Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Hoàn thiện khung định mức và quy trình lập dự toán điều tra thống kê có sử dụng ngân sách nhà nước.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.63 KB, 56 trang )

Mục lục
ĐỀ TÀI: HOÀN THIỆN KHUNG ĐỊNH MỨC VÀ QUI TRÌNH LẬP DỰ
TOÁN ĐIỀU TRA THỐNG KÊ CÓ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC

ĐẶT VẤN ĐỀ 3
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG KINH PHÍ 5
NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC 5
1 Ngân sách nhà nƣớc(NSNN) 5
1.1.Cơ cấu NSNN 5
1.2.Chức năng, vai trò của NSNN 5
1) Điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế 5
2. Tổ chức hệ thống NSNN 6
3. Phân cấp quản lý ngân sách 6
3.1. Phân định nguồn Thu giữa các cấp ngân sách 7
3.2 Phân định chi giữa các cấp ngân sách 7
4. Quá trình NSNN 8
4.1. Lập và phê chuẩn ngân sách 8
4.2. Chấp hành ngân sách 13
4.3. Quyết toán NSNN 13
4.4. Lập dự toán của ngành Thống kê 14
5. Những vấn đề về định mức 15
5.1. Những vấn đề chung về định mức kinh tế kỹ thuật 15
5.2. Những vấn đề chung về định mức tiền lƣơng, tiền công( lao động) 18
5.3. Định mức phân bổ ngân sách nhà nƣớc 18
II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG KINH PHÍ 24
1. Đặc điểm hoạt động của hệ thống thống kê nhà nƣớc Việt Nam 24
1.1 Tổ chức thống kê 24
1.2. Hoạt động thống kê và điều tra thống kê 24
1.3 Kinh phí cho điều tra thống kê 25
1.4. Phân loại các cuộc điều tra 25
1.5. Chƣơng trình điều tra thông kê 26


1.6. Lập dự toán cơ bản cho một cuộc điều tra 27
2. Định mức nhà nƣớc đối với các cuộc điều tra thống kê 28
2.1. Vận dụng các văn bản nhà nƣớc về định mức trong việc xác định khung
định mức điều tra thống kê. 28
2.2. Thực trạng khung định mức điều tra thống kê có sử dụng ngân sách nhà
nƣớc 29
2.3. Những tồn tại trong việc thực hiện định mức điều tra thống kê 30
III. HOÀN THIỆN KHUNG ĐỊNH MỨC VÀ QUY TRÌNH LẬP DỰ TOÁN
CÁC CUỘC ĐIỀU TRA THỐNG KÊ. 33
1. Xây dựng khung định mức 33
1.1 Mục tiêu và nguyên tắc xây dựng 33
1.2. Căn cứ để xây dựng định mức 33
1.3. Phƣơng pháp xây dựng định mức. 34

2
1.4. Định mức công của các cuộc điều tra 35
2. Qui trình lập dự toán các cuộc điều tra 41
2.1. Quy trình xây dựng dự toán các cuộc điều tra thống kê thƣờng xuyên và
theo chu kỳ 41
2.2 Xây dựng dự toán các cuộc Tổng điều tra có chu kỳ 5 năm, 10 năm 43
Phụ lục 1: Văn bản liên quan đến xây dựng dự toán điều tra thống kê và quản lý, sử
dụng, thanh quyết toán kinh phí điều tra thống kê 48
Phục Lục 2: Một số văn bản về định mức liên quan đến xây dựng dự toán điều tra
thống kê. 50
Phụ lục 3: Mẫu dự toán kinh phí điều tra 51
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 56



3

ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều tra thống kê là một công việc hết sức phức tạp và khó khăn, từ khâu
chuẩn bị phương án, tập huấn cho điều tra viên, thu thập số liệu, tổng hợp, phân
tích và công bố số liệu đòi hỏi rất công phu và tỉ mỉ; trong khí đó kinh phí chi trả
cho một số khâu rất thấp; một số cuộc điều tra do tính chất phức tạp, đòi hỏi người
thu thập số liệu phải có trình độ nhất định về nghiệp vụ thống kê mới có thể thực
hiện được, trong khi đó ở các địa phương trình độ điều tra viên có hạn, nếu sử
dụng cán bộ thống kê để tiến hành điều tra thì chỉ được thanh toán như đi công tác,
đây là một khó khăn lớn, trong khi vừa đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của
ngành, vừa đảm bảo không vi phạm chế độ quản lý tài chính.
Quản lý kinh phí điều tra thống kê là một nhiệm vụ hàng đầu của công tác
quản lý tài chính của ngành Thống kê. Việc sử dụng có hiệu quả kinh phí điều tra
thống kê là góp phần vào việc đảm bảo cung cấp số liệu thống kê có chất lượng,
đầy đủ thông tin, chính xác và kịp thời phục vụ yêu cầu quản lý vĩ mô đối với các
cấp, các ngành; dự báo các hiện tượng kinh tế - xã hội đạt hiệu quả cao.
Với tầm quan trọng như vậy, nhưng tính đến hiện nay chưa có công trình khoa
học nào chính thức và đầy đủ nghiên cứu về công tác xác định định mức các công
việc điều tra thống kê để làm căn cứ xây dựng dự toán các cuộc điều tra, đồng thời
là căn cứ cho việc quản lý, thanh, quyết toán kinh phí điều tra của cả Ngành. Tại
Tổng cục Thống kê đã có một số bài viết liên quan đến nội dung nghiên cứu của
đề tài như: “Công tác quản lý chi tài chính, tăng cường cơ sở vật chất của ngành
Thống kê” đăng trên Tạp chí Con số và Sự kiện số đặc biệt kỷ niệm 60 ngày thành
lập ngành Thống kê của Ô. Dương Danh Tôn - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính;
“Thực hiện khoán chi hành chính” đăng trên tạp chí Con số và Sự kiện số tháng
5/2007 của Ô. Phạm Hoài Nam - Chuyên viên Vụ Kế hoạch tài chính. Tuy nhiên,
những bài viết này chưa mang tính bao quát và cụ thể và đầy đủ đến các bước thực
thiện của một cuộc điều tra thống kê.
Để góp phần nâng cao chất lượng thông tin thống kê và thực hiện có hiệu quả
công tác quản lý tài chính, việc hoàn thiện khung định mức và qui trình lập dự
toán điều tra thống kê có sử dụng ngân sách là rất cần thiết.

Sau thời gian nghiên cứu, làm việc thực sự nghiêm túc, sử dụng các phương
pháp khoa học, kiểm chứng thực tế tại địa phương và đúc rút kinh những người
thực hiện Đề tài này đã đã đưa ra kết quả nghiên cứu của đề tài gồm: Khung định

4
mức công thu thập số liệu tại các địa bàn điều tra, tương ứng với đặc thù của từng
cuộc điều tra và khung dự toán đầy đủ nhất các công việc thực hiện của một cuộc
điều tra thống kê từ khâu chuẩn bị điều tra đến công bố số liệu sau khi kết thúc
điều tra. Đây là công trình khoa học của tập thể cán bộ Vụ Kế hoạch tài chính,
Tổng cục Thống kê có tính thực tiễn cao, được đưa vào áp dụng tại các địa phương
ngay trong năm 2008 và năm 2009.

5
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG KINH PHÍ
NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC

1 Ngân sách nhà nƣớc(NSNN)
Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua năm
1996 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của quốc gia
trong dự toán đã được cơ quan chính phủ có thẩm quyền quyết định và được thực
hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của chính
phủ
1.1.Cơ cấu NSNN
Cơ cấu ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách quy định tại điều 2 gồm
thu ngân sách và chi ngân sách
- Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản
thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá
nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
- Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ

của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
1.2.Chức năng, vai trò của NSNN
Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định
hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống
xã hộ
1) Điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế
Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới,
kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Trước hết, Chính
phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính
phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh
tế phát triển ổn định và bền vững. Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước
sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh
nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận
lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có
thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt
động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành
các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc
quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn
hảo.Trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể
được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn

