Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

sự hài lòng của học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông về giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.81 KB, 10 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
TRƯỜNG THCS & THPT TẠ QUANG BỬU (HAI BÀ TRƯNG)
*******************
ĐỀ TÀI DỰ THI KHOA HỌC, KĨ THUẬT
DÀNH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CẤP THÀNH PHỐ
LẦN THỨ TƯ (NĂM HỌC 2014-2015)
Tên đề tài: SỰ HÀI LÒNG CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC VỀ
GIÁO DỤC GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC NHÀ TRƯỜNG
Lĩnh vực: Khoa học xã hội và hành vi
Người hướng dẫn Tác giả:
1. Ths Nguyễn Đức Giang 1.Vũ Vân Ngọc Lớp 10A
2.Phùng Trịnh Linh Hương Lớp 10A
Hà Nội, tháng 12 năm 2013
PHẦN 1- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ xưa tới nay, khi nói đến giáo dục trong nhà trường và trong gia đình
chúng ta thường nghĩ theo chiều từ người lớn tới học sinh. Tuy nhiên, khi có sự
tác động của bất kì sự vật hiện tượng nào, con người sẽ trả lời bằng hành vi và cả
thái độ đi kèm. Trong gia đình và nhà trường, người lớn thường không chú ý tới
thái độ xem con cái có hài lòng với những tác động của mình hay không? Phải là
những thầy cô giáo, bố mẹ tâm lí mới để tâm quan sát xem học sinh có hài lòng
về sự giáo dục của mình. Điều này, có thể dẫn tới sự chống lại nhưng không thể
hiện ra hành vi, chống lại trong suy nghĩ, thái độ. Học sinh làm những việc đó để
cho xong hoặc cho bố mẹ, thầy cô hài lòng.
Đo lường mức độ hài lòng của học sinh trong giáo dục là sự đo lường khá
chủ quan nhưng lại là một phép đo hữu ích, cung cấp những đánh giá mang tính
cá nhân học sinh về các khía cạnh cơ bản của giáo dục hiện nay. Sự hài lòng của
học sinh là đặc trưng của từng học sinh với những yếu tố mang tính quyết định
đem lại cho cá nhân hệ thống tiêu chuẩn để tự đánh giá và rút ra mức độ hài lòng
với các thầy cô, bạn bè, bố mẹ, chương trình giáo dục, phương pháp giáo dục,
v.v.
Hơn nữa, xu thế phát triển giáo dục trong những năm gần đây cho phép


nhiều lực lượng xã hội tham gia vào hoạt động giáo dục. Các trường tư thục xuất
hiện càng nhiều, dẫn tới sự cạnh tranh người học giữa các trường trên cùng một
địa bàn. Muốn có người học, nhà trường phải đẩy mạnh xây dựng chương trình,
cơ sở vật chất, người dạy,…sao cho đảm bảo tốt nhất về chất lượng nhằm thu hút
người học. Nghĩa là, nhà trường cần quan tâm tới sự hài lòng tới từ học sinh, phụ
huynh và xã hội trong quá trình phát triển.
Đứng từ góc độ học sinh đang theo học trường ngoài công lập. Đồng thời,
xuất phát từ mong muốn điều tra sự hài lòng của học sinh hiện nay với giáo dục
tại trường và trong gia đình hiện nay như thế nào. Chúng em tiến hành đề tài: Sự
hài lòng của học sinh Trung học về giáo dục gia đình và giáo dục nhà
trường.
PHẦN II – TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ ĐIỂM MỚI, SÁNG
TẠO CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Hiện nay, ngày càng có nhiều nghiên cứu về sự hài lòng trong cuộc sống, ở
mỗi cuộc nghiên cứu, sự hài lòng có thể được nhìn nhận dưới những góc độ
khác nhau và đo đạc bằng những tiêu chí, thang đo khác nhau.
Ở góc độ lý thuyết, có thể có những góc nhìn khác nhau về sự hài lòng với
cuộc sống của một cá nhân. Theo Jussi Suikkanen [3] tổng kết tồn tại 3 cách lý
giải mang tính lý thuyết khác nhau về sự hài lòng trong cuộc sống.
* Quan điểm nhận thức về sự hài lòng: cho rằng một cá nhân nào đó chỉ có
thể cảm thấy hài lòng với cuộc sống của họ tại một thời điểm khi mà họ có
những suy nghĩ, nhận thức, hình dung hay thậm chí kế hoạch cụ thể về cuộc đời
họ cho tới thời điểm đó và họ cảm nhận được rằng cuộc sống thực tế của họ về
cơ bản hoặc hoàn toàn phù hợp với những hình dung hay mong đợi hoặc kế
hoạch của bản thân họ.
* Quan điểm cảm xúc thái độ về sự hài lòng: cho rằng cảm giác hài lòng của
cá nhân có thể chỉ bắt nguồn từ cảm xúc hết sức chủ quan của cá nhân đó mà
không bao hàm sự đối chiếu hay so sánh với đời sống thực tế. Cá nhân sẽ cảm
thấy hài lòng với cuộc sống của họ khi tại thời điểm đưa ra đánh giá họ có những

