
1
Họ tên Giáo viên: Nguyễn Thị Thu Hà
Đơn v ị : Tổ Văn - Sử - GDCD
Trường : THPT Số 2 TP Lào Cai
Năm học: 2011 – 2012
2
Đ ề tài: GÓP PHẦN RÈN LUYỆN SỰ SÁNG TẠO CHO
HỌC SINH LỚP 12 TRƯỜNG THPT S Ố 2 TP LÀO CAI
TRONG GIỜ ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC.
PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I.Phạm vi đề tài:
Trong nhiều năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cải cách quan trọng
từ giáo dục ở bậc tiểu học cho đến đào tạo đại học và sau đại học. Riêng ở
3
phổ thông trung học, sự đổi mới thể hiện trên nhiều phương diện, rõ nhất là
về chương trình, sách giáo khoa và đặc biệt là phương pháp dạy học.
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học
phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo
“phương pháp dạy học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần
hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong
học tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú trong học tập.
Từ mục đích của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, tôi xin trao đổi
kinh nghiệm của bản thân về một số giải pháp nhằm góp phần rèn luyện sự
sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc - hiểu tác phẩm văn học ở chương trình


ngữ văn bậc THPT.
II. Phương pháp nghiên cứu:
Khi đi vào tìm hiểu vấn đề này, mỗi người có một hướng tiếp cận riêng.
Trong khuôn khổ và phạm vi đề tài này tôi sử dụng chủ yếu một số phương
pháp sau:
1. Đúc rút kinh nghiệm từ bản thân trong quá trình giảng dạy môn ngữ
văn ở trường THPT.
2. Học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp.
3. Tham khảo một số tài liệu nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy
học văn.
- Rèn luyện tư duy sáng tạo trong giảng dạy văn chương.
( Nguyễn Trọng Hoàn- NXBGD 2001)
4
- Đổi mới giảng dạy văn trong nhà trường. ( ĐHSP Huế- 2002)
- Văn học 11, 12 ( sách giáo viên chỉnh lý hợp nhất năm 2000 - NXBGD)

III. Cơ sở của đề tài:
1. Cơ sở lý luận:
a. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã phân tích và
nhận định sâu sắc thực trạng phương pháp giảng dạy ở nước ta thời gian
qua còn chậm đổi mới, chưa phát huy được khả năng sáng tạo của người
học và yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục
lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành lối tư duy sáng tạo ở người học.
b. Luật giáo dục của nước CHXHCNVN trong điều 4 (yêu cầu về nội
dung phươg pháp giáo dục) cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực tự giác, chủ động , tư duy, sáng tạo ở người học, bồi dưỡng
năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục -
trang 9 - 1998)
2. Cơ sở thực tiễn:
a Trong bộ môn văn học ở trường phổ thông trung học nhiều năm nay

thực tế đã có nhiều đổi mới đáng kể nhưng vẫn còn có hiện tượng học sinh
học theo kiểu cũ: đọc thuộc, sao chép, nói lại ý sách vở thầy cô mà không có
hoặc ít có sự sáng tạo khi tiếp xúc tác phẩm văn chương.
b. Thị trường sách hiện nay: Sách in ấn nhiều, giảng giải cụ thể tác
phẩm, học sinh mua về chép lại một cách máy móc mà không suy nghĩ, sáng
tạo do đó dẫn đến tình trạng mù kiến thức.
5
c. Hiện tượng ít tập trung suy nghĩ, ít tìm tòi ở học sinh phải được khắc
phục dần qua những giờ dạy của giáo viên ở trên lớp và cách học của học
sinh.
d. Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học, học sinh chỉ hiểu theo một chiều, ít
chịu khó phát hiện, vốn từ ngữ nghèo, diễn đạt kém. Vì vậy, không đạt hiệu
quả cao khi cảm nhận tác phẩm văn chương.
PHẦN HAI: NỘI DUNG.
I. Phát huy sự sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc hiểu tác phẩm.
Như chúng ta đã biết tiếp nhận văn học là một hoạt động nhằm chiếm
lĩnh giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Thông qua quá
trình đầu tiên là tiếp xúc, cảm thụ văn bản ngôn từ đến việc cảm nhận, hiểu ra
chân giá trị của hình tượng nghệ thuật và cảm hứng của nhà văn, tài năng
diễn tả của nhà văn để làm nên tác phẩm đó. Và cuối cùng là quá trình kết
thúc sự tiếp nhận ở người đọc qua việc hiểu, rung cảm, có được những rung
cảm, những ấn tượng và chịu ảnh hưởng của tác phẩm, của hình tượng nghệ
thuật trong đời sống cá nhân.
Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học đã giúp cho con người có được
những thói quen, những tình cảm lành mạnh, những suy ngẫm để tự rèn
luyện, tự điều chỉnh bản thân bởi vì chức năng tiếp nhận văn học không chỉ
đơn thuần là quá trình người đọc tiếp xúc với tác phẩm văn học mà nó còn
diễn ra quá trình nhận thức ở họ khi người đọc và người học có ý thức cao về
những vấn đề trong tác phẩm văn học. Quá trình học văn ở trường THPT đối
với lứa tuổi học sinh chính là quá trình thầy cô giúp các em tiếp xúc tác phẩm,