6
định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông
qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách
nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế
sản xuất kinh doanh.
2) Giải quyết các vấn đề xã hội
Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn
cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho
các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính

sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt. Góp phần ổn định thị
trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả thị trường hàng hoá: nhà nước chỉ điều tiết
những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến lược, cơ chế
điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia, thị
trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ,
kiềm chế lạm phát; cùng với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ thích
hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
2. Tổ chức hệ thống NSNN
Hệ thống ngân sách nhà nước là tổng thể ngân sách của các cấp chính
quyền nhà nước, Tổ chức hệ thống ngân sách chịu tác động bởi nhiều yếu tố mà
trước hết đó là chế độ xã hội của một nhà nước và phân chia lãnh thổ hành chính.
Thông thường ở các nước hệ thống ngân sách được tổ chức phù hợp với hệ thống
hành chính. Ở nước ta với mô hình nhà nước thống nhất nên hệ thống ngân sách
được tổ chức theo hai cấp: ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp chính
quyền địa phương, trong đó ngân sách địa phương bao gồm các cấp ngân sách:
ngân sách thành phố (hay tỉnh), ngân sách quận (huyện), ngân sách xã (phường).
Hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam được tổ chức và quản lý thống nhất
theo nguyên tắc tập trung và dân chủ, thể hiện:
- Tính thống nhất: đòi hỏi các khâu trong hệ thống ngân sách phải hợp thành
một thể thống nhất, biểu hiện các cấp ngân sách có cùng nguồn thu, cùng định
mức chi tiêu và cùng thực hiện một quá trình ngân sách.
- Tính tập trung: thể hiện ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung
các nguồn thu lớn và các nhiệm vụ chi quan trọng. Ngân sách cấp dưới chịu sự chi
phối của ngân sách cấp trên và được trợ cấp từ ngân sách cấp trên nhằm đảm bảo
cân đối của ngân sách cấp mình.
- Tính dân chủ: Dự toán và quyết toán ngân sách phải được tổng hợp từ ngân
sách cấp dưới, đồng thời mỗi cấp chính quyền có một ngân sách và được quyền
chi phối ngân sách cấp mình.

3. Phân cấp quản lý ngân sách


7
Trong nền kinh tế thị trường ngân sách nhà nước trở thành công cụ quan
trọng giúp nhà nước điều hành nền kinh tế xã hộ Hoạt động của ngân sách nằm
trong sự vận động của thị trường. Tạo nguồn thu cho ngân sách phải gắn với mục
tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế, các khoản chi của ngân sách phải gắn với
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Do đó, việc xác
định cơ cấu thu chi của các cấp ngân sách cũng như phương pháp quản lý các cấp
ngân sách là rất cần thiết. Phân định nguồn thu và các khoản chi của mỗi cấp ngân
sách là nội dung cơ bản của phân cấp quản lý ngân sách nhằm tạo điều kiện về tài
chính cho chính quyền nhà nước các cấp tham gia vào quá trình tổ chức, huy động,
phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để thực hiện các chức
năng nhiệm vụ xác định. Khi phân cấp quản lý ngân sách cần phải tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản sau:
- Đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và vị trí độc lập của
ngân sách địa phương trong hệ thống ngân sách nhà nước thống nhất.
- Xác định cụ thể trách nhiệm và quyền hạn thu chi giữa các cấp ngân sách.
- Đảm bảo sự hợp lý và công bằng giữa các địa phương.
3.1. Phân định nguồn Thu giữa các cấp ngân sách
Có 4 phương pháp thực hiện phân phối nguồn thu giữa các cấp ngân sách:
* Phương pháp thu đủ chi đủ: nội dung của phương pháp này là toàn bộ số
thu và các nhiệm vụ chi của ngân sách đều do ngân sách trung ương đảm nhận.
Phương pháp này đảm bảo cho trung ương quyền chủ động nhưng hạn chế khả
năng sáng tạo của địa phương.
* Phương pháp khoán gọn: Trung ương giao cho địa phương được thu một số
khoản thu xác định để đảm bảo nhiệm vụ chi cho địa phương. Phương pháp này
khuyến khích địa phương quan tâm và bồi dưỡng nguồn thu của mình nhưng
không chú ý đến nguồn thu của trung ương.
* Phương pháp dự phần: Theo phương pháp này ngân sách địa phương được
hưởng một phần từ các khoản thu chung được xác định theo tỷ lệ phần trăm hay

còn gọi là tỷ lệ điều tiết. Phương pháp này khuyến khích địa phương quan tâm đến
khoản thu nhưng phân định nguồn thu giữa các cấp ngân sách rất phức tạp và hàng
năm phải điều chỉnh.
* Phương pháp hỗn hợp: Là phương pháp áp dụng hỗn hợp cả ba phương
pháp trên, nguồn thu của ngân sách địa phương bao gồm 3 phần chính: Các khoản
thu ổn định, các khoản thu điều tiết và các khoản trợ cấp từ ngân sách trung ương.
Theo luật Ngân sách Nhà nước Việt Nam (1996) và luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của luật Ngân sách Nhà nước VN (1998) phân định nguồn thu giữa
các cấp ngân sách của nước ta được thực hiên theo phương pháp hỗn hợp.
3.2 Phân định chi giữa các cấp ngân sách
Phân công quản lý nhà nước về kinh tế xã hội giữa các cấp chính quyền là
cơ sở để phân định chi giữa các cấp ngân sách. Trong cơ chế thị trường, nhà nước

8
sử dụng ngân sách nhà nước làm công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thì
phân cấp quản lý chi giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo các nguyên tắc:
- Ngân sách trung ương đảm nhận nhiệm vụ chi theo các chương trình quốc
gia hoặc các dự án phát triển nhằm hình thành thế cân đối cho nền kinh tế và tạo
môi trường thuận lợi kích thích quá trình tích tụ và đầu tư vốn cho sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp và dân cư.
- Ngân sách địa phương thực hiện các khoản chi gắn với việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương.

4. Quá trình NSNN

Quá trình ngân sách là một quá trình bao gồm 3 giai đoạn: lập và phê chuẩn
ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách. Quá trình ngân sách cho
thấy toàn bộ hoạt động của một ngân sách từ khi bắt đầu hình thành cho tới khi kết
thúc để chuyển sang ngân sách của năm tài chính mớ Thời gian của quá trình ngân
sách dài hơn so với năm tài chính (còn được gọi là năm ngân sách hay tài khoá)

điều đó được thể hiện ở chỗ giai đoạn lập và phê chuẩn ngân sách được bắt đầu
trước năm tài chính, giai đoạn quyết toán ngân sách được thực hiện sau năm tài
chính và trong năm tài chính là thời gian chấp hành ngân sách. Quá trình ngân
sách của nước ta được qui định trong luật Ngân sách Nhà nước.

4.1. Lập và phê chuẩn ngân sách
Mục tiêu của giai đoạn này là để xác định nhiệm vụ động viên, phân phối
tối ưu các nguồn vốn nhằm bảo đảm tính vững chắc, tính khả thi của ngân sách.
Giai đoạn này bao gồm:
1) Lập ngân sách (lập dự toán ngân sách)
Hàng năm vào thời điểm qui định trước khi năm tài chính bắt đầu Chính
phủ và Bộ Tài chính ra thông báo về yêu cầu, nội dung và hướng dẫn lập dự toán
ngân sách cho các bộ, ngành, các cấp. Các đơn vị căn cứ vào hướng dẫn của Bộ
Tài chính lập dự toán ngân sách cho đơn vị mình dựa trên hệ thống luật, định
hướng phát triển kinh tế xã hội của năm kế hoạch và các chính sách, định mức tài
chính.
Các Bộ, ngành và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố tổng hợp dự toán
ngân sách ở phạm vi mình quản lý gửi cho Bộ Tài chính. Bộ Tài chính sẽ xem xét
dự toán thu chi của các Bộ, ngành và địa phương, tính toán khả năng thu chi, các
giải pháp cân đối ngân sách và tổng hợp thành dự toán ngân sách của năm tài
chính trình Chính phủ. Chính phủ xem xét, thảo luận, điều chỉnh lại các khoản thu
chi nếu thấy cần thiết và trình Quốc hộ
+ Thời gian quy trình xây dựng dự toán ngân sách
Mọi quy trình dự toán ngân sách đều được kết thúc vào ngày cuối cùng của
một năm ngân sách nhưng thời điểm bắt đầu của mỗi nước lại có sự khác nhau, tạo
nên độ dài thời gian xây dựng dự toán ngân sách khác nhau. Quy trình dự toán

9
ngân sách của Việt Nam dài khoảng 6 đến 7 tháng nhưng ở các nước trong khu
vực thường là 10 đến 11 tháng.