cảm xúc tích cực và thỏa mãn với những gì mà họ đã và đang có.
* Quan điểm tích hợp về sự hài lòng: cho rằng tại một thời điểm nhất định, cá
nhân có nhận thức, hình dung, mong đợi hay kế hoạch cho cuộc đời của mình và
bản thân họ cảm thấy hài lòng, thỏa mãn với những gì mà họ có, so sánh đối
chiếu với những gì mà họ mong đợi (cho dù thực tế nó có thực sự đáp ứng hay
giống hoàn toàn hay không).
Các nghiên cứu về sự hài lòng trong xã hội hiện nay tập trung chủ yếu ở lĩnh
vực kinh tế, nơi có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty. Trong giáo dục
không có nhiều công trình nghiên cứu về sự hài lòng, đặc biệt là sự hài lòng của
người được giáo dục (học sinh) – đối tượng trực tiếp của giáo dục.
2.2. Điểm mới, sáng tạo của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu đo đạc về sự hài lòng của học sinh với các hoạt
động giáo dục, với các nhà giáo dục (thầy (cô) giáo, phụ huynh, với chương
trình nội dung giáo dục và phương pháp giáo dục.
PHẦN III – QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
3.1. Quá trình nghiên cứu
Đề tài bắt đầu nghiên cứu từ tháng 9 năm 2014 với các bước như sau:
 Lên ý tưởng
 Xây dựng đề cương nghiên cứu
 Phân công nhiệm vụ nghiên cứu
 Nghiên cứu lí thuyết
 Xây dựng công cụ khảo sát
 Nghiên cứu thực tiễn
 Tổng hợp kết quả
 Viết báo cáo
Hiện nay đề tài đang triển khai ở bước 4 và 5.
3.2. Kết quả nghiên cứu
3.2.1. Khái niệm cơ bản
* Sự hài lòng
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về sự hài lòng khác nhau tùy theo lĩnh vực