hiểu ra cái đúng, cái hay của nó và bằng tài năng của mình người thầy phải
cảm thụ, cảm nhận một cách toàn diện để sau đó từng bước đưa học sinh
6
bước vào tác phẩm mà phân tích, cảm thụ và hiểu tác phẩm một cách đầy đủ,
đúng đắn.
Trong khi cảm nhận tác phẩm văn học, người đọc phải dùng liên tưởng,
tưởng tượng để hình dung, để hiểu ý đồ, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng nhà
văn trong tác phẩm, bởi vì nhà văn đã dùng liên tưởng, tưởng tượng làm
phương tiện, cách thức, thủ pháp nghệ thuật để sáng tác tác phẩm văn học.
Quá trình tiếp xúc, tiếp thu một giờ giảng văn trên lớp của học sinh phải nhờ
vào tài năng, kĩ năng của người thầy qua các thao tác đọc, phân tích, bình
giảng, nhận xét để bằng các giác quan, học sinh có thể hiểu tác phẩm qua hệ
thống ngôn ngữ, hình tượng, các thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm. Sự dẫn
dắt của người thầy rất quan trọng, vì thế thầy muốn dẫn dắt học sinh bước
vào khám phá tác phẩm thì trước hết phải hiểu tác phẩm, thâm nhập vào tác
phẩm một cách tự nhiên, thoải mái và có khả năng phân tích, đánh giá tác
phẩm và qua sự cảm thụ của mình hướng cho học sinh cảm thụ cái hay, chỗ
độc đáo của tác phẩm để từ đó từng bước hiểu ra vấn đề nhà văn đặt ra và
giải quyết trong tác phẩm.
Đề cập đến bản chất của giờ giảng văn, GS Đặng Thai Mai cho rằng:
“giảng văn trước hết là theo dõi trong nếp áng văn tất cả cái tinh vi về tư
tưởng, cái độc đáo về nghệ thuật của một tác giả. Hiểu như vậy giảng văn
trước hết là chỉ ra sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa kĩ thuật và
tư tưởng trong một tác phẩm văn chương ”( Giảng văn Chinh phụ ngâm-
Đặng Thai Mai - ĐHSP I HN; 1992). Vậy thì muốn chỉ ra sự thống nhất ấy
trong tác phẩm rõ ràng lao động của giáo viên dạy văn vừa phải có tính nghệ
thuật vừa phải có tính sư phạm. Mà tính nghệ thuật của giờ giảng văn tất
nhiên lại phải phụ thuộc vào tài năng của giáo viên và trình đô, khả năng của
học sinh. Như trên đã nói, tiếp xúc với tác phẩm văn chương, học sinh cần có
sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, rõ ràng mới có thể cảm nhận được