Thời gian xây dựng dự toán ngân sách đủ dài và được quy định rõ ràng sẽ
tạo điều kiện thuận lợi về thời gian cho các cơ quan hữu quan nâng cao chất lượng
chuẩn bị, lập, thẩm tra, thảo luận dự toán ngân sách tốt hơn.
Khởi điểm quy trình dự toán ngân sách của Việt Nam khá muộn nên độ dài
quy trình dự toán ngân sách của Việt Nam ngắn hơn các nước. Nếu tính từ khi Chỉ
thị của Thủ tướng về xây dựng dự toán Ngân sách Nhà nước được ban hành thì
quy trình dự toán ngân sách Việt Nam bắt đầu từ 31/5; Nếu tính từ thời điểm Ủy
ban Thường vụ Quốc Hội (UBTVQH) cho ý kiến về định mức phân bổ, chế độ chi
ngân sách quan trọng thì thời điểm bắt đầu dự toán ngân sách từ 1/5. Trong khi đó,
Malaysia ban hành Thông tư hướng dẫn lập dự toán ngân sách ngày từ tháng thứ
nhất; Hướng dẫn dự toán ngân sách và chính sách của Thái Lan được ban hành
ngay từ tháng thứ 2; Hàn Quốc ban hành Hướng dẫn lập dự toán ngân sách từ
tháng thứ 3 hàng năm.
Quy định chính thức về thời điểm "xuất phát"của quy trình ngân sách như ở
Việt Nam là khá muộn so với thế giớ Thông thường, các nước quy định các công
việc chuẩn bị dự toán bắt đầu ngay từ tháng thứ hai của năm ngân sách hiện hành,
cá biệt có nước quy định ngay từ tháng đầu tiên, ngay sau khi dự toán vừa được
phê chuẩn.
+ Cơ quan chủ trì và phối hợp lập dự toán ngân sách
Tất cả các nước đều quy định một cơ quan cấp bộ chủ trì việc chuẩn bị và
soạn lập dự toán ngân sách, nhưng không nhất thiết đó phải là Bộ Tài chính.
Không có Bộ Tài chính nước nào đứng ngoài cuộc nhưng không phải Bộ Tài
chính tất cả các nước đều là cơ quan chủ trì soạn lập dự toán ngân sách.Bộ Tài
chính các nước đều chịu trách nhiệm về các chính sách, chế độ thu, chi tài chính
của nhà nước và đảm nhiệm phần thu ngân sách. Phần dự toán chi ngân sách có
thể do Bộ Tài chính, hoặc một cơ quan cấp bộ độc lập với Bộ Tài chính đảm
nhiệm, hoặc do Bộ Tài chính phối hợp với các bộ khác đảm nhiệm.
Tại Việt Nam, Bộ Tài chính chủ trì về tổng dự toán Ngân sách Nhà nước
nhưng vai trò của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng không kém phần quan trọng.
Trong đó: (i) Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

lập dự toán Ngân sách Nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương;
Quản lý và chỉ đạo thu Ngân sách Nhà nước; Tổ chức chấp hành ngân sách; Lập
quyết toán ngân sách trung ương và quyết toán Ngân sách Nhà nước. Bộ Tài chính
chịu trách nhiệm về các công việc hạch toán, kế toán, quyết toán thu, chi Ngân
sách Nhà nước, chịu trách về các chính sách, chế độ tài chính; () Bộ Kế hoạch và
Đầu tư chuẩn bị kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Phối hợp với Bộ Tài chính
lập dự toán Ngân sách Nhà nước; Lập phương án phân bổ ngân sách trung ương
trong lĩnh vực phụ trách theo phân công của Chính phủ (phần chi đầu tư); (i) Ngân

10
hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng chiến lược, kế hoạch vay nợ,
trả nợ trong nước và ngoài nước, xây dựng và triển khai thực hiện phương án vay
để bù đắp bội chi Ngân sách Nhà nước.
Tại Malaysia, Bộ Tài chính là một "siêu bộ". Thủ tướng Malaysia kiêm
chức Bộ trưởng Bộ Tài chính, trực tiếp nắm quyền lực cao nhất trong Bộ Tài chính.
Ngoài ra, có một Bộ trưởng khác đảm nhiệm điều hành Bộ Tài chính. Bộ Tài
chính Malaysia chủ trì việc soạn lập dự toán ngân sách, Kho bạc liên bang (trực
thuộc Bộ Tài chính), ngoài các nhiệm vụ quản lý ngân quỹ còn là cơ quan chủ lực
của Bộ Tài chính trong các khâu chuẩn bị, hướng dẫn, soạn thảo dự toán ngân sách
hàng năm.
Tại Thái Lan, có 4 cơ quan chịu trách nhiệm về dự toán ngân sách. Trong
đó: (i) Cục Ngân sách trực thuộc Nội các là cơ quan chủ trì soạn thảo, phân bổ dự
toán chi ngân sách; () Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về các chính sách tài chính,
phần thu ngân sách, phối hợp tham gia các chính sách kinh tế, tiền tệ và dự toán
chi ngân sách; (i) Uỷ ban Phát triển Kinh tế - Xã hội Quốc gia soạn thảo kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, ngắn hạn; tham gia dự thảo dự toán và phân bổ
ngân sách; (iv) Ngân hàng Thái Lan (Ngân hàng TW) chịu trách nhiệm về các
chính sách tiền tệ, tham gia dự thảo dự toán ngân sách.
Tại Hàn Quốc, Bộ Kế hoạch và Ngân sách chủ trì soạn thảo dự toán và các
phương án phân bổ ngân sách; Bộ Kinh tế - Tài chính, chủ trì soạn thảo kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, ngắn hạn, tham gia dự thảo dự toán và phân bổ
ngân sách, chịu trách nhiệm chính đối với thu ngân sách và các chính sách tài
chính.
Mỗi mô hình lập dự toán ngân sách nhà nước có những điểm mạnh, điểm
yếu riêng. Việc tập trung một đầu mối như Malaysia có nhược điểm về tính "độc
đoán" nhưng nó có ưu điểm lớn trong việc quản lý, chỉ đạo lập ngân sách thống
nhất, dễ dàng hơn, cung cấp cái nhìn toàn diện về ngân sách trên cơ sở nắm chắc
nguồn thu, tạo cơ sở tốt cho việc bố trí sử dụng (chi) ngân sách. Mức độ tập trung
và sự phối hợp giữa nguồn và sử dụng nguồn được đẩy mạnh hơn, hiệu quả hơn.
Từ đó thực hiện được các ý đồ chính trị, kinh tế, xã hội mà các cấp lãnh đạo cao
nhất của đất nước mong muốn. Kết quả là trong 20 năm qua đã mang lại sự trong
sạch và hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước, hiệu quả chi tiêu công nói
chung và hiệu quả sử dụng ngân sách nói riêng ở Malaysia là rất đáng kể, được thế
giới đánh giá cao.
Việc dành riêng một cơ quan độc lập với Bộ Tài chính soạn lập dự toán chi
ngân sách (Thái Lan, Hàn Quốc) hoặc để "nhiều đầu mối" cùng làm dự toán, có ưu
điểm nâng cao mức độ chuyên môn hóa khi xây dựng ngân sách nhưng cũng kéo
theo sự cồng kềnh trong quy trình ngân sách; hiệu quả phối hợp cân đối thu, chi
không cao. Nếu ở đâu thiếu tập quán, thói quen về sự phối hợp, cộng tác thì trong
thực tiễn sẽ gặp nhiều khó khăn. Đó cũng là nguyên nhân của sự thiếu thống nhất
trong cả chuyên môn và trong chỉ đạo điều hành ngân sách.

11
+ Hướng dẫn lập dự toán
Hướng dẫn lập dự toán ngân sách (do cơ quan chủ trì soạn lập dự toán ngân
sách ban hành) mở ra định hướng, quy định các giới hạn trần thu, chi, bội chi ngân
sách, chỉ rõ các quyết sách lớn về kinh tế, tài chính sẽ triển khai trong năm tớ
Trong hướng dẫn lập dự toán cũng có những phân tích, đánh giá tình hình, bối
cảnh, xu hướng kinh tế, tài chính, ngân sách trong nước và nước ngoài, đó là
những căn cứ quan trọng để các cấp, các ngành xây dựng dự toán ngân sách của

mình. Hướng dẫn lập dự toán luôn có những nội dung cơ bản như:
- Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân
sách năm hiện hành;
- Dự báo về tình hình kinh tế, tình hình thu, chi ngân sách cho khoảng thời
gian còn lại của năm hiện hành và năm tiếp theo;
- Định hướng xây dựng dự toán ngân sách năm tiếp theo;
* Tại Việt Nam: Căn cứ để lập dự toán ngân sách nhà nước hàng năm là:
- Nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng;
- Nhiệm vụ cụ thể của các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
cơ quan khác ở Trung ương, địa phương;
- Chính sách, chế độ thu ngân sách nhà nước; định mức phân bổ ngân sách
nhà nước, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách;
- Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách năm sau; Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài
chính về việc lập dự toán ngân sách; Thông tư hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch vốn đầu tư phát triển
thuộc ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn của uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh;
- Số kiểm tra về dự toán thu, chi ngân sách nhà nước do Bộ Tài chính thông
báo và số kiểm tra về dự toán chi đầu tư phát triển do Bộ Kế hoạch và đầu tư
thông báo cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác
ở trung ương và uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ủy
ban nhân dân cấp trên thông báo số kiểm tra cho các đơn vị trực thuộc và uỷ ban
nhân dân cấp dưới;
- Tình hình thực hiện ngân sách các năm.
+ Yêu cầu đối với lập dự toán ngân sách hàng năm:
- Dự toán ngân sách nhà nước và dự toán ngân sách các cấp chính quyền
phải tổng hợp theo từng lĩnh vực thu, chi và theo cơ cấu giữa chi thường xuyên,
chi đầu tư phát triển, chi trả nợ; khi lập dự toán ngân sách nhà nước phải đảm bảo
tổng số thu thuế và phí, lệ phí phải lớn hơn chi thường xuyên;


