Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Đề cương ôn tập an toàn vệ sinh lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.82 KB, 53 trang )

Những vấn đề cần tập trung ôn tập
1. Điều kiện lao động.
Ðiều kiện lao động là tổng thể các yếu tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội, tổ chức, kỹ thuật thể hiện
qua quy trình công nghệ, công cụ lao động, đối tượng lao động (LĐ), năng lực của NLĐ và sự sắp
xếp, bố trí chúng trong không gian và thời gian, sự tác động qua lại của chúng trong mối quan hệ với
người lao động tại chỗ làm việc, tạo nên một điều kiện nhất định cho con người trong quá trình sản
xuất kinh doanh.
Để làm tốt công tác AT-VSLĐ thì phải đánh giá được các yếu tố điều kiện lao động trong mối
quan hệ tác động qua lại của chúng và sự ảnh hưởng, tác động của chúng đến người lao động như thế
nào. Đặc biệt, phải phát hiện và có được những kết luận chính về các yếu tố nguy hiểm, có hại trong
trong sản xuất đe dọa đến an toàn và sức khỏe NLĐ; từ đó có các biện pháp phù hợp nhằm cải thiện
điều kiện lao động, bảo vệ sức khoẻ người lao động.
2. Mục đích, ý nghĩa và tính chất của công tác an toàn - vệ sinh lao động trong doanh thương mại
dịch vụ.
2.1. MỤC ĐÍCH CỦA CÔNG TÁC AN TOÀN VÀ VỆ SINH LAO ĐỘNG
Công tác AT-VSLĐ dựa trên các quy định pháp luật; thông qua việc thực hiện các chế độ, chính sách, các
biện pháp về khoa học kỹ thuật, về tổ chức, hành chính, về kinh tế - xã hội, để:
- Loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh trong SX, tạo nên một điều kiện LĐ tiện nghi, thuận lợi
và môi trường LĐ ngày càng được cải thiện tốt hơn nhằm bảo vệ sức khoẻ và tính mạng NLĐ, góp phần tăng
năng suất LĐ và giảm thiệt hại cho DN cũng như NLĐ.
- Ngăn ngừa TNLĐ và BNN, hạn chế ốm đau và giảm sút sức khoẻ cũng như những thiệt hại khác đối với
NLĐ.
Trong DN, mục tiêu chủ yếu của AT-VSLĐ là cải thiện điều kiện LĐ, phải xử lý ô nhiễm không khí,
nước thải, đất đai,… tại khu vực DN hoạt động. Công tác AT-VSLĐ, vì thế không chỉ là công việc của DN
mà phải được cả xã hội quan tâm.
2.2. Ý NGHĨA CỦA CÔNG TÁC AN TOÀN VÀ VỆ SINH LAO ĐỘNG
 Ý nghĩa về chính trị
- AT-VSLĐ thực hiện bản chất ưu việt của chế độ XHCN, thể hiện quan điểm coi con người là động lực,
là mục tiêu của sự phát triển.
- Trong xã hội có tỷ lệ NLĐ, BNN thấp là xã hội luôn coi trọng NLĐ là vốn quý nhất, phải được tôn trọng,
phải được bảo vệ.


- Thực hiện tốt công tác AT-VSLĐ chính là góp phần chăm sóc sức khoẻ, tính mạng và đời sống của con
người - lực lượng quan trọng nhất để phát triển đất nước.
 Ý nghĩa xã hội
- AT-VSLĐ vừa là yêu cầu cần thiết của SX, vừa là quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của NLĐ, là biểu
hiện thiết thực nhất chăm lo đến đời sống, hạnh phúc của họ.
- AT-VSLĐ tốt đảm bảo cho xã hội trong sáng, lành mạnh, đội ngũ giai cấp công nhân có điều kiện phát
triển toàn diện về trí lực thể lực. Mọi NLĐ có sức khoẻ sẽ làm việc có hiệu quả cao, làm chủ bản thân, làm
chủ khoa học kỹ thuật,…TNLĐ không xảy ra, sức khoẻ được bảo đảm thì Nhà nước, Xã hội và gia đình
không phải chịu những tổn thất do phải nuôi dưỡng, điều trị và do đó hạnh phúc gia đình được đảm bảo.
 Lợi ích về kinh tế
AT-VSLĐ đem lại lợi ích thiết thực.
- Tạo ra các điều kiện LĐ tốt tức là đảm bảo cho NLĐ không bị tác động bởi các yếu tố có hại trong SX,
giữ gìn được sức khoẻ và khả năng LĐ của họ, do đó NLĐ làm việc được liên tục được năng suất cao.
- Bảo đảm thực hiện đầy đủ các biện pháp kỹ thuật ATLĐ đúng theo quy phạm, quy trình và chỉ tiêu sẽ
bảo đảm cho máy móc thiết bị nhà xưởng sử dụng được lâu dài, không bị sự cố hư hỏng, bảo vệ được tài sản
cố định và do đó cũng tránh được TNLĐ đáng tiếc xảy ra. Mỗi khi TNLĐ xảy ra dù nhẹ, cũng gây thiệt hại
đáng kể. Nếu TNLĐ chết người thì thiệt hài khó lòng tính hết được.
 Góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, phát triển kinh doanh
- Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, làm tốt công tác AT-VSLĐ là nội dung xúc tiến thương mại,
tạo điều kiện cho sản phẩm vượt rào cản phi thuế quan và tiêu chuẩn lao động, quản lý chất lượng sản phẩm,
không gây ô nhiễm môi trường, chính là điều kiện để DN nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, phát
triển kinh doanh.
- Thực hiện tốt AT-VSLĐ là hành động thiết thực nhất để xây dựng văn hoá an toàn tại nơi làm vệc của
DN, sẽ mang lại khả năng cạnh tranh cao, mang lại vị thế, uy tín cao trước các bạn hàng quốc tế, góp phần
đưa DN hội nhập vững vàng hơn trên thị trường khu vực và quốc tế.
2.3. TÍNH CHẤT CỦA CÔNG TÁC AN TOÀN VÀ VỆ SINH LAO ĐỘNG
 Tính chất khoa học
- Mọi hoạt động của công tác AT-VSLĐ là nhằm loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại cho NLĐ.
- Các biện pháp phòng chống TNLĐ, BNN đề xuất phát từ cơ sở khoa học và bằng những biện pháp
KHKT mới.