7
cái hay của tác phẩm, cái tài của tác giả. Việc đó theo tôi hoàn toàn phụ thuộc
vào khả năng tiếp thu của học sinh qua tài năng dẫn dắt của giáo viên. Vậy
thì, việc đầu tiên theo tôi người thầy dạy văn cần phải làm, đó là phải bằng
mọi cách tác động vào tư duy sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp nhận
tác phẩm văn học. Sự tác động ấy có thể bằng nhiều hình thức khác nhau. Có
thể đó là giọng đọc thiết tha diễn cảm khi phân tích tác phẩm trữ tình, giọng
đọc hài hước dí dỏm khi tiếp cân tác phẩm trào phúng, giọng đọc đanh thép
mạnh mẽ khi thể hiện thái độ căm thù, giọng đọc nhẹ nhàng ấm áp khi diễn tả
tình cảm yêu thương hoặc có thể đó còn là một hệ thống câu hỏi phù hợp,
đúng lúc gõ vào trí tuệ học sinh, bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải căng
thẳng chút ít để phán đoán mở hướng hiểu, cách khai thác vấn đề.
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn văn ở trường THPT, tôi thấy rằng để
có được một giờ giảng văn trọn vẹn quả thật là khó bởi vì đó là cả một nghệ
thuật. Giờ giảng văn đòi hỏi học sinh phải liên tưởng, tưởng tượng mới có sự
sáng tạo trong phát hiện tìm tòi trong khi đó thời gian rất eo hẹp. Đã thế lớp
học có ít nhất 40 học sinh, thầy chỉ có một mà trò thì quá nhiều, sự liên tưởng,
tưởng tượng không đồng đều ở học sinh. Tất cả chừng ấy yếu tố cũng đủ để
chúng ta hiểu rằng khó có thể cầu toàn đối với một giờ giảng văn. Tuy nhiên
nói như vậy không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn không thể có được những
giờ dạy, bài giảng thành công. Với những gì đã làm, đã học tập ở đồng nghiệp
và tiếp xúc với nhiều khoá học sinh, tôi thấy rằng: Chúng ta có thể giúp cho
học sinh có điều kiện rèn luyện tư duy sáng tạo khi tiếp xúc với tác phẩm văn
chương qua một số vấn đề, một số thao tác sau đây:
1. Trong giờ giảng văn, trước khi giảng giáo viên có thể dùng lời kể
hoặc lời dẫn kết hợp với một số hình ảnh, đoạn phim, bài hát, câu thơ minh
hoạ để tạo tâm thế thoải mái, giúp học sinh có điều kiện thâm nhập được vào
tác phẩm, vào bài dạy một cách hứng thú.
8
Ví dụ:

- Giảng bài “ Ai đã dặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường,
ta có thể dẫn dắt học sinh bằng lời giới thiệu, lời dẫn về con sông Hương của
Huế ở vẻ đẹp tự nhiên, văn hoá, lịch sử; hoặc cho học sinh nghe đoạn nhạc
“Dòng sông ai đã đặt tên?” kết hợp một số hình ảnh về sông Hương, xứ Huế
và hỏi cảm nhận của học sinh về dòng Hương Giang.
- Giảng bài “ Sóng ” của Xuân Quỳnh, ta có thể bắt đầu bằng một đoạn
bài hát về biển, một bài thơ có cùng chủ đề hoặc một trò chơi từ đó gợi dẫn
về vấn đề cơ bản cần tìm hiểu trong tác phẩm.
2. Phải khơi gợi ở học sinh sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú từ
những gì đã có trong văn bản ngôn từ của tác phẩm bằng hệ thống câu hỏi có
khả năng tạo được tâm lí thoải mái trong tư duy của các em khi tiếp cận tác
phẩm ở các dạng câu hỏi từ khái quát đến cụ thể, từ khẳng định đến gợi mở,
định hướng.
Ví dụ 1: Khi tìm hiểu tác phẩm “ Bài ca ngất ngưỡng” của Nguyễn Công
Trứ, Gv hỏi: đọc xong bài thơ em có cảm nhận như thế nào về nhân vật trữ
tình trong bài thơ?
Học sinh: Em tưởng tượng được cảnh nhà nho ngất ngưỡng cưỡi bò
vàng nghênh ngang giữa phố, tiếng đạc ngựa ngân vang, vài ba cô ả đào lẽo
đẽo theo sau
Ví dụ 2: Khi tìm hiểu tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa”, GV có thể hỏi:
Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên ở đoạn đầu tác phẩm?
Học sinh: Bức tranh được đặc tả với vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng.
Giữa không gian bao la của biển, của bầu trời, hình ảnh chiếc thuyền cùng
9
con người đang thu lưới sau một đêm lao động vất vả ẩn hiện trong những
mảng màu sáng tối của ánh bình minh trên biển sớm mờ sương. Cảnh mang
vẻ đẹp lãng mạn, gợi lên một cuộc sống thanh bình, yên ả.
3.Trong giảng văn, giọng đọc của giáo viên là rất quan trọng. Với giọng
đọc của mình, giáo viên có thể đã và đang truyền thụ được cái hồn của tác
phẩm cho học sinh. Qua giọng đọc của thầy, học sinh đã có thể thấy mở ra