12
- Dự toán ngân sách của đơn vị dự toán các cấp phải lập theo đúng nội dung,
biểu mẫu, thời hạn và phải thể hiện đầy đủ các khoản thu, chi theo Mục lục Ngân
sách Nhà nước và hướng dẫn của Bộ Tài chính;
- Hướng dẫn lập dự toán ngân sách nhà nước và thông báo số kiểm tra hàng
năm;
- Trước ngày 31/5, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về việc xây dựng
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm sau;
- Căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, trước ngày 10/6, Bộ Tài
chính ban hành Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời hạn lập dự toán
ngân sách nhà nước và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách với tổng mức
và từng lĩnh vực thu, chi ngân sách đối với các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ.
Đối với các nước như Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, các hướng dẫn lập dự
toán đều mang tính định hướng cao (nhất là ở những nước thực hiện quản lý ngân
sách dựa theo kết quả đầu ra). Việc bố trí ngân sách luôn bám sát Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội dài hạn và ngắn hạn, các nước quản lý ngân sách theo mô
hình kết quả đầu ra phải xây dựng Khung khổ tài chính trung hạn, Khung khổ
ngân sách trung hạn chung cho cả nước và Khung khổ chi tiêu trung hạn cho từng
bộ chi tiêu. Những khung khổ đó là những tầm nhìn vĩ mô trung hạn (2, 3 năm) về
tình hình kinh tế, tài chính, của cả nước cũng như của một ngành, một lĩnh vực.

2) Phê chuẩn ngân sách
Dự toán ngân sách nhà nước trước hết sẽ được Ủy ban kinh tế và Ngân sách
của Quốc hội nghiên cứu, xem xét, điều chỉnh và trình Quốc hộ Quốc hội sẽ thảo
luận dự toán ngân sách nhà nước về các nội dung: điều chỉnh tăng, giảm các khoản
thu trên cơ sở sửa đổi luật thuế, điều chỉnh tăng, giảm các khoản chi dựa trên các
giải pháp bảo đảm cân đối ngân sách. Sau khi thảo luận và thông qua Quốc hội ra
Nghị quyết phê chuẩn Dự toán Ngân sách Nhà nước và dự toán ngân sách nhà

nước trở thành một đạo luật của nhà nước mà mọi pháp nhân và thể nhân trong xã
hội đều có trách nhiệm thực hiện.
Để ban hành được Hướng dẫn lập dự toán, cơ quan chủ trì dự toán ngân
sách phải tổ chức nhiều cuộc thảo luận với các bộ và các đơn vị liên quan. Tại
Thái Lan, việc thảo luận này được tiến hành khá kỹ giữa Cục Ngân sách trực thuộc
Nội các (chủ trì soạn thảo dự toán) với Bộ Tài chính (chủ trì thu ngân sách và
chính sách tài chính), Uỷ ban Phát triển Kinh tế - Xã hội Quốc gia (chủ trì kế
hoạch kinh tế - xã hội) và Ngân hàng Thái Lan (chủ trì chính sách tiền tệ). Thông
qua các thảo luận đó, những vấn đề kinh tế - xã hội, những vấn đề về tài chính,
tiền tệ luôn được thảo luận kỹ càng, có sự phối hợp chặt chẽ, tạo ra những căn
cứ tốt cho cơ quan chủ trì soạn lập ngân sách đưa vào trong hướng dẫn lập dự toán.
Đó cũng chính là cơ sở đảm bảo gắn kết việc thiết lập dự toán ngân sách, gắn kết

13
việc phân bổ, sử dụng ngân sách với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị,
xã hộ

3) Công bố ngân sách nhà nƣớc
Sau khi dự toán ngân sách nhà nước được Quốc hội phê chuẩn sẽ được
chuyển sang cho nguyên thủ quốc gia: Chủ tịch nước để công bố và giao cho
Chính phủ thực hiện bằng cách uỷ nhiệm cho Bộ Tài chính giao các chỉ tiêu pháp
lệnh về thu và chi ngân sách cho từng bộ và từng địa phương để thi hành.

4.2. Chấp hành ngân sách

Dự toán ngân sách được phê chuẩn và được thực hiện khi năm tài chính bắt
đầu. Nội dung của giai đoạn này là tập trung đầy đủ, kịp thời mọi nguồn thu vào
ngân sách và cấp phát cho các nhiệm vụ chi đã xác định nhằm động viên, phân
phối và sử dụng các nguồn tài chính của xã hội để thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội trong năm tài chính. Chấp hành ngân sách bao gồm chấp hành

thu ngân sách nhà nước và chấp hành chi ngân sách nhà nước.
- Chấp hành thu ngân sách nhà nước: là quá trình tổ chức và quản lý nguồn
thu của ngân sách nhà nước. Hệ thống tổ chức thu ngân sách hiện nay ở nước ta có
các cơ quan thuế và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ thu, các cơ quan này có
trách nhiệm kiểm soát các nguồn thu ngân sách nhà nước, xác định và thông báo
số phải nộp cho các pháp nhân và thể nhân. Cơ quan tài chính, kho bạc nhà nước
phối hợp với ngành thuế và các cơ quan được giao nhiệm vụ thu để tổ chức thực
hiện thu nộp cho ngân sách nhà nước và trích chuyển kịp thời các khoản thu giữa
các cấp ngân sách nhà nước theo qui định.
- Chấp hành chi ngân sách nhà nước: là quá trình tổ chức và quản lý các
khoản chi của ngân sách nhà nước, tham gia vào chấp hành chi ngân sách gồm có
các đơn vị sử dụng vốn ngân sách. Việc cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước được
thực hiện theo qui định:
* Căn cứ vào dự toán ngân sách được giao, các đơn vị thụ hưởng lập kế
hoạch chi gửi cơ quan tài chính cùng cấp và kho bạc nhà nước nơi giao dịch để
được cấp phát.
* Cơ quan tài chính xem xét kế hoạch chi của đơn vị, căn cứ vào khả năng
của ngân sách để bố trí số chi hàng quý thông báo cho đơn vị thụ hưởng và kho
bạc nhà nước để thực hiện.

4.3. Quyết toán NSNN

Nội dung của giai đoạn này là nhằm phản ảnh, đánh giá và kiểm tra lại quá
trình hình thành và chấp hành ngân sách nhà nước. Sau khi kết thúc năm tài chính,
các đơn vị sử dụng vốn ngân sách nhà nước phải khoá sổ kế toán và lập quyết toán
ngân sách nhà nước theo số thực thu, thực chi theo hướng dẫn của Bộ tài chính.