nghiên cứu. Có các khái niệm như sau:
Theo từ điển Tiếng Việt Thông dụng của Nguyễn Như Ý, hài lòng là vừa
ý, không đòi hỏi gì hơn.
Các nghiên cứu cho rằng, sự hài lòng trong cuộc sống là một quá trình
đánh giá nhận thức chủ quan, nó có thể được định nghĩa là “một sự đánh giá
tổng thể về chất lượng cuộc sống của một cá nhân dựa trên những tiêu
chuẩn của chính anh ta”. Sự hài lòng trong cuộc sống là một quá trình đánh giá
nhận thức chủ quan, nó có thể được định nghĩa là “một sự đánh giá tổng thể về
chất lượng cuộc sống của một cá nhân dựa trên những tiêu chuẩn của chính
anh ta”. Quá trình đánh giá về sự hài lòng dựa vào sự so sánh giữa thực trạng
đời sống của cá nhân với những gì mà cá nhân đó lựa chọn làm tiêu chuẩn để
đánh giá, nó hoàn toàn mang tính cá nhân chủ quan. Và việc các cá nhân hài
lòng hay không hài lòng với cuộc sống của mình là dựa vào sự so sánh của họ
trên cơ sở các chuẩn mực cụ thể chứ không phải trên các giá trị. Bởi các cá nhân
có thể chia sẻ một hệ thống giá trị cùng nhau (như cùng hướng đến những mong
đợi về sức khỏe, sự giàu có, sự thành đạt…) nhưng quan niệm hay chuẩn mực
riêng của các cá nhân về từng giá trị này lại không giống nhau.
Có 4 mức độ phân định sự hài lòng :
(1) Cảm giác dễ chịu, thỏa mãn: Tồn tại cảm giác thỏa mãn nhất thời với
những khía cạnh nhất định của cuộc sống, có thể về những khía cạnh vật chất
như đánh giá một món ăn ngon, hay khía cạnh tinh thần như tham dự một cuộc
đi chơi vui vẻ. Tinh thần của cái gọi là “chủ nghĩa khoái lạc” chính là quan niệm
về sự gia tăng tối đa những cảm giác thỏa mãn dạng này.
(2) Sự hài lòng mang tính bộ phận: việc trải qua những sự hài lòng (mang
tính ổn định) đối với từng giai đoạn, từng lĩnh vực của cuộc sống, ví như hài
lòng về công việc, về hôn nhân.
(3) Kinh nghiệm đỉnh cao: sự hài lòng thoáng qua về toàn bộ cuộc sống khi
những đánh giá tích cực tồn tại ở nhiều khía cạnh với mức độ cao tại cùng một
thời điểm.
(4) Sự hài lòng với cuộc sống: cảm giác thỏa mãn, hài lòng tồn tại lâu dài về

cuộc sống của một cá nhân.
3.2.2. Cơ sở của sự hài lòng
* Cơ sở tâm lý
Lý thuyết Nhu cầu với nền tảng là tháp nhu cầu của A. Maslow được xem
là một lý thuyết về động cơ tạo nền tảng cho những nghiên cứu về sự hài lòng
trong công việc nói riêng và sự hài lòng về cuộc sống nói chung. Dựa trên các
thang bậc từ cơ bản đến phức tạp của đời sống, các cá nhân sẽ có những mức độ
hài lòng khác nhau khi nhu cầu được đáp ứng ở những mức độ khác nhau.
Theo maslow, cuộc sống con người là việc đáp ứng các nhu cầu tất yếu như:
ăn ,ngủ nghỉ, hít thở … Như vậy , con người muốn có sự vui vẻ, bằng lòng thì
phải đáp ứng những nhu cầu cơ bản như trên.
Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc "thể lý"
(physiological) - thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở,
nghỉ ngơi.
Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn (safety) - cần có cảm giác yên tâm về an
toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.Khi đã có
đủ cơm ăn, áo mặc…cuộc sống của họ được duy trì thì họ lại mong muốn
được bảo vệ. Họ mong có được một cuộc sống an toàn,không có những
nguy hiểm, rủi ro cứ rình rập quanh họ. Đe doạ đến tính mạng, tài sản và
rất nhiều thứ khác. Đó là nhu cầu tránh sù nguy hiểm về thân thể và sự đe
doạ mất việc, tài sản, thức ăn hoặc nhà ở.
Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc
(love/belonging) - muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có
gia đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy.Đó là những cảm giác thân mật,
tình yêu và giao lưu trong tập thể, các nhóm và trong các mối quan hệ xã
hội, đồng nghiệp.Do con người là những thành viên của xã hội cho nên họ
cần phải ở trong xã hội đó và được những người khác chấp nhận. Khi cuộc
sống củahọ đã được bảo vệ an toàn họ lại muốn được giao lưu hoà nhập
cùng bạn bè, đồng nghiệp và xã hội và tận hưởng hương vị của cuộc sống.
Họ muốn được giao lưu với bốn phương để họ mở rộng thêm tri thức vốn