trong tâm trạng, trong cảm xúc và tư duy nhưng gì cần lĩnh hội. Đọc đúng,
đọc diễn cảm đòi hỏi sự luyện tập công phu của người thầy. Nhiều đoạn thơ,
đoạn văn thầy không cần giảng, bình mà chỉ đọc đã có thể mở ra cho trò bao
nhiêu điều thú vị. Tuy nhiên không chỉ có thầy đọc mà thầy phải có trách
nhiệm tập luyện cho học sinh thói quen đọc đúng, đọc diễn cảm văn bản bởi
vì đây chính là khâu đầu tiên giúp học sinh cảm nhận tác phẩm văn chương
bằng chính giọng đọc của mình để cảm thụ đúng tác phẩm, cảm thụ cái hay
của tác phẩm thông qua sự ngân vang của nó trong cảm xúc, đ ọc là yếu tố
quan trọng cho học sinh đến được và dần hiểu tác phẩm văn chương. Một
giờ giảng văn mà cả thầy lẫn trò đều có giọng đọc tốt sẽ truyền được cảm xúc
của mình từ tác phẩm cho học sinh trong lớp.
4. Trong giờ đọc hiểu, để rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh, giáo
viên còn phải cố gắng tập cho học sinh có thói quen rèn luyện và thao tác cần
thiết khi chuẩn bị bài ở nhà và khi học giờ giảng văn ở lớp. Theo tôi đó có thể
là những thói quen sau:
- Thói quen đọc tác phẩm cẩn thận, kỹ càng, đọc đúng đọc, diễn cảm để
tự cảm nhận tác phẩm, đồng thời với việc đọc có suy nghĩ là thói quen gạch
chân và ghi lại những đoạn hay của tác phẩm.
- Thói quen đọc thuộc tác phẩm, ghi nhớ, suy ngẫm tác phẩm, những
câu đoạn mà mình tâm đắc nhất.
10
- Thói quen liên tưởng, liên hệ với những vấn đề, những tác phẩm khác
có liên quan đến những giá trị cơ bản trong tác phẩm đang học.
- Thói quen lật đi lật lại những vấn đề quan trọng khi cảm nhận phân
tích tác phẩm.
- Thói quen cảm nhận tác phẩm theo nhiều chiều, nhiều khía cạnh
không máy móc thụ động; phải tập trung suy nghĩ, phát hiện những điều mới
lạ ở tac phẩm khi cảm nhận nó qua sự dẫn dắt gợi ý của thầy cô, có nghĩa là
phải có sự cảm nhận của riêng mình.
- Phải biết và có thói quen cảm nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại,

đặc trưng thi pháp.
5. Rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh ở giờ giảng văn không chỉ
dừng lại ở những thao tác trên mà nó còn đòi hỏi ở cả thầy lẫn trò một cách
học, cách dạy hợp lý, khoa học, linh hoạt, không phải bài nào cũng giảng và
liên tưởng theo một cách, không phải tác giả tác phẩm nào cũng một dạng lời
bình mà phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, tác phẩm cụ thể để hướng dẫn học
sinh cách cảm thụ, cách phát hiện. Về phía học sinh, theo tôi nếu cầu toàn
100% học sinh đều cảm thụ tốt tác phẩm văn học bằng tư duy của các em thì
khó mà đạt được. Vì vậy phải tùy đối tượng, tùy năng lực cảm thụ văn học
của từng đối tượng mà hướng dẫn chỉ đạo các em phát hiện sáng tạo phù
hợp: Hệ thống câu hỏi đặt ra phải linh hoạt, phải có sự phân chia đối tượng,
có câu hỏi khó cho học sinh giỏi, câu hỏi phù hợp cho học sinh trung bình có
thế một giờ giảng văn mới đảm bảo được cùng lúc sự sáng tạo cho các em.
6. Để giúp học sinh có được sự sáng tạo trong giờ giảng văn, giáo viên
nên hướng dẫn cho học sinh đi theo con đường thi pháp học nởi vì thi pháp
học sẽ giúp học sinh hiểu đúng, nhanh chóng phát hiện ra những điểm sáng
11
thẩm mỹ ở tác phẩm. Muốn vậy, người thầy phải nắm và vận dụng linh hoạt,
vững vàng lý luận thi pháp trong quá trình giảng văn.
Ví dụ: Với thơ, nên đi từ mạch cảm hứng, cảm xúc của nhân vật trữ
tình hoặc hình tượng trữ tình trong tác phẩm ( Chẳng hạn khi tìm hiểu bài thơ
“ Sóng” của Xuân Quỳnh ta có thể phân tích hình tượng sóng và hình
tượng em; Khi tìm hiểu bài thơ “Đất Nước ” của nguyễn Khoa Điềm ta phân
tích theo mạch trữ tình- chính luận của nhân vật trữ tình trong bài thơ).
Với văn xuôi, có tác phẩm giảng bằng thi pháp nhân vật, có tác phẩm
giảng bằng thi pháp cốt truyện, tình tiết ( Chẳng hạn khi tìm hiểu tác phẩm “
Hai đứa trẻ ” của nhà văn Thạch Lam thì phân tích theo nghệ thuật miêu tả
bởi truyên Thạch Lam không có cốt truyện nên không có giọng kể mà chỉ có
giọng tả; Khi tìm hiểu tác phẩm “ Chữ ngời tử tù” của Nguyễn Tuân thì phân
tích nghệ thuật xây dựng nhân vật; khi tìm hiểu tác phẩm “ Ai đã đặt tên cho