14
Căn cứ vào hướng dẫn của Bộ Tài chính các đơn vị thụ hưởng ngân sách
lập quyết toán thu, chi của đơn vị mình gửi cơ quan quản lý cấp trên, số liệu quyết

toán phải được đối chiếu và được kho bạc nhà nước nơi giao dịch xác nhận. Thủ
trưởng các cơ quan nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, xử lý quyết toán thu, chi
ngân sách của các đơn vị trực thuộc, lập quyết toán thu, chi ngân sách thuộc phạm
vi mình quản lý gửi cho cơ quan tài chính cùng cấp. Cơ quan tài chính các cấp ở
địa phương xét duyệt quyết toán thu chi ngân sách của các cơ quan cùng cấp, thẩm
tra quyết toán ngân sách cấp dưới, tổng hợp lập quyết toán ngân sách địa phương
trình uỷ ban nhân dân cùng cấp để uỷ ban nhân dân cùng cấp xem xét trình hội
đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn và gởi cho Bộ tài chính.
Bộ Tài chính kiểm tra xem xét quyết và tổng hợp quyết toán thu, chi ngân
sách của các bộ, ngành ở trung ương và địa phương, sau đó tổng hợp và lập tổng
quyết toán ngân sách nhà nước trình Chính phủ để Chính phủ đệ trình Quốc hộ
Quốc hội sau khi nghe báo cáo kiểm tra của cơ quan Tổng kiểm toán quốc gia sẽ
xem xét và phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước.
4.4. Lập dự toán của ngành Thống kê
Sau khi có Thông tư hướng dẫn lập dự toán kinh phí của Bộ Tài chính,
Tổng cục Thống kê hướng dẫn các đơn vị cấp dưới và các Vụ nghiệp vụ của Tổng
cục lập dự toán chi ngân sách nhà nước gửi về Vụ Kế hoạch tài chính (Tổng cục
Thống kê). Trên cơ sở những bảng dự toán năm của đơn vị và dự toán kinh phí
điều tra của các vụ nghiệp vụ, Vụ Kế hoạch tài chính sẽ tiến hành xem xét, thẩm
định dự toán của các đơn vị trực thuộc, sau đó tổng hợp để lập dự toán chi ngân
sách nhà nước toàn ngành gửi Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bảng dự
toán của các đơn vị cấp dưới bao gồm:
+ Phần thu ngân sách nhà nước
- Thu của các đơn vị hoạt động sự nghiệp gồm thu phí, lệ phí và các khoản
thu khác.
+ Phần chi ngân sách nhà nước
Chi cho lĩnh vực quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, khoa học quản lý
giáo dục, sự nghiệp nghiên cứu khoa học và chương trình mục tiêu.
- Kinh phí định mức theo biên chế và khu vực: Các đơn vị căn cứ vào kế
hoạch biên chế được Tổng cục giao và Định mức phân bổ kinh phí theo khu vực

vung miền đã được quy định tại quyết định ban hành định mức phân bổ dự toán
của Tổng cục để lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nước
- Kinh phí ngoài định mức bao gồm kinh phí mua sắm tài sản, trang thiết bị
làm việc và kinh phí sửa chữa trụ sở cấp tỉnh, huyện, sửa chữa ô tô, máy móc thiết
bị: các đơn vị căn cứ vào nhu cầu thực tế của mình, căn cứ vào thời gian đầu tư
hoàn thành đưa vào sử dụng (đối với công trình đầu tư XDCB), thời gian mua sắm
tài sản trước đó để làm cơ sở lập dự toán và thuyết minh khoản kinh phí ngoài

15
định mức. Để lập dự toán phần kinh phí này các đơn vị phải thuyết minh rõ thời
gian đưa vào sử dụng, hiện trạng sử dụng và nhu cầu thực tế của mình.
- Kinh phí điều tra thường xuyên, định kỳ và kinh phí các cuộc Tổng điều
tra (nếu có): Căn cứ vào chương trình công tác và nhiệm vụ chuyên môn được
giao, phương án các cuộc điều tra và quy mô, kích cỡ mẫu điều tra và chế độ tài
chính hiện hành (chế độ công tác phí, hội nghị phí,…) để lập dự toán kinh phí điều
tra, chi tiết theo từng cuộc điều tra. Đối với các cuộc Tổng điều tra, việc lập dự
toán được thực hiện theo Thông tư hướng dẫn riêng của Bộ Tài chính.
- Kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu.
Trên cơ sở các bảng dự toán năm của 73 đơn vị trực thuộc, Vụ Kế hoạch tài
chính thẩm định và tổng hợp để lập tổng dự toán ngân sách nhà nước cả năm của
ngành Thống kê.

5. Những vấn đề về định mức
5.1. Những vấn đề chung về định mức kinh tế kỹ thuật
Định mức kinh tế kỹ thuật là các tiêu chuẩn, các chỉ tiêu được quy định
thống nhất đối với việc sản xuất, dự trữ, sử dụng, lưu thông các loại nguyên, nhiên
vật liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng và các sản phẩm hàng hoá trong nền kinh tế
quốc dân. Trong đó có cả mức tiêu dùng nguyên vật liệu (thường gọi là định mức
tiêu dùng vật tư) và mức sử dụng máy móc thiết bị, các tiêu chuẩn về nguyên,
nhiên vật liệu và sản phẩm, các tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm và quản lý

chất lượng như ISO, HACCP, SA 800…Hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật trong
nền kinh tế quốc dân bao gồm nội dung kinh tế-kỹ thuật sau:
- Định mức tiêu dùng nguyên vật liệu, bao gồm định mức tiêu dùng kim
loại, định mức tiêu dùng gỗ, định mức tiêu dùng vật liệu xây dựng, định mức tiêu
dùng bông, sợi, hàng dệt,…
- Định mức tiêu dùng nhiên liệu, điện năng, bao gồm định mức tiêu dùng
điện năng, định mức tiêu dùng xăng dầu, định mức tiêu dùng than,…
- Định mức tiêu dùng các sản phẩm hoá chất, bao gồm định mức tiêu dùng
axit, định mức tiêu dùng bazơ, định mức tiêu dùng sơn, định mức tiêu dùng chất
dẻo,…
- Định mức sử dụng máy móc thiết bị, bao gồm định mức sử dụng thời gian,
định mức sử dụng theo công suất
- Tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm, bao gồm tiêu chuẩn quốc gia (TCVN), tiêu
chuẩn cơ sở,…
- Quản lý chất lượng sản phẩm bao gồm quản lý chất lượng theo ISO-9000,
quản lý chất lượng theo HACCP, quản lý chất lượng theo SA 8000, quản lý chất
lượng theo TQM,…

16
- Các quy định của Chính phủ về việc sản xuất, lưu thông, tiêu dùng các sản
phẩm bao gồm các quy định về việc cấm sản xuất, lưu thông, sử dụng, các quy
định về việc sản xuất, lưu thông có điều kiện, các quy định trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh về tiêu chuẩn chất lượng, về vệ sinh an toàn, về bảo vệ môi
trường…
Định mức kinh tế kỹ thuật phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
- Bảo đảm là căn cứ tương đối chính xác để xây dựng và thực hiện tốt kế
hoạch, quản lý kinh tế, tài chính và quản lý kỹ thuật;
- Phù hợp với các điều kiện tổ chức - kỹ thuật của từng thời kỳ kế hoạch;
- Bảo đảm sự thống nhất giữa các loại định mức và phương pháp xây dựng
định mức.

Định mức được chia thành các loại sau đây:
- Định mức Nhà nước áp dụng chung cho các ngành, các cấp, được quy
định cho những sản phẩm (công việc) chủ yếu, do Nhà nước thống nhất quản lý,
có liên quan đến các cân đối chung của nền kinh tế quốc dân.
- Định mức áp dụng trong từng ngành, được quy định cho những sản phẩm
(công việc) khi chưa có định mức Nhà nước, khi cần cụ thể hóa định mức Nhà
nước, hoặc cho những sản phẩm (công việc) của ngành được phân cấp quản lý.
- Định mức tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc trung ương (sau đây gọi
tắt là tỉnh) áp dụng trong phạm vi tỉnh, được quy định cho những sản phẩm (công
việc) khi chưa có định mức Nhà nước, định mức ngành; khi cần cụ thể hóa định
mức Nhà nước, định mức ngành; hoặc cho những sản phẩm (công việc) của tỉnh,
được phân cấp quản lý.
- Định mức huyện, quận và thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh (sau đây gọi tắt
là huyện) áp dụng trong phạm vi huyện được quy định cho những sản phẩm (công
việc) khi chưa có định mức Nhà nước, định mức ngành, định mức tỉnh, thành phố;
khi cần cụ thể hoá định mức của cấp trên, hoặc cho những sản phẩm (công việc)
của huyện được phân cấp quản lý.
- Định mức đơn vị cơ sở áp dụng trong từng đơn vị cơ sở được quy định
cho những sản phẩm (công việc) khi chưa có định mức Nhà nước, định mức ngành
(đối với xí nghiệp quốc doanh trung ương), định mức địa phương (đối với xí
nghiệp quốc doanh địa phương); khi cần cụ thể hoá định mức của cấp trên; hoặc
cho những sản phẩm (công việc) của đơn vị cơ sở sản xuất được phân cấp quản lý.
Định mức là căn cứ pháp lý để tiến hành các công việc sau đây;
- Xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch;
- Phân phối và cung ứng vật tư, lao động, tiền vốn ;
- Xác định giá thành và giá chỉ đạo của Nhà nước;