- Các hoạt động điều tra, khảo sát, phân tích điều kiện LĐ, đánh giá ảnh hưởng của các yêu tố nguy hiểm
và có hại đến sức khoẻ của NLĐ, các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường lao động, các giải pháp kỹ thuật an
toàn dụng cụ thiết bị,… đều là những hoat động KHKT–CN mới do các cán bộ KHKT-CN đề xuất thực hiện
 Tính chất pháp lý
AT-VSLĐ phải mang tính pháp lý thể hiện ở chỗ:
- Muốn cho các giải pháp (về KHKT, tổ chức, kinh tế, xã hội) đảm bảo AT-VSLĐ thực hiện được thì phải
thể chế hoá chúng thành những luật lệ, chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật an toàn, hướng dẫn
để buộc mọi cấp quản lý, mọi tổ chức, cá nhân, DN phải nghiêm chỉnh thực hiện.
- Đồng thời cấp có thẩm quyền phải tiến hành thanh tra, kiểm tra một cách thường xuyên, phải khen
thưởng những đơn vị có thành tích và xử phạt kịp thời và thích đáng những đơn vị, cá nhân vi phạm thì công
tác AT-VSLĐ mới được tôn trọng và có hiệu quả thiết thực.
 Tính chất quần chúng
AT-VSLĐ phải mang tính quần chúng vì:
- Ở mọi DN SX, kinh doanh, từ NSDLĐ đến NLĐ đều là đối tượng cần được bảo vệ.
- Chính NLĐ là chủ thể tham gia vào việc tự bảo vệ mình và bảo vệ người khác.
- Mọi hoạt động của công tác AT-VSLĐ chỉ có thể đạt kết quả khi các cấp quản lý, NSDLĐ, các cán bộ
KHCN và bản thân NLĐ đều phải tự giác và tích cực tham gia thực hiện các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn,
quy định, các biện pháp cải thiện điều kiện lao động, phòng chống TNLĐ và BNN.
3. Khái niệm an toàn lao động, vệ sinh lao động.
An toàn là xác định những “rủi ro cho phép” hay còn gọi là mức cân bằng tối ưu giữa an toàn
tuyệt đối lý tưởng với các yêu cầu được đáp ứng bởi thiết bị máy móc, quá trình công nghệ,… trên cơ
sở đánh giá rủi ro với các bước từ nhận biết mối nguy hiểm (bao gồm cả tình trạng nguy hiểm và sự
kiện nguy hiểm) có thể nảy sinh trong quá trình sản xuất đến ước lượng và đánh giá rủi ro phát sinh
từ những nguy cơ đã được xác định.
An toàn lao động là các biện pháp giảm thiểu hoặc triệt tiêu những yếu tố nguy hiểm có hại ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe và tính mạng người lao động.
VSLĐ là hệ thống các biện pháp, phương tiện về tổ chức và kỹ thuật vệ sinh nhằm phòng ngừa
sự tác động của các yếu tố có hại trong sản xuất đối với NLĐ, bảo vệ NLĐ khỏi BNN.
- Các yếu tố có hại trong sản xuất là những yếu tố của điều kiện LĐ không thuận lợi, không đảm
bảo các giới hạn của tiêu chuẩn VSLĐ cho phép, làm giảm sức khoẻ của NLĐ và gây BNN.