dòng sông” hoặc “ Người lái đò sông Đà” thì phân tích tác phẩm theo đăc
trưng thể loại bút kí, tuỳ bút).
7. Để phát huy sự sáng tạo, tích cực chủ động của học sinh cũng như
kết hợp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, giáo viên cần vận dụng các
phương pháp, kĩ thuật dạy học mới vào giờ đọc văn, như phương pháp thảo
luận nhóm, giao dự án, kết hợp kĩ thuật khăn trải bàn, mảnh ghép, v v
II. Minh hoạ đọc - hiểu tác phẩm:
NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
(Nguyễn Thi)
A. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT:
- Hiểu được nguồn gốc tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn và những chiến thắng
của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
12
- Thấy được một số đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.
B. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KĨ NĂNG:
1/Kiến thức:
- Phẩm chất tốt đẹp của con người trong gia đình Việt, nhất là Chiến và Việt.
- Nghệ thuật trần thuật đặc sắc, nghệ thuật xây dựng tính cách miêu tả tâm lí
nhân vật, ngôn ngữ phong phú, góc cạnh, đậm chất hiện thực và màu sắc ở
Nam Bộ
2/Kĩ năng:
Đọc- hiểu truyện ngắn hiện đại theo đặc trưng thể loại
C. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN:
- Sách giáo khoa, Chuẩn kiến thức kĩ năng, sách tham khảo.
- Thiết kế giáo án
D. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN:
Diễn giảng, phát vấn, thảo luận, gợi mở, đàm thoại.
E. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP:
1. Ổn định lớp – kiểm tra bài cũ: Tóm tắt truyện Những đứa trong gia đình của
Nguyễn Thi.

2. Bài mới:
Hoạt động của GV Hoạt động của
HS
Nội dung bài học
Hoạt động 1: Giới thiệu
bài mới
Tiết 1
Lắng nghe, tạo
tâm thế vào bài
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả : SGK
Hoạt động 2: Hướng
dẫn học sinh tìm hiểu
phần tiểu dẫn trong
SGK
Dựa vào phần tiểu dẫn
hãy tóm tắt vài dòng về
HS đọc phần tiểu
dẫn
Học sinh tóm tắt
trả lời
a. Tiểu sử:SGK
b. Tư tưởng - phong cách
- Gắn bó sâu sắc với nhân dân Nam
Bộ, là nhà văn của nhân dân Nam Bộ
thời kỳ chống Mỹ
- Nhân vật tiêu biểu:
Người nông dân Nam Bộ với những nét
13
tiểu sử của tác giả

Nguyễn Thi?
H. Hãy cho biết những
nét cơ bản về tư tưởng
và phong cách của tác
giả qua tác phẩm
"Những đứa con trong
gia đình"?
HS nêu ý chính
tính cách tiêu biểu
GV thuyết giảng làm rõ HS lắng nghe, ghi
chép
H. Hiểu biết của em về
hoàn cảnh ra đời, giá trị
tác phẩm "Những đứa
con trong gia đình
HS trả lời 2. Tác phẩm "Những đứa con trong
gia đình".
- Truyện ngắn xuất sắc - ra đời trong
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Hoạt động 3: Hướng
dẫn học sinh đọc, tìm
hiểu văn bản
GV hướng dẫn HS đọc
văn bản
Hs đọc văn bản
theo hướng dẫn
của GV
II. Đọc, hiểu văn bản
1. Đọc và giải nghĩa từ khó
Tiếp tục hướng dẫn HS

tìm hiểu văn bản.
H Hãy đề xuất hướng
tìm hiểu văn bản/?
H. Truyện "Những đứa
con trong gia đình"
được trần thuật chủ yếu
từ điểm nhìn của nhân
Hs thảo luận trả
lời
HS suy nghĩ trả
lời
2. Cảm nhận chung
- Kể chuyện: tự sự qua dòng hồi tưởng
của Việt khi bị trọng thương nằm lại 1
mình ở chiến trường, trong bóng tối.
14
vật nào?
Nhân vật được đặt trong
tình huống như thế
nào? Hãy nêu tác dụng
của cách trần thuận đó
đối với kết cấu truyện và
việc khắc họa tính cách
nhân vật./?
GV tiếp tục bổ sung,
giảng giải, kết luận
• HS lắng
nghe

nhà văn có điều kiện nhập sâu vào

thế giới nội tâm nhân vật để dẫn dắt
câu chuyện.