17
- Đánh giá việc thực hiện kế hoạch; xem xét chất lượng sản phẩm (công
việc); xét thưởng hoặc phạt đối với các đơn vị hoặc cá nhân trong việc thực hiện

kế hoạch.
Đối với lĩnh vực xây dựng cơ bản: Định mức dự toán xây dựng cơ bản (gọi
tắt là định mức dự toán) là định mức kinh tế - kỹ thuật xác định mức hao phí cần
thiết về vật liệu, lao động và máy thi công để hoàn thành một đơn vị khối lượng
công tác xây lắp tương đối hoàn chỉnh như 1m3 tường gạch, 1m2 lát gạch, 1m2
mái nhà v.v từ khâu chuẩn bị đến khâu kết thúc công tác xây lắp (kể cả những hao
phí cần thiết do yêu cầu kỹ thuật và tổ chức sản xuất nhằm đảm bảo thi công xây
lắp liên tục, đúng quy trình, quy phạm kỹ thuật)
Căn cứ để lập định mức dự toán là các định mức sản xuất (còn gọi là định
mức thi công) về sử dụng vật liệu, lao động, máy thi công trong xây dựng cơ bản.
Các quy chuẩn xây dựng, quy phạm kỹ thuật về thiết kế - thi công - nghiệm thu;
mức cơ giới hoá chung trong ngành xây dựng; tình hình trang thiết bị kỹ thuật, tổ
chức lực lượng của các đơn vị xây lắp, cũng như kết quả đưa áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong xây dựng thời gian vừa qua như sử dụng các vật liệu mới, cao
cấp, thiết bị và công nghệ thi công tiên tiến.
Định mức dự toán bao gồm mức hao phí vật liệu, mức hao phí lao động,
mức hao phí máy thi công. Mức hao phí vật liệu chính được tính bẳng số lượng
theo đơn vị thống nhất của nhà nước, mức hao phí vật liệu phụ khác được tính
bằng % tính trên chi phí vật liệu chính; Mức hao phí lao động chính và phục được
tính bằng số ngày công theo cấp bậc của công nhân trực tiếp xây lắp bình quân;
Mức hao phí máy thi công chính được tính bằng số lượng ca máy sử dụng, mức
hao phí máy thi công phụ khác được tính bằng tỷ lệ % trên chi phí sử dụng máy
chính.
Định mức dự toán được áp dựng để lập đơn giá xây dựng, làm cơ sở để lập
dự toán xây lắp công trình xây dựng cơ bản thuộc các dự án đầu tư xây dựng.
Đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh: Mục đích của hoạt động sản xuất
kinh doanh là đảm bảo hiệu quả cao, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc gia
và quốc tế với chi phí kinh doanh thấp được thị trường chấp nhận. Muốn đạt được
mục đích ấy, trong sản xuất kinh doanh phải xây dựng các định mức, các tiêu
chuẩn chất lượng của nguyên vật liệu, máy móc thiết bị phụ tùng,…Để đảm bảo

nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo cho sản xuất phát triển liên tục, đều đặn,
có hiệu quả cao, việc xây dựng các tiêu chuẩn kinh tế- kỹ thuật được coi là yếu tố
cơ bản nhất để đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo sản xuất kinh
doanh phát triển nhịp nhàng, cân đối, tiết kiệm. Ngày nay định mức kinh tế kỹ
thuật được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các định
mức kinh tế-kỹ thuật dùng làm căn cứ cho việc xác định nhu cầu nguyên vật liệu,
cho việc quản lý sử dụng, cho việc kiểm tra sản phẩm trong sản xuất, lưu thông,
tiêu dùng của nền kinh tế. Trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các
định mức kinh tế-kỹ thuật có một vị trí vô cùng quan trọng. Nó vừa là chỉ tiêu, là

18
yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị sản xuất kinh doanh; vừa là các căn cứ để tổ chức sản
xuất kinh doanh, vừa là mục tiêu cần phải đạt được trong sản xuất của từng công
nhân và của cả đơn vị. Việc áp dụng các định mức kinh tế-kỹ thuật vào việc sản
xuất sản phẩm bắt buộc doanh nghiệp phải áp dụng quy trình công nghệ, thiết kế
sản phẩm bảo đảm theo các chỉ tiêu, tiêu chuẩn, các yêu cầu kỹ thuật công nghệ đã
xác định. Các chỉ tiêu, tiêu chuẩn, các yêu cầu kỹ thuật công nghệ ấy cũng là căn
cứ để kiểm tra, đánh giá kết quả và hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
Các định mức kinh tế-kỹ thuật chẳng những là các căn cứ của công tác kế
hoạch hoá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn là căn cứ kỹ
thuật trong tổ chức sản xuất-tiêu dùng nguyên vật liệu và kiểm tra chất lượng sản
phẩm. Không có định mức kinh tế-kỹ thuật thì không thể sản xuất ra sản phẩm có
chất lượng cao, đồng đều và ổn định, cũng như không thể tổ chức sản xuất và quản
lý sản xuất một cách khoa học, hợp lý và tiết kiệm.

5.2. Những vấn đề chung về định mức tiền lƣơng, tiền công( lao động)
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần của xã hộ Để xác định được giá trị của lao động trên
cơ sở thực tiễn xác định thời gian hao phí và khả năng trình độ chuyên môn bình
quân để xây dựng định mức,

- Định mức tiền lương cho cán bộ công chức, viên chức,
Cán bộ công chức được hưởng tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, công
vụ được giao, nhà nước đã ban hành chi tiết hoá các thang, bảng lương cho cán bộ,
công chức, viên chức thuộc các lĩnh vực và các ngành nghề hoạt động thực hiện.
- Định mức lao động trong sản xuất
Định mức lao động trong doanh nghiệp nhà nước là cơ sở để kế hoạch hoá
lao động, tổ chức sử dụng lao động phù hợp với quy trình công nghệ, nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; là cơ sở để xây dựng đơn giá tiền lương và
trả lương gắn với năng suất chất lượng và kết quả công việc của người lao động,
định mức được xây dựng trên cơ sở; kiến thức và kỹ năng; trí lực; thể lực và
cường độ lao động; môi trường; trách nhiệm trên cơ sở đó thiết lập, thang, bậc
lương để đơn vị trả lương theo thời gian hoặc sản phẩm nhằm khuyến khích sản
xuất phát triển.
5.3. Định mức phân bổ ngân sách nhà nƣớc
Ngân sách nhà nước là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ
"Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi
quốc gia, ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong
một giai đoạn nhất định của quốc gia. Ở nước ta Luật Ngân sách Nhà nước đã
được Quốc hội Việt nam thông qua năm 1996 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là
toàn bộ các khoản thu, chi của quốc gia trong dự toán đã được cơ quan chính phủ

19
có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ của chính phủ.
Ngân sách nhà nước có vai trò là một công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế
xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều
chỉnh đời sống xã hộ
Chi Ngân sách nhà nước là một trong hai nội dung cơ bản của hoạt động
ngân sách nhà nước. Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ
ngân sách nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm trang trải cho

các chi phí của nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội mà
nhà nước đảm nhận. Chi Ngân sách nhà nước là sự phối hợp giữa hai quá trình
phân phối và sử dụng
Sau khi ban hành Luật Ngân sách nhà nước năm 1996, Chính phủ đã ban
hành Hệ thống định mức làm cơ sở phân bổ ngân sách. Cho đến nay, Chính phủ đã
ban hành các Quyết định số 139/2003/QĐ-TTg, 151/2006/QĐ-TTg để làm cơ sở
phân bổ ngân sách nhà nước và các định mức này thường xuyên sửa đổ Những
định mức được tiêu chuẩn hóa và áp dụng cho các mục chi trong các lĩnh vực quản
lý hành chính, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường ,dựa vào hệ thống
định mức, chính quyền địa phương dự toán nhu cầu chi tiêu và phân bổ nguồn lực
tài chính. Có thể nói, phương pháp xác lập hệ thống định mức chi tiêu là một yếu
tố vô cùng quan trọng trong việc xác định hiệu quả về phân bổ và hiệu quả về mặt
kỹ thuật trong chi tiêu công.
Như chúng ta đã biết, năm 2006 là năm kết thúc một “thời kỳ ổn định”
ngân sách giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương (2004-2006). Theo
qui định của Luật Ngân sách nhà nước, từ năm 2007 sẽ bắt đầu thời kỳ ổn định
mới (2007-2009).
* Định mức phân bổ ngân sách nhà nƣớc theo Quyết định số
139/2003/QĐ- TTg ngày 11/7/2003 của Thủ tƣớng Chính phủ
Quyết định này quy định về định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên
của ngân sách nhà nước cho các bộ, ngành, cơ quan trung ương và các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương làm căn cứ quan trọng để xây dựng dự toán chi thường
xuyên và xác định tổng mức chi thường xuyên cho các Bộ, cơ quan Trung ương và
các địa phương. Định mức phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước quy định tại
Điều 1 của Quyết định này đã bao gồm tiền lương theo quy định tại Nghị định số
03/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2003 của Chính phủ là cơ sở để xây dựng
dự toán chi ngân sách của từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
các cơ quan khác ở Trung ương, dự toán chi ngân sách của từng tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (bao gồm cấp tỉnh, huyện và cấp xã). Đối với các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương khi thực hiện định mức này mà dự toán chi năm

2004 thấp hơn mức dự toán chi năm 2003 Thủ tướng Chính phủ đã giao thì được
bổ sung để bảo đảm không thấp hơn mức dự toán năm 2003.