hiểu biết và mở rộng tầm nhìn của bản thân. Và khi con các nhu cầu xã hội
được thoả mãn thì chúng ta sẽ tìm tới nhu cầp cấp cao hơn nữa đó là nhu
cầu được kính trọng.
Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến (esteem) - cần có cảm
giác được tôn trọng, kinh mến, được tin tưởng. Đây là nhu cầu được vui
hưởng một địa vị cá nhân. Người ta cần có một địa vị trong đội ngũ. Địa vị
này cho phép chúng ta sống đúng bản chất của mình. Người ta tham gia
nhóm nhưng đồng thời còng muốn duy trì tính cách riêng của mình trong
vai trò là thành viên của nhóm.
Tầng thứ năm Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (self- actualization) -
muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình,
có được và được công nhận là thành đạt
* Về mặt xã hội là gì
3.2.3. Các phương pháp thể hiện sự hài lòng
- Phương án thể hiện sự hài lòng bằng nhận thức: Bao gồm việc thay đổi
cách diễn giải hoàn cảnh khó khăn của con người, vì thế có thể thay đổi
cách họ đáp lại hoàn hoàn cảnh
- Phương án thể hiện sự hài lòng bằng hành động: Bao gồm việc lên kế
hoạch, sắp xếp lại các công việc phải làm trước hoàn cảnh xảy ra nhằm làm
giảm đến mức tối thiểu những khó khăn gây ra cho bản thân. Phương án
này chủ yếu nằm trong nhóm phương án giải quyết vấn đề mà một số tác
giả đã đề cập ở trên, nó gắn chặt với việc lựa chọn và ra quyết định trên cơ
sở phân tích hình thành và tiềm năng, khă năng của bản thân, nó chú ý đến
toàn bộ hoàn cảnh khó khăn trong một tổng thể và những hành động của
bản thân theo một kế hoạch nhất định
- Phương án thể hiện sự hài lòng bằng con đường sinh lý: Là việc phản ánh
trực tiếp hướng về thể chất của bản thân trước hoàn cảnh khó khăn, stress
xảy ra (ví dụ: Sử dụng thuốc lá, rượu, ma tuý, vv…). Cách này chỉ có tác
dụng tạm thời vì nó không nhằm trực tiếp đến những vấn đề xảy ra.
- Phương án thể hiện sự hài lòng hướng tác nhân kích thích: Phương án

này hướng đến tác nhân kích thích nhằm cố gắng thu hẹp, hạn chế tiêu cực
của nguồn gây ra stress, có thể hạn chế được nguyên nhân của vấn đề, tiềm
năng của sự đe doạ cũng như giảm nhẹ được khả năng kéo dài của stress,
đẩy cách xoay quanh vấn đề xảy ra, timg hiểu kỹ lưỡng vấn đề, các nguyên
nhân phát sinh, những bước hành động để khắc phục nó, làm thay đổi hoặc
phát triển theo hướgn thuận lợi, gây tác hại ít hơn.
3.2.4. Quan niệm của tác giả về hài lòng
Theo chúng tôi, sự hài lòng là trạng thái của một người dựa vào kết quả so
sánh thứ người ta nhận được với những gì người đó kì vọng, đã đáp ứng được
nhu cầu và mong đợi của họ hay chưa.
3.2.5. Khảo sát sự hài lòng của học sinh về giáo dục gia đình và nhà trường
- Đề tài sẽ xử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi anket
+ Phương pháp phỏng vấn
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
3.2.6. Kết luận và kiến nghị
PHẦN IV – KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Anh
[1] Ed Diener et al, The satisfaction with life scale, Journal of Personality
Assessment, Vol 49. 1985
[2] Ruut Veenhoven, How do we assess how happy we are?, Paper
presented at conference on “New directions in the study of happiness:
United States and International perspectives”. University of Notre Dame,
USA, 2006
[3] Jussi Suikkanen (2011), An improved whole life satisfaction theory
of happiness. International Journal of Wellbeing, 1(1), 149-166.
doi:10.5502/ijw.v1i1.6
[4] Brockmann, H., Delhey, J., Welzel, C., Hao, Y. (In Press). The

China Puzzle: Falling Happiness in a Rising Economy. Journal of
Happiness Studies.
Tiếng Việt
[1] Phan Trọng Ngọc (2005), Các lí thuyết phát triển tâm lí người, NXB
ĐHSP HN.
[2] Phạm Viết Vượng (1998), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học,
NXB ĐHQG, HN.

×