Diễn biến câu chuyện biến đổi linh
hoạt, tự nhiên.
- Sự hòa quyện, gắn bó giữa tình cảm
gia đình với tình yêu đất nước, những
truyền thống gia đình với truyền thống
dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn của
người Việt nam, dân tộc Việt nam trong
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Tiết 2 III. Đọc, hiểu văn bản
1. Hình tượng nhân vật:
H. Những nét thống
nhất tạo nên nét truyền
thống của gia đình Việt -
Chiến?
Cho HS phân nhóm, trả
lời GV bổ sung, giảng
giải, kết luận.
HS suy nghĩ, thảo
luận, trả lời
Đại diện nhóm,
trả lời
a. Nét chung thống nhất của gia
đình:
+ Căm thù giặc sâu sắc
+ Gan góc, dũng cảm, khao khát, chiến
đấu, giết giặc.
+ Giàu tình nghĩa, rất mực thủy chung

son sắt với quê hương, Cách mạng.
15

truyền thống gia đình trong mối
quan hệ với truyền thống Cách mạng,
dân tộc tạo nên 1 dòng sông truyền
thống.
b. Nét riêng tiêu biểu từng thành
viên
H. Tìm những chi tiết
trong tác phẩm đề cập
đến hình tượng chú
Năm? Trong số những
chi tiết ấy em ấn tượng
với chi tiết nào nhất? Vì
sao?
GV bình chi tiết tiếng hò
Từ đó nêu những nhận
xét khái quát của em về
nhân vật này?
GV nhận xét, bổ sung
HS hệ thống, trả
lời
Hs lắng nghe
HS thảo luận trả
lời.
b1. Chú Năm:
- Hay kể về sự tích gia đình, tác giả của
cuốn biên niên sử gia đình.
- Dặn dò các cháu

- Tiếng hò đầy tâm tư:
tha thiết, nhắn nhủ, lời thề , trái tim,
tâm hồn
+ Luôn hướng về truyền thống, đại diện
và lưu giữ truyền thống. Ông là khúc
thượng nguồn của dòng sông truyền
thống, là nơi kết tinh đầy đủ hơn cả
truyền thống của gia đình
H. Hình tượng người
mẹ được nhắc đến như
thế nào trong tác phẩm?
Vì sao nói người mẹ
chính là hiện thân của
truyền thống?
GV nhận xét, lý giải, kết
luận.
HS thảo luận theo
nhóm, đại diện
nhóm trả lời
b2. Má của Việt - Chiến:
- Hiện thân của truyền thống:
+ Tảo tần, đảm đang, tháo vát thương
yêu chồng con hết mực.
+ ghìm nén đau thương đời mình để
sống, chở che cho đàn con và chiến
đấu.
GV bình 1 vài chi tiết ở HS lắng nghe

Bà là biểu tượng về người phụ nữ
16

trong đoạn trích, có thể
mở rộng trong những
chi tiết ở phần trước.
nông dân Nam Bộ thời chống Mỹ
H. So với mẹ, chị Chiến
có những điểm nào
giống và khác? Nguyễn
Thi có dụng ý như thế
nào trong việc xây dựng
hình tượng chị Chiến?
HS tìm những chi
tiết tiêu biểu,
nhận xét
b3. Chị Chiến:
- Giống mẹ: + Vóc dáng
+ Đức tính: gan góc, đảm
đang

kế thừa
- Tính cách

Vừa trẻ con: tranh công bắt ếch,
tranh đi tòng quân, tranh công bắt tàu
giặc

Vừa ý thức là chị:
+ thương em , lo cho em, nhường
nhịn em

1 cô bé hồn nhiên, vô tư ở tuổi mới

lớn
- Khác mẹ
+ trẻ trung, thích làm dáng
+ có điều kiện trực tiếp cầm súng
đánh giặc trả thù nhà, thực hiện lời thề
sắt đá.

biết kế thừa và phát huy truyền
thống tốt đẹp của gia đình và dân tộc
H. Em ấn tượng ở nhân
vật Việt bởi những nét
tính cách tiêu biểu nào?
GV gợi ý, phân tích,
HS lựa chọn, suy
nghĩ, trả lời.
HS lắng nghe
b4. Việt
- Tính tình hồn nhiên, trẻ con
+ Luôn giữ trong mình cái ná thun, cho
tới khi đã vào bộ đội
+ Vị thương rất nặng tới lần 2 "trong
bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo", Việt
không sợ chết mà lại sợ ma và bóng
17
bình 1 vài chi tiết đêm.
+ Yêu chị nhưng hay tranh giành với
chị.
+ Rất yêu quý đồng đội nhưng không
nói thật là mình có chị, sợ mất chị, phải
giấu chị.