20
Định mức phân bổ dự toán chi quản lý hành chính năm 2004 bao gồm tiền
lương, các khoản có tính chất lương, các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
kinh phí công đoàn, trích theo lương, chi nghiệp vụ, đoàn ra, đoàn vào và các
khoản mua sắm, sữa chữa thường xuyên.
Quyết định này quy định đối với cơ quan quản lý ngành dọc (trong đó có
Tổng cục Thống kê) thì định mức được phân bổ dự toán chi ngân sách năm 2004
là 20 triệu đồng/biên chế/năm.
Về cơ bản, định mức này phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính công bằng,
công khai và minh bạch các nhiệm vụ chi ngân sách của từng bộ, ngành, cơ quan
trung ương và các địa phương theo quy định của Luật ngân sách, góp phần thúc
đẩy tiết kiệm, khuyến khích xã hội hóa, cải cách hành chính trong công tác xây
dựng và quản lý dự toán ngân sách nhà nước.
Qua quá trình thực tế thực hiện hệ thống định mức phân bổ chi thường
xuyên của ngân sách Nhà nước năm 2004 đã đạt được những kết quả quan trọng
như: Cơ bản đã đảm bảo tính công bằng, hợp lý; đảm bảo tính công khai, minh
bạch của ngân sách Nhà nước. Đồng thời đã thể hiện ưu tiên đối với vùng miền
núi, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc có nhiều khó khăn và vùng kinh tế trọng
điểm; Phù hợp với khả năng cân đối ngân sách nhà nước, bảo đảm thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; góp phần tăng cường
công tác quản lý tài chính, sử dụng ngân sách có hiệu quả, tiết kiệm.
Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện hệ thống định mức phân bổ chi thường
xuyên của ngân sách Nhà nước năm 2004 còn một số hạn chế: Chưa điều chỉnh
kịp thời tình trạng lạm phát của quốc gia, chỉ số giá tiêu dùng tăng hàng năm,
phạm vi hệ thống định mức phân bổ chưa bao quát hết các lĩnh vực chi thường
xuyên của ngân sách nhà nước; các vùng miền núi, vùng cao, vùng đồng bào dân
tộc khó khăn mặc dù đã được ưu tiên trong hệ thống định mức phân bổ ngân sách;

Vẫn còn nhiều lĩnh vực chưa xây dựng được định mức phân bổ ngân sách, điển
hình là đầu tư xây dựng cơ bản và sử dụng vốn của các nhà tài trợ quốc tế. Vì thế
đã dẫn tới sự không công bằng giữa nhiều địa phương,
Theo Quyết định này, định mức phân bổ chi thường xuyên của Tổng cục
Thống kê được quy định là 20 triệu đồng/biên chế/năm. Căn cứ định mức này,
Tổng cục Thống kê xây dựng phương án phân bổ kinh phí cho các đơn vị dựa trên
cơ sở vùng miền.
Việc xây dựng định mức phân bổ mới vẫn đảm bảo không vượt quá tổng số
kinh phí định mức thường xuyên được Chính phủ giao. Ngoài ra vẫn còn tiết kiệm
được một số kinh phí để sử dụng cho việc mua sắm trang thiết bị phục vụ cho
công tác chuyên môn. Định mức mới này đã khắc phục được tính trạng mất cân
đối kinh phí giữa các vùng miền, đáp ứng được kinh phí hoạt động thường xuyên
cho các đơn vị thuộc tỉnh đồng bằng. Từ đó đã góp phần quan trọng cho các đơn vị
hoàn thiện được nhiệm vụ chuyên môn, chính trị của ngành.

21
* Định mức phân bổ ngân sách theo Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg
ngày 29/6/2006 của Thủ tƣớng Chính phủ
Từ sự bất cập của định mức phân bổ chi thường xuyên quy định trong
Quyết định 139 của Thủ tướng Chính phủ nên phải thực hiện xây dựng định mức
phân bổ mớ Việc xây dựng hệ thống định mức phân bổ chi ngân sách nhà nước áp
dụng từ năm ngân sách 2007 nhằm đảm bảo các yêu cầu chính sau:
- Đảm bảo kinh phí để góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, an ninh, quốc phòng 2006-2010 của cả nước, cũng như từng Bô, địa phương
theo Nghị quyết Đại hội X, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp đã quyết định, ưu
tiên những lĩnh vực quan trọng (giáo dục, đào tạo, dạy nghề, khoa học, công nghệ,
môi trường ) tăng mức ưu tiên đối với vùng miền núi, Tây Nguyên khó khăn.
- Phù hợp với khả năng cân đối Ngân sách Nhà nước năm 2007 và giai
đoạn 2006-2010.
- Thực hiện đúng quy định tại Mục g Điều 4 Luật Ngân sách Nhà nước, sau

mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối, phát triển ngân sách
địa phương, thực hiện giảm dần số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc tăng tỷ lệ
phần trăm (%) điều tiết số thu nộp về ngân sách cấp trên.
- Thúc đẩy thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, cải cách hành chính nâng
cao chất lượng dịch vụ công, sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước góp phần đổi
mới quản lý tài chính đối với khu vực sự nghiệp công, khuyến khích xã hội hoá,
huy động các nguồn lực xã hội để phát triển kinh tế - xã hộ
- Các tiêu chí của định mức phân bổ ngân sách rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu,
dễ thực hiện và kiểm tra, đảm bảo công bằng, công khai và minh bạch, từng bước
phù hợp với thông lệ quốc tế.
Định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước ban hành
kèm theo Quyết định này đã bao gồm toàn bộ tiền lương theo quy định tại Nghị
định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004, Nghị định số
118/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 09 năm 2005 và Nghị định số 119/2005/NĐ-CP
ngày 27 tháng 09 năm 2005 của Chính phủ. Định mức này là cơ sở để xây dựng
dự toán chi ngân sách của từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
các cơ quan khác ở Trung ương, dự toán chi ngân sách của từng tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (bao gồm cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã).
Định mức phân bổ năm 2007 được xây dựng trên cơ sở kế thừa những kết
quả của định mức phân bổ chi Ngân sách Nhà nước theo Quyết định 139 về hệ
thống tiêu chí phân bổ, về phân vùng (đô thị; đồng bằng; vùng miền núi, đồng bào
dân tộc ở đồng bằng, vùng sâu; vùng cao - hải đảo); bổ sung định mức phân bổ
ngân sách đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường; thực hiện chính sách trợ giá, trợ
cước; tăng mức ưu tiên hơn đối với vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc khó
khăn. Đối với chi ngân sách địa phương, tiếp tục lấy chỉ tiêu dân số là tiêu chí chủ
yếu, đồng thời sử dụng các tiêu chí bổ sung đối với từng lĩnh vực chi ngân sách để