4. Các khái niệm, phân loại tai nạn lao động và mục đích ý nghĩa của công tác an toàn lao động
4.1.Khái niệm tai nạn lao động: “TNLĐ là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng
nào của cơ thể NLĐ hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình LĐ gắn liền với thực hiện công việc,
nhiệm vụ LĐ” (Điều 105- Bộ luật Lao động)
4.2. Một số khái niệm khác
- Sự nguy hiểm trong SX: Là khả năng tác động của các yếu tố nguy hiểm và có hại đối với NLĐ
trong SX.
Mọi nơi, mọi lúc NLĐ luôn phải đối mặt với sự nguy hiểm trong lao động: người thợ điện đối
diện với nguy cơ giật điện, công nhân xây dựng với nguy cơ sập dàn giáo, công nhân khai thác than
với nguy cơ sập hầm lò, nhân viên y tế với nguy cơ lây nhiễm các bệnh xã hội như viên gan B,
AIDS…
- Phương tiện bảo vệ NLĐ: Là phương tiện dùng để phòng ngừa hoặc làm giảm tác động của các
yếu tố nguy hiểm và có hại đối với NLĐ trong SX.
- Kỹ thuật an toàn: Là hệ thống các biện pháp và phương tiện về tổ chức và kỹ thuật nhằm
phòng ngừa các yếu tố nguy hiểm đối với NLĐ trong SX.
4.3. Phân loại tai nạn lao động
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, TNLĐ được phân loại theo các tiêu thức khác nhau.
- Theo mức tổn thương đến cơ thể con người được phân thành 4 loại TNLĐ như sau:
+ TNLĐ làm chết người: Người bị tai nạn chết ngay tại nơi xảy ra tai nạn; chết trên đường đi cấp
cứu; chết trong thời gian cấp cứu; chết trong thời gian đang điều trị; chết do tái phát của chính vết th-
ương do TNLĐ gây ra trong thời gian được quy định tại tiết ở điểm 3.1 Mục II của Thông tư liên tịch
số 14/2005/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN ngày 08 tháng 3 năm 2005 về hướng dẫn việc khai
báo, điều tra, lập biên bản, thống kê và báo cáo định kỳ TNLĐ.
+ TNLĐ nặng: Làm cho NLĐ bị suy giảm khả năng lao động > 61%. Người bị tai nạn bị ít nhất
một trong những chấn thương được quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số
14/2005/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN ngày 08 tháng 3 năm 2005
+ TNLĐ nhẹ: làm cho NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 21 - 60%.
+ TNLĐ nhẹ: Làm cho NLĐbị suy giảm khả năng lao động từ < 21%.
Mục đích của cách phân loại này giúp cho cơ quan quản lý bảo hiểm xã hội có cơ sở đặt ra các
mức trợ cấp cho phù hợp với mức suy giảm khả năng lao động.

Trong thời gian làm việc, nếu NLĐ bị chết do TNLĐ, BNN, thì thân nhân được nhận chế độ tử
tuất theo quy định tại Điều146 của Bộ Luật này và được quỹ bảo hiểm xã hội trợ cấp thêm một lần
bằng 30 tháng tiền lương tối thiểu theo quyết định của Chính phủ.
Trong thời gian NLĐ nghỉ việc để chữa trị vì TNLĐ hoặc BNN, NSDLĐ phải trả đủ lương và
chi phí y tế cho NLĐ từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị xong cho người bị TNLĐ hoặc BNN.
Sau khi điều trị, người bị TNLĐ, BNN được giám định y khoa để xếp hạng thương tật, xác định
mức độ suy giảm khả năng lao động và được phục hồi chức năng lao động; nếu còn tiếp tục làm việc,
thì được sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa lao
động.
Tuỳ theo mức độ suy giảm khả năng lao động do TNLĐ, BNN, NLĐ được hưởng trợ cấp một
lần hoặc hàng tháng do quỹ bảo hiểm xã hội trả.
- Theo ngành nghề sản xuất: Việc phân loại này rất quan trọng vì TNLĐ ở các ngành nghề khác
nhau do đặc điểm của mỗi ngành nghề. Ở nước ta những ngành nghề có công việc càng phức tạp
nguy hiểm thì TNLĐ gây ra cũng khác nhau. Cách phân loại này còn cho phép xác định mức đóng và
hưởng được chính xác, đồng thời cho phép tìm ra những biện pháp hạn chế TNLĐ cho phù hợp với
đặc điểm sản xuất của từng ngành.
Ví dụ
Ngành khai thác khoáng sản  nguy cơ TNLĐ cao, hậu quả thường là nghiêm trọng
Ngành dịch vụ nhà hàng, khách sạn  nguy cơ TNLĐ thấp hơn
Ngành kinh doanh dịch vụ vận tải biển nguy cơ TNLĐ cao, hậu quả thường là nghiêm trọng
- Theo nguyên nhân:
+ Nguyên nhân do chủ quan: do trang thiết bị máy móc, phương tiện bảo hộ, phòng hộ lao động
không được chu đáo hay do sự vi phạm quy trình kỹ thuật ATLĐ sản xuất của NLĐ và NSDLĐ
Ví dụ: không kiểm tra tình trạng an toàn của mày trước ca sản xuất; Nhân viên bếp quên không
khóa gaz sau khi sử dụng; Nhân viên vệ sinh không trang bị PTBVCN….
+ Nguyên nhân khách quan: do các yếu tố tự nhiên xảy ra ngẫu nhiên không lường trước được:
bão lụt, động đất…
Ví dụ: Đắm thuyền chở hàng do bão; Cháy văn phòng, cửa hàng do bị cháy lan từ khu vực lân
cận như cháy cây xăng….
Phân loại theo cách này giúp chúng ta tìm được nguyên nhân TNLĐ để tìm ra cách hạn chế khắc