- Có tình thương yêu gia đình sâu đậm:
+ Tình cảm chi em, đối với linh hồn má,
với chú Năm.
+ Hình ảnh cha mẹ thân yêu luôn chập
chờn trong hồi ức khi bị thương.
- Tính chất anh hùng, tinh thần chiến
đấu dũng cảm:
+ Luôn ý thức phải sống và chiến đấu
để trả thù nhà, đền nợ nước xứng đáng
với truyền thống gia đình.
+ Can đảm chịu đựng khi bị thương.
+ Tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu dù
đang bị kiệt sức.

Một con sóng vươn xa nhất trong
dòng sông truyền thống, người tiêu
biểu cho tinh thần tiến công cách mạng.
H. Em có kết luận như
thế nào về "những đứa
con trong gia đình"?
HS thảo luận theo
nhóm, đại diện trả
lời
* Tiểu kết:
Mỗi con người trong gia đình là một
khúc sông trong dòng sông truyền
thống. Mỗi khúc sông có một đặc điểm
riêng nhưng họ vẫn hướng về tô đậm
hơn, phát huy hơn truyền thống gia
đình gắn chặt trong mối tình đất nước

thời kháng chiến chống Mỹ
H. Khái quát những nét HS suy nghĩ trả 2. Ngôn ngữ nghệ thuật:
18
cơ bản về ngôn ngữ
nghệ thuật của tác
phẩm?
lời - Xây dựng nhân vật bằng chi tiết cụ
thể, làm rõ góc cạnh của cuộc sống,
tạo nên không khí chân thực và có linh
hồn.
H. Đọc xong truyện
ngắn, em có ấn tượng
với chi tiết nào nhất? Vì
sao?
GV bình
HS chọn, trả lời
HS lắng nghe
+ Chi tiết đắt giá nhất: "Chị em Chiến
khiêng bàn thờ má sang gởi nhà chú
Năm

tập quán lâu đời gợi sự thiêng
liêng, nhân vật trở nên trưởng thành
hơn.
- Ngôn ngữ mang đậm chất Nam Bộ.
- Phát huy tối đa ngôn ngữ độc thoại
nội tâm.

tài năng Nguyễn Thi trong nghệ
thuật kể chuyện

Hoạt động 4: Hướng
dẫn học sinh tổng kết
* Kĩ năng sống: Giao
tiếp, trình bày, trao đổi
về cách thể hiện sức
mạnh của dân tộc trong
cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước (từ góc
nhìn truyền thống gia
đình)
HS lưu ý phần ghi
nhớ, đúc kết, ghi
chép
III. Tổng kết:
1) Nghệ thuật:
- Tính huống truyện : Việt - một chiến sĩ
Quân giải phóng - bị thương phải nằm
lại trên chiến trường. Truyện kể theo
dòng nội tâm của Việt khi liền mạch (lúc
tỉnh), khi gián đoạn (lúc ngất) của
"người trong cuộc" làm câu truyện trở
nên chân thật hơn ; có thể thay đổi đối
tượng, không gian, thời gian, đan xen
tự sự và trữ tình.
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa
giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh.
Ngôn ngữ bình dị, phong phú, giàu tính
tạo hình và đậm sắc thái Nam Bộ.
- Giọng văn chân thật tự nhiên, nhiều
đoạn gây xúc động mạnh.

19
2) Ý nghĩa văn bản:
Qua câu truyện về những con người
trong một gia đình nông dân Nam Bộ
có truyền thống yêu nước, căm thù
giặc, thuỷ chung với quê hương, với
cách mạng, nhà văn khẳng định : sự
hoà quyện giữa tình cảm gia đinh và
tình yêu nước, giữa truyền thống và
truyền thống dân tộc đã tạo nên sức
mạnh tính thần to lớn của con người
Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước
- Tìm đọc trọn vẹn tác
phẩm Những đứa con
trong gia đình.
- So sánh hai nhân vật
Việt và Chiến
- Là một công dân trong
thời kì đổi mới em suy
nghĩ gì về tình yêu nước
và tình gia đình?
IV. Hướng dẫn tự học:
3. Dặn dò:
- Nắm cốt truyện, nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
- Chuẩn bị cho tiết học sau.
III. Kết quả khảo sát:
Trong năm học 2011- 2012, qua 3 lớp 12A5, 12A7, 12A8 tôi trực tiếp
giảng dạy, tôi đã vận dụng một số thao tác trên ở bài dạy đọc hiểu “Những
đứa con trong gia đình ” để không ngừng góp phần rèn luyện, khơi gợi cho