22
đảm bảo tính đặc thù đối với từng vùng, từng địa phương; bảo đảm kinh phí thực
hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đã ban hành và nhu cầu kinh phí thực

hiện chế độ tiền lương theo Nghị định 118 và 119 của Chính phủ; đảm bảo từng
địa phương khi thực hiện định mức phân bổ mới có mức tăng hợp lý so với dự
toán năm 2006 Quốc hội đã quyết định, Thủ tướng Chính phủ đã giao.
Định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước được quy
định tại Quyết định này áp dụng cho năm ngân sách 2007, năm đầu tiên của thời
kỳ ổn định ngân sách mới theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
Căn cứ định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước
ban hành kèm theo Quyết định này, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương ban hành định mức phân bổ dự
toán chi ngân sách cho các đơn vị trực thuộc trước ngày 15 tháng 08 năm 2006;
đồng thời gửi Bộ Tài chính để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ
Căn cứ định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước
ban hành kèm theo Quyết định này, khả năng tài chính - ngân sách và đặc điểm
tình hình ở địa phương, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành định mức phân bổ chi ngân sách
địa phương trước ngày 15 tháng 08 năm 2006 để làm căn cứ xây dựng dự toán và
phân bổ ngân sách ở địa phương cho thời kỳ ổn định ngân sách mới bắt đầu từ
năm ngân sách 2007; đồng thời gửi Bộ Tài chính để tổng hợp báo cáo Thủ tướng
Chính phủ.
Theo Quyết định này, định mức phân bổ chi thường xuyên của Tổng cục
Thống kê được quy định là 32,5 triệu đồng/biên chế/năm. Căn cứ định mức này,
Tổng cục đã ban hành Quyết định số 1253/QĐ-TCTK ngày 20/11/2006 quy định
về định mức phân bổ dự toán chi quản lý hành chính năm 2007 cho các đơn vị áp
dụng cho các năm 2007, 2008, 2009. Quyết định này đã tính yếu tố vùng, miền, cụ
thể như sau:
- Định mức phân bổ dự toán của Văn phòng Tổng cục: 39,3 triệu đồng/biên
chế/năm.
- Định mức phân bổ dự toán của Phòng Thống kê huyện, thị xã của khu vực
đồng bằng: 30,0 triệu đồng/biên chế/năm.
- Định mức phân bổ dự toán của Văn phòng Cục Thống kê và Phòng Thống

kê thành phố thuộc tỉnh đồng bằng: 31,0 triệu đồng/biên chế/năm.
- Định mức phân bổ dự toán của Văn phòng Cục Thống kê và Phòng Thống
kê huyện, thị xã khu vực núi thấp - vùng sâu: 34,0 triệu đồng/biên chế/năm.
- Định mức phân bổ dự toán của Văn phòng Cục Thống kê và Phòng Thống
kê huyện, thị xã khu vực núi cao - hải đảo: 37,0 triệu đồng/biên chế/năm.

23
- Định mức phân bổ dự toán của Văn phòng Cục Thống kê và Phòng Thống
kê các Quận của thành phố Hải Phòng, thành phố Đà Nẵng, thành phố Cần Thơ:
31,0 triệu đồng/biên chế/năm.
Định mức này là căn cứ để các đơn vị trực thuộc Tổng cục xây dựng dự
toán cho thời kỳ ổn định ngân sách bắt đầu từ năm 2007. Định mức trên đã bao
gồm: tiền lương, các khoản có tính chất lương, các khoản trích theo lương theo
Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004, Nghị định số 118/2005/NĐ-CP
ngày 15/9/2005 của Chính phủ; chi nghiệp vụ, chi đoàn ra, đoàn vào và các khoản
mua sắm sửa chữa thường xuyên, định mức này vừa là cơ sở để lập dự toán hàng
năm, đồng thời cũng là căn cứ quan trọng để phân bổ ngân sách cho các đơn vị
trực thuộc. Vì vậy việc xây dựng định mức phân bổ kinh phí đóng vai trò quan
trọng trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước.
6. Một số văn bản qui phạm pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực quản lý,
sử dụng và quyết toán kinh phí điều tra thống kê có sử dụng ngân sách nhà
nƣớc và quy định chung về lĩnh vực tài chính đối với cơ quan Nhà nƣớc
6.1.Văn bản quy định về thu, chi lập quyết toán NSNN có liên quan đến
điều tra thống kê (Phụ lục 1)
6.2. Văn bản về một số định mức
Một số những văn bản quy định về định mức, tiêu chuẩn áp dụng đối với cơ
quan nhà nước ở một số nội dung chi như: lương phụ cấp, điện thoại, trang thiết bị,
sử dụng trụ sở, công tác phí, hội nghị vv (Chi tiết xem tại Phục lục 2).




24
II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG KINH PHÍ
ĐIỀU TRA THỐNG KÊ
1. Đặc điểm hoạt động của hệ thống thống kê nhà nƣớc Việt Nam
1.1 Tổ chức thống kê
Điều 28 của Luật Thống kê Hệ thống tổ chức thống kê nhà nước bao gồm
hệ thống tổ chức thống kê tập trung, tổ chức thống kê bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 29 của luật Thống kê Hệ thống tổ chức thống kê tập trung được tổ
chức theo ngành dọc gồm cơ quan thống kê trung ương và các cơ quan thống kê
địa phương.
1.2. Hoạt động thống kê và điều tra thống kê
Thống kê là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, có vai trò
cung cấp các thông tin thống kê trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp
thời phục vụ các cơ quan nhà nước trong việc đánh giá, dự báo tình hình, hoạch
định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đáp
ứng nhu cầu thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân.
1. Hoạt động thống kê theo khoản 1 Điều 3 Luật thống kê quy định: "Hoạt
động thống kê là điều tra, báo cáo, tổng hợp, phân tích và công bố các thông tin
phản ánh bản chất và tính quy luật của các hiện tượng kinh tế - xã hội trong điều
kiện không gian và thời gian cụ thể do tổ chức thống kê nhà nước tiến hành".
2. Điều tra thống kê theo Nghị định 40/2004/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn một số điều của Luật Thông kê tại Điều 7 quy định điều tra thống kê là:
- Tổng điều tra thống kê để thu thập những thông tin thống kê cơ bản, trên
phạm vi cả nước theo chu kỳ dài, quy mô lớn, phạm vi rộng liên quan đến nhiều
ngành, nhiều cấp, sử dụng lực lượng và kinh phí lớn.
- Điều tra thống kê để thu thập thông tin thống kê từ các tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân trong các trường hợp sau:
+ Điều tra thống kê để thu thập thông tin thống kê từ các tổ chức không

phải thực hiện chế độ báo cáo thống kê;
+ Điều tra thống kê để bổ sung thông tin từ các tổ chức có thực hiện chế độ
báo cáo thống kê;
+ Điều tra thống kê để thu thập những thông tin từ hộ hoặc cơ sở kinh
doanh cá thể, hộ gia đình, cá nhân;

25
+ Điều tra thống kê để thu thập những thông tin thống kê khi có nhu cầu
đột xuất.
1.3 Kinh phí cho điều tra thống kê
Kinh phí điều tra thống kê được quy định tại điều 12 Nghị định
40/2004/NĐ-CP:
1. Kinh phí để thực hiện các cuộc điều tra thống kê do ngân sách nhà nước
đảm bảo và được bố trí trong dự toán ngân sách của các cơ quan theo quy định của
Luật Ngân sách Nhà nước (bao gồm cả nguồn kinh phí khác do tổ chức quốc tế tài
trợ theo các chương trình dự án) theo quy mô, tính chất của từng cuộc điều tra.
2. Kinh phí bảo đảm cho các cuộc điều tra thống kê ngoài chương trình điều
tra thống kê quốc gia do Bộ tài chính chủ trì, phối hợp với Tổng cục Thống kê và
các Bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định theo quy định hiện
hành.
3. Kinh phí đảm bảo cho các cuộc điều tra thống kê do Uỷ Ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định do ngân sách địa phương đảm
bảo.
4. Kinh phí đảm bảo cho các cuộc điều tra thống kê phải được lập và gửi
cho cơ quan tài chính để trình cấp sơ thẩm quyền xem xét, quyết định.
5. Cơ quan tài chính các cấp căn cứ dự toán kinh phí các cuộc điều tra được
tiến hành theo quy định tại Điều 8, Điều 9, của Nghị định và khoản 1, khoản 2,
khoản 3 Điều này để đảm bảo kinh phí cho các cuộc điều tra, hướng dẫn việc quản
lý, sử dụng, quyết toán kinh phí điều tra thống kê theo quy định của Luật Ngân
sách.

1.4. Phân loại các cuộc điều tra
Nếu phân theo phạm vi điều tra, ta có các loại điều tra sau:
- Điều tra toàn bộ: là thu thập tài liệu của toàn bộ tổng thể (gọi là tổng điều
tra). Điều tra toàn bộ cung cấp tài liệu đầy đủ nhất cho nghiên cứu thống kê, có lợi
ích rất lớn, nhưng cũng đòi hỏi chi phí rất lớn, vì vậy không thể tiến hành một
cách thường xuyên (ví dụ Tổng điều tra dân số và nhà ở tiến hành 10 năm 1 lần,
Tổng điều tra nông thôn nông nghiệp và Tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính ,
sự nghiệp tiến hành 5 năm 1 lần).
- Điều tra không toàn bộ: là thu thập tài liệu của một số đơn vị được chọn
ra từ tổng thể chung. Do khối lượng đơn vị điều tra ít hơn điều tra toàn bộ nên chi
phí tương đối thấp, có thể tiến hành điều tra nhiều hơn điều tra toàn bộ, với nội

×