phục và có biện pháp xử lý kịp thời.
- Theo độ tuổi và giới tính:
Theo cách phân loại này có thể xác định được tỷ lệ nam nữ gặp phải rủi ro TNLĐ. Thực tế cho
thấy TNLĐ thường xảy ra đối với nam nhiều hơn nữ, vì họ thường phải làm những công việc nặng
nhọc hơn. Tuy nhiên không loại trừ khả năng về kinh nghiệm cũng như về trình độ của mỗi người
trong công việc, ngoài ra ở độ tuổi khác nhau thì TNLĐ cũng xảy ra khác nhau.
4.4. Mục đích, ý nghĩa của công tác an toàn lao động
ATLĐ là các biện pháp giảm thiểu hoặc triệt tiêu những yếu tố nguy hiểm có hại ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe và tính mạng người lao động.
Công tác ATLĐ ở Việt Nam đang tập trung vào các vấn đề sau:
- Xây dựng một hệ thống quản lý thống nhất về an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) phù hợp
cho từng giai đoạn.
- Từng bước hoàn thiện pháp chế, chính sách, tiêu chuẩn, quy định về ATVS LĐ.
- Từng bước hiện đại hóa công nghệ.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền huấn luyện về ATVSLĐ.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về ATVSLĐ.
- Phát huy vài trò các đoàn thể xã hội trong ATVSLĐ.
- Đối với NLĐ:
+ Đảm bảo cho NLĐ không bị TNLĐ do tác động của các yếu tố nguy hiểm trong SX thông qua
việc thực hiện luật pháp, các chính sách và các giải pháp về KHKT, về KT-XH, về tuyên truyền giáo
dục, về tổ chức LĐvà sự tuân thủ nội quy, quy trình, quy chuẩn về ATLĐ của NLĐ và NSDLĐ.
+ Việc tuân thủ các quy định về ATLĐ còn góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ yên tâm
trong khi làm việc, phát triển lực lượng SX và tăng năng suất lao động.
- Đối với DN:
+ ATLĐ là tiêu chí điều chỉnh lợi nhuận của các hoạt động SX.
+ Trước đây, an toàn có mục tiêu là bảo đảm tính mạng cho NLĐ, cải thiện điều kiện LĐ và gián
tiếp góp phần tăng sản lượng và NSLĐ.
+ Hiện nay, tiếp cận SXKD theo phương pháp hệ thống, khi đó an toàn được xem là yếu tố
không tách rời với những yếu tố cơ bản như trình độ quản lý SXKD; năng lực SXKD (thiết bị, máy,
con người); chất lượng của sản phẩm, dịch vụ và luôn gắn liền với hiệu quả kinh tế, với lợi nhuận của

hoạt động SXKD.
5. Khái niệm, phân loại các yếu tố nguy hiểm.
5.1. Khái niệm các yếu tố nguy hiểm
Yếu tố nguy hiểm trong SX là các yếu tố có tác động gây chấn thương, tử vong cho NLĐ trong
SX. Sự tác động đó gây tai nạn tức thì.
5.2. Phân loại các yếu tố nguy hiểm
Các yếu tố nguy hiểm gây chấn thương thường gặp trong LĐ rất đa dạng, có thể phân làm 5
nhóm cơ bản sau:
a. Nhóm yếu tố nguy hiểm cơ học
Tai nạn gây ra có thể làm cho NLĐ bị chấn thương hoặc chết. Tai nạn chủ yếu do cơ cấu, đặc
trưng quá trình công nghệ của các dây truyền SX gây ra như:
- Các bộ phận cơ cấu truyền động: Trục khuỷu, bánh răng, đai truyền
- Sự chuyển động của bản thân máy móc như: ô tô, máy trục, tàu biển, sà lan, đoàn tàu hỏa, đoàn
goòng có nguy cơ cuốn, cán, kẹp, cắt.
- Các bộ phận chuyển động quay với tốc độ lớn: đá mài, cưa đĩa, bánh đà, máy ly tâm, máy trục
tiện, máy khoan, trục cán ép,…
- Các bộ phận chuyển động tịnh tiến: búa máy, máy đột dập, đầu máy bào, máy dọc, máy phay,

- Vật rơi, đổ, sập: Thường là hậu quả của trạng thái vật chất không bền vững, không ổn định gây
ra, như: sập lò, vật rơi từ trên cao trong xây dựng; đá rơi, đá lăn trong khai thác đá, trong đào đường
hầm; đổ tường, đổ cột điện, đổ công trình trong xây lắp; cây đổ; đổ hàng hoá trong sắp xếp kho
tàng
- Vật văng bắn: Thường gặp là phoi của các máy gia công như: máy mài, máy tiện, đục kim loại;
gỗ đánh lại ở các máy gia công gỗ; đá văng trong nổ mìn
- Trơn, trượt ngã,…
Ví dụ: Vụ tai nạn xảy ra vào cuối giờ chiều ngày 5/9 tại huyện Đông Anh (Hà Nội). Trong lúc
đưa xấp giấy vào hệ thống máy công nghiệp để cắt, 1 công nhân vô tình chạm người vào nút khởi
động khiến lưỡi dao sập xuống chặt đứt rời 2 bàn tay.
Vụ sập giàn giáo tại công trình cầu Sông Tranh (Ninh Giang, Hải Dương) làm 3 người chết; sập
giàn giáo ở nhà thờ Ngọc Lâm (Thái Nguyên) làm 3 người chết và 61 người bị thương; sạt lở mỏ đá

ở Lèn Rỏi (Tân Kỳ, Nghệ An) làm 2 người chết…
b) Nhóm các yếu tố nguy hiểm về điện
- Theo từng mức điện áp và cường độ dòng điện tạo nguy cơ: điện giật, bỏng điện, chập cháy nổ
do điện, sét đánh…
- Tai nạn gây ra có thể làm cho NLĐ bị tê liệt hệ thống hô hấp, tim mạch.
Đây là nhóm nguy cơ tiềm ẩn trong mọi ngành SX cũng như dịch vụ.
c) Nhóm các yếu tố nguy hiểm về hoá chất (thể rắn, lỏng, khí và hơi)
Gây nhiễm độc cấp tính (SO
2,
SO
3
, oxit cacbon CO, CO
2,
oxit nitơ NO
2
, hydrosunfua H
2
S; hoá
chất bảo vệ thực vật và các loại chất độc khác thuộc danh mục phải khai báo, đăng ký) hoặc bỏng do
hoá chất (độ 2, độ 3).
Ví dụ: Trong các DN TMDV như các siêu thị, nhà hàng, khách sạn… người công nhân làm vệ
sinh là những đối tượng dễ bị nhiễm độc từ những sản phẩm hóa chất tẩy rửa. Mặt sàn, cầu thang,
nhà vệ sinh đều được tẩy rửa sạch sẽ, láng bóng và thoang thoảng mùi thơm từ dung dịch xịt phòng,
tinh dầu hay nến thơm Chúng ta hài lòng với một không gian như vậy bởi sự sạch sẽ, vệ sinh. Tuy
nhiên, theo các chuyên gia, những thứ làm sạch đó nhẹ có thể gây dị ứng, mẩn ngứa, nặng là làm
thoái hóa tế bào, gây ung thư Khi NLĐ tiếp xúc trực tiếp với hóa chất như khi giặt giũ giẻ lau hay
cọ rửa các bề mặt nên đi găng tay để tránh tiếp xúc với xà phòng hay hóa chất tẩy rửa; khi làm vệ
sinh toilet thì nên đóng cửa các phòng khác để mùi hóa chất không bay ra. Cần tránh việc lạm dụng
các hóa chất tẩy rửa vì trong các dung dịch này có chứa nhiều hợp chất có tác dụng tẩy rửa mạnh
nhưng lại có hại cho môi trường và sức khoẻ con người.

Các sản phẩm như bột giặt, thuốc đánh bóng nền nhà, sơn và những hóa chất xịt kính, gỗ, kim
loại, các loại chất tẩy rửa toilet đều có hóa chất độc hại như amoniac, axit sunfuric, kiềm, chlorine,
formaldehyde và phenol Các hóa chất này bay hơi ở nồng độ đậm đặc và tiếp xúc kéo dài thậm chí
có nguy cơ gây ung thư, và ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
d) Nhóm yếu tố nguy hiểm nổ
- Nổ vật lý: Trong thực tế SX, có thể nổ khi áp suất của môi chất trong các thiết bị chịu áp lực,
các bình chứa khí nén, khí thiên nhiên hoá lỏng vượt quá giới hạn bền cho phép của vỏ bình hoặc do
thiết bị bị rạn nứt, phồng móp, bị ăn mòn do sử dụng lâu. Khi thiết bị nổ sẽ sinh công rất lớn làm phá
vỡ các vật cản và gây tai nạn cho mọi người xung quanh.
Ví dụ: Nổ nồi hơi, bình khí nén.
- Nổ hóa học: Là sự biến đổi về mặt hóa học của các chất diễn ra trong một thời gian rất ngắn,
với một tốc độ rất lớn tạo ra lượng sản phẩm cháy lớn, nhiệt độ rất cao và áp lực lớn phá hủy hoại các
công trình, gây tai nạn cho người trong phạm vi vùng nổ.
Ví dụ: Nổ cháy xăng dầu, khí đốt, thuốc nổ,…
Các chất có thể gây nổ hóa học bao gồm các khí cháy và bụi khi chúng hỗn hợp với không khí
đạt đến một tỷ lệ nhất định kèm theo có mồi lửa thì sẽ gây nổ. Mỗi loại khí cháy nổ có thể nổ được
khi hỗn hợp với không khí đạt được một tỷ lệ nhất định. Khoảng giới hạn nổ của khí cháy với không
khí càng rộng thì sự nguy hiểm về giới hạn nổ hóa học càng tăng.
- Nổ vật liệu nổ (nổ chất nổ): Sinh công rất lớn, đồng thời gây ra sóng xung kích trong không
khí và gây chấn động trên bề mặt đất trong phạm vi bán kính nhất định.
- Nổ của kim loại nóng chảy: Khi rót kim loại lỏng vào khuôn bị ướt, khi thải xỉ
e) Nhóm yếu tố nguy hiểm về nhiệt (với môi chất truyền thể hơi, khí, lỏng, rắn): gây bỏng (nóng,
lạnh), cháy do ngọn lửa, tia lửa, vật nung nóng - nấu chảy.
Ví dụ: Trong các DN kinh doanh dịch vụ ăn uống, khi chế biến các sản phẩm ăn uống, các nhân
viên ở bộ phận bếp là những người thường xuyên phải tiếp xúc với mối nguy hiểm về nhiệt độ cao.
Trong dịch vụ sửa chữa xe ô tô, người công nhân phải đối diện với nguy cơ bị bỏng do các tia
lửa từ máy hàn, máy tiện phát ra
6. Các phương phương pháp xác định (kiểm soát) yếu tố nguy hiểm
a. Đối với máy, thiết bị cơ khí: kiểm tra, xác định theo các yêu cầu sau:
- Che chắn các bộ phận truyền động

- Biện pháp nối đất bảo vệ…
- Sự đầy đủ của các thiết bị an toàn
b. Đối với thiết bị áp lực: kiểm tra, xác định theo các yêu cầu sau:
- Thời hạn kiểm định thiết bị
- Sự hoàn hảo của thiết bị đo và cơ cấu an toàn
- Tình trạng kỹ thuật thực tế: sự ăn mòn quá mức đối với các phần tử chịu áp lực và biến dạng
- Tình trạng an toàn của các thiết bị liên quan
- Nơi đặt thiết bị
c. Hệ thống nối đất và chống sét: kiểm tra, xác định theo các yêu cầu sau:
- Kiểm tra, đánh giá sự hoàn hảo của các dây, cọc nối đất
- Việc thực hiện đo: R

theo định kỳ
d. Các kho chứa nguyên vật liệu: kiểm tra, xác định theo các yêu cầu sau:
- Sự sắp xếp và bố trí kho theo qui định
- Thực hiện các biện pháp an toàn chống đổ, chống cháy nổ
- Các cửa thoát hiểm, hệ thống thông gió, hệ thống điện
- Các phương tiện thiết bị để xử lý phòng cháy, chữa cháy.
Ví dụ Sắp xếp có thứ tự, ngăn nắp: Nặng dưới, nhẹ trên; chắt lỏng riêng, chất rắn riêng; hóa chất
riêng; chất dễ cháy nổ để riêng…Dùng đế kê vật liệu và định vị chắc chắn. Tránh lăn, đổ ngã; Bảo
quản riêng, cẩn thận những chất dễ cháy nổ, acid…
e. Các thiết bị nâng hạ: kiểm tra, xác định theo các yêu cầu sau:
- Thời hạn kiểm định thiết bị
- Tình trạng kỹ thuật thực tế: sự ăn mòn quá mức đối với các phần tử chịu lực, xác định biến
dạng, tình trạng của cáp, móc, …
- Tình trạng an toàn của các thiết bị liên quan: cơ cấu hạn chế quá tải, cơ cấu hạn chế chiều
cao nâng móc, cơ cấu hạn chế hành trình…
f. An toàn giao thông nội bộ, nhà xưởng: kiểm tra, xác định theo các yêu cầu sau:
- Các rãnh thoát nước, hố ga trên đường vận chuyển (nắp đậy,…)
- Độ cản trở giao thông hoặc vận chuyển nguyên vật liệu…

- Tình trạng kỹ thuật hiện hữu…
g. Hệ thống điện và các thiết bị bảo vệ: kiểm tra, xác định theo các yêu cầu sau:
- Hệ thống dây dẫn điện
- Hệ thống phân phối điện
- Các thiết bị bảo vệ
7. Các biện pháp kỹ thuật an toàn lao động.
 BIỆN PHÁP AN TOÀN ĐỐI VỚI BẢN THÂN NGƯỜI LAO ĐỘNG
- Thực hiện thao tác, tư thế LĐ phù hợp, đúng nguyên tắc an toàn, tránh các tư thế cói gập người,
các tư thế có thể gây chấn thương cột sống, thoát vị đĩa đệm,…
- Bảo đảm không gian vận động, thao tác tối ưu, sự thích nghi giữa người và máy,…
- Đảm bảo các điều kiện LĐ thị giác, thính giác, xúc giác,…
- Đảm bảo tâm lý phù hợp, tránh quá tải, căng thẳng hay đơn điệu.
 THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP CHE CHẮN AN TOÀN
* Mục đích của thiết bị che chắn an toàn
Cách ly vùng nguy hiểm đối vớiNLĐ như các vùng có điện áp cao, có các chi tiết chuyển động,
những nơi người có thể rơi, ngã.
* Yêu cầu đối với thiết bị che chắn
- Ngăn ngừa được tác động xấu do bộ phận của thiết bị SX gây ra;
- Không gây trở ngại cho thao tác của NLĐ;
- Không ảnh hưởng đến năng suất LĐ, công suất của thiết bị;
- Dễ dàng tháo lắp, sửa chữa khi cần thiết.
* Các loại thiết bị che chắn
Tùy thuộc vào yêu cầu che chắn mà cấu tạo của thiết bị che chắn đơn giản hay phức tạp và được
chế tạo bởi các loại vật liệu khác nhau.
- Che chắn tạm thời hay di chuyển được như che chắn ở sàn thao tác trong xây dựng; che chắn
hào, hố các vùng làm việc trên cao.
- Che chắn cố định như: bao che của các bộ phận chuyển động, che chắn các bộ phận dẫn điện,
che chắn các nguồn bức xạ có hại,…
 SỬ DỤNG THIẾT BỊ VÀ CƠ CẤU PHÒNG NGỪA
* Mục đích

- Loại trừ hoặc ngăn chặn nguy cơ sự cố hoặc tai nạn khi thông số hoạt động của đối tượng phòng
ngừa vượt quá giới hạn quy định.
- Thiết bị phòng ngừa chỉ bảo đảm làm việc tốt khi đã được tính toán đúng ở khâu thiết kế, chế tạo
và phải tuân thủ các quy định về kỹ thuật an toàn trong sử dụng.
(Sự cố gây ra có thể do: quá tải, bộ phận chuyển động đó chuyển động quá vị trí giới hạn, nhiệt độ
cao hoặc thấp quá, cường độ dòng điện cao quá Khi đó thiết bị phòng ngừa tự động dừng hoạt động
của máy, thiết bị hoặc bộ phận của máy).
* Phân loại thiết bị phòng ngừa
Theo khả năng phục hồi lại sự làm việc của thiết bị: Thiết bị phòng ngừa có cấu tạo, công dụng
rất khác nhau tuỳ thuộc vào đối tượng phòng ngừa và quy trình công nghệ.
- Hệ thống có thể tự phục hồi lại khả năng làm việc khi đối tượng phòng ngừa đó trở lại dưới giới
hạn quy định như: van an toàn kiểu tải trọng, rơ le nhiệt
- Hệ thống phục hồi lại khả năng làm việc bằng tay như: trục vớt rơi trên máy tiện
- Hệ thống phục hồi lại khả năng làm việc bằng cách thay thế mới như: cầu trì, chốt cắm
 SỬ DỤNG CÁC BÁO HIỆU, TÍN HIỆU AN TOÀN
* Mục đích
- Báo trước (nhắc nhở) cho NLĐ những nguy hiểm có thể xảy ra.
- Hướng dẫn các thao tác cần thiết
- Nhận biết qui định về kỹ thuật và kỹ thuật an toàn qua dấu hiệu qui ước về màu sắc, hình vẽ
(biển báo chỉ đường…).
* Yêu cầu đối với tín hiệu, báo hiệu
- Dễ nhận biết.
- Khả năng nhầm lẫn thấp, độ chính xác cao.
- Dễ thực hiện, phù hợp với tập quán, cơ sở khoa học kỹ thuật và yêu cầu của tiêu chuẩn hoá.
* Phân loại báo hiệu, tín hiệu
- Sử dụng màu sắc, ánh sáng: thường dùng ba màu: đỏ, vàng, xanh;
- Âm thanh: tiếng còi, chuông, kẻng;
- Ký hiệu: hình vẽ, bảng chữ;
- Đồng hồ, dụng cụ đo lường: để đo cường độ, điện áp dòng điện, đo áp suất, khí độc, ánh sáng,
nhiệt độ, đo bức xạ,

 ĐẢM BẢO KHOẢNG CÁCH VÀ KÍCH THƯỚC AN TOÀN
- Khoảng cách an toàn là khoảng không gian nhỏ nhất giữa NLĐ và các loại phương tiện, thiết bị,
hoặc khoảng cách nhỏ nhất giữa chúng với nhau để không bị tác động xấu của các yếu tố SX.
VD, khoảng cách cho phép giữa đường dây điện trần tới người, khoảng cách an toàn khi nổ mìn
- Khoảng cách AT-VSLĐ: Tùy theo cơ sở SX mà phải bảo đảm một khoảng cách an toàn giữa cơ
sở đó và khu dân cư xung quanh.
 THỰC HIỆN CƠ KHÍ HÓA, TỰ ĐỘNG HÓA VÀ ĐIỀU KHIỂN TỪ XA
Đó là biện pháp nhằm giải phóng NLĐ khỏi khu vực nguy hiểm, độc hại.
Các trang thiết bị cơ khí hóa, tự động hóa và điều khiển từ xa thay thế con người thực hiện các
thao tác từ xa, trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm, đồng thời nâng cao được năng suất lao động.
- Cơ cấu điều khiển: có thể là các nút mở máy, đóng máy, hệ thống tay gạt, vô lăng điều khiển để
điều khiển theo ý muốn NLĐ;
- Phanh hãm: điều khiển vận tốc chuyển động của phương tiện, bộ phận theo ý muốn của NLĐ.
Có loại phanh cơ, phanh điện, phanh từ. Tùy theo yêu cầu cụ thể mà tác động của phanh hãm có thể
là tức thời hay từ từ. Ngoài hệ thống phanh hãm chính thường kèm theo hệ thống phanh hãm dự
phòng.
- Khoá liên động: loại cơ cấu nhằm tự động loại trừ khả năng gây ra TNLĐ khi NLĐ vi phạm quy
trình trong vận hành, thao tác như: đóng bộ phận bao che rồi mới được mở máy. Khoá liên động có
thể dưới các hình thức liên động khác nhau: cơ khí, khí nén, thuỷ lực, điện, tế bào quang điện
- Điều khiển từ xa: NLĐ ở ngoài vùng nguy hiểm điều khiển SX như điều khiển từ phòng điều
khiển trung tâm. Ở đó sử dụng các đồng hồ đo để chỉ rõ các thông số kỹ thuật cần thiết cho quá trình
điều khiển SX và các thiết bị nghe nhìn.
 TRANG BỊ CÁC PHƯƠNG TIỆN BẢO VỆ CÁ NHÂN
* Khái niệm
Phương tiện bảo vệ cá nhân là những dụng cụ, phương tiện cần thiết mà NLĐ phải được trang bị
để sử dụng trong khi làm việc hoặc thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện có các yếu tố nguy hiểm, độc
hại.
Đây là biện pháp bảo vệ bổ sung, hỗ trợ nhưng có vai trò rất quan trọng khi các thiết bị kỹ thuật
AT-VSLĐ tại nơi làm việc chưa thể loại trừ hết các yếu tố nguy hiểm, độc hại (điều kiện thiết bị,
công nghệ lạc hậu).

* Nguyên tắc trang bị
- Trước hết phải dùng các biện pháp kỹ thuật BHLĐ để ngăn ngừa các tác hại đến sức khỏe nghề
nghiệp của NLĐ.
- Thứ đến mới phải dùng đến trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân cho NLĐ.
- Phương tiện bảo vệ cá nhân trang bị cho NLĐ phải phù hợp với việc ngăn ngừa có hiệu quả các
tác hại của các yếu tố nguy hiểm, độc hại trong môi trường LĐ nhưng dễ dàng trong sử dụng, bảo
quản và không gây tác hại khác.
* Phân loại: Phương tiện bảo vệ cá nhân bao gồm:
- Phương tiện bảo vệ đầu: mũ chống chấn thương sọ não, lưới hoặc mũ vải bao tóc,
- Phương tiện bảo vệ mắt, mặt: kính mắt, mặt nạ,
- Phương tiện bảo vệ thính giác: nút bịt tai, bao úp tai
- Phương tiện bảo vệ cơ quan hô hấp: khẩu trang, mặt nạ phòng độc,
- Phương tiện bảo vệ tay, chân: giầy, ủng, bít tất, bao tay
- Phương tiện bảo vệ thân thể: áo quần, yếm choàng chống nóng, chống rột, chống tia phóng xạ,
- Phương tiện chống ngã cao: dây an toàn,
- Phương tiện chống điện giật, điện từ trường: găng tay cách điện, ủng cách điện,
- Phương tiện chống chết đuối: phao cá nhân,
- Các loại phương tiện bảo đảm AT-VSLĐ khác.
* Yêu cầu
- Phương tiện TBPTBVCN phải được SX theo tiêu chuẩn chất lượng quy định của Nhà nước.
- Việc cấp phát, sử dụng phải theo quy định của pháp luật.
- NSDLĐ phải kiểm tra chất lượng TBPTBVCN trước khi cấp phát và kiểm tra định kỳ theo tiêu
chuẩn khi đưa vào sử dụng.
 THỰC HIỆN KIỂM NGHIỆM DỰ PHÒNG THIẾT BỊ
- Kiểm nghiệm độ bền, độ tin cậy của máy, thiết bị, công trình, các bộ phận của chúng là biện pháp an
toàn nhất trước khi đưa chúng vào sử dụng.
- Mục đích: đánh giá chất lượng của thiết bị về các mặt tính năng, độ bền, độ tin cậy để quyết định có
đưa thiết bị vào sử dụng hay không.
- Kiểm nghiệm dự phòng được tiến hành định kỳ, hoặc sau những kỳ sửa chữa, bảo dưỡng.
8. Khái niệm các nguyên nhân gây chấn thương. Phân tích các nguyên nhân gây chấn thương

trong các doanh nghiệp thương mại dịch vụ.
Khái niệm chấn thương: Là thương tích xảy ra đối với NLĐ trong SX do không tuân thủ các yêu
cầu về ATLĐ. Nhiễm độc cấp tính cũng coi như chấn thương.
Ví dụ: Bị trượt ngã khi xếp đồ lên giá ở các siêu thị; bị hàng hóa rơi đổ vào người do xếp hàng
quá cao, bị ngộ độc hóa chất tẩy rửa do sử dụng không đúng cách…
Nguyên nhân gây chấn thương
Nhóm các nguyên nhân kỹ thuật
Kỹ thuật đóng vai trò quan trọng làm cho tỷ lệ TNLĐ gia tăng đặc biệt là kỹ thuật lạc hậu, lao
động giản đơn hoặc dây chuyền công nghệ cũ. Các nước tiên tiến do phát triển kỹ thuật tự động hóa
cao nên giảm thiểu nhanh các TNLĐ. Các dây chuyền công nghệ cũ gây ô nhiễm hóa chất độc là