học sinh khả năng sáng tạo ở các em. Thực tế qua các giờ dạy tôi thấy có sự
20
thành công, đạt được yêu cầu mục đích đã định nhưng mức độ nắm bắt bài
học của từng đối tượng học sinh khác nhau cũng chưa đồng đều.
12A5 12A7 12A8
Hi ểu bài 40/40 (100%) 39/39( 100%) 36/36 (100%)
Khả năng vận dụng 37/40
(92,5%)
36/39 ( 92%) 32/36
(88,88%)
Khả năng sáng tạo 35/40
( 87,5%)
34/39(87,2%) 31/36
(86,1%)
Một kết quả tôi nhận thấy rõ là các em hoạt động tích cực, tham gia
thảo luận có hiệu quả và đặt ra nhiều vấn đề khá thú vị. Qua đó các em rèn
luyện kĩ năng động não, hợp tác, phản biện.
PHẦN BA: KẾT LUẬN
Góp phần khơi gợi và rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc
hiểu là công việc thường xuyên và cần thiết ở tất cả các môn học. Tuy nhiên
ở bộ môn văn các đặc thù của nó vẫn là sự sáng tạo dựa trên sự đồng cảm,
sự cảm nhận của người học qua người dạy văn và văn bản ngôn từ trong tác
phẩm. Sự sáng tạo trong văn chương không hề có sự giống nhau bởi sự liên
tưởng, tưởng tượng ở mỗi người khác nhau, tuy vậy vẫn có chỗ giống nhau
trong tiếp nhận tác phẩm văn học giữa các đối tượng: tác giả - người dạy -
người học. Theo tôi để có sự gặp nhau ấy, cả người dạy và người học phải có
một trường liên tưởng, một sự tưởng tượng phong phú, linh hoạt để từ đó
người dạy có thể đưa người học vào tác phẩm bằng hệ thống các câu hỏi,
bằng lời bình, cách đọc, lời phân tích và người học tiếp nhận tác phẩm bằng
quá trình tích luỹ từ ngữ, vốn hiểu biết và khả năng cảm nhận được tác phẩm

văn chương để lĩnh hội từ người dạy những gì tâm đắc nhất, đồng thời mở
rộng tầm hiểu biết, suy nghĩ trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
21
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “ Học sinh nhớ nhiều, học
nhiều là điều đáng khuyến khích nhưng đó quyết không phải là điều chủ yếu.
Điều chủ yếu là dạy học sinh cách suy nghĩ sáng tạo. Chúng ta phải xem lại
cách giảng dạy văn trong trường phổ thông của chúng ta, không nên dạy như
cũ bởi vì dạy như cũ thì không những việc dạy văn không hay mà việc đào
tạo con người cũng không có kết quả. Vì vậy dứt khoát chúng ta phải có cách
dạy khác, phải dạy cho học sinh biết suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí óc của mình
và diễn tả suy nghĩ đó theo cách của mình thế nào cho tốt nhất”. Thiết nghĩ
dạy học sinh biết suy nghĩ sáng tạo trong giờ đọc văn là điều cần thiết.
KI ẾN NGHỊ , Đ Ề XUẤT
Trên đây là một vài suy nghĩ của cá nhân tôi trong quá trình giảng dạy
hướng dẫn học sinh trong giờ đọc hiểu tác phẩm, vì vậy không tránh khỏi
những thiếu sót, hạn chế. Rất mong các đồng nghiệp bổ sung để việc dạy học
đạt kết quả tốt hơn.

Lào Cai, ngày 22/02/2012
Người viết
Nguy ễn Thị Thu Hà
22

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 – Rèn luyện tư duy sáng tạo trong giảng dạy văn chương.
( Nguyễn Trọng Hoàn- NXBGD 2001)
2 – Đổi mới giảng dạy văn trong nhà trường. ( ĐHSP Huế- 2002)
3 – SGV Ngữ văn 12 - Tập 2 – NXBGD 2009
4 – SGK Ngữ văn 12 - Tập 2 - NXBGD 2011
5 – Tư liệu ngữ văn 12 - Phần văn học – NXBGD – 2009

6 – Giảng văn Chinh phụ ngâm- Đặng Thai Mai - ĐHSP I HN; 1992
23
Môc lôc
Tên mục Trang
PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ
3
I.Phạm vi đề tài:
II. Phương pháp nghiên cứu:
3
III. Cơ sở của đề tài:
4
PHẦN HAI: NỘI DUNG.
I. Phát huy sự sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc hiểu văn
bản
4
24
II. Minh hoạ đọc - hiểu tác phẩm:
NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
(Nguyễn Thi)
9
III. Kết quả khảo sát:
14
PHẦN BA: KẾT LUẬN
14
KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
16




25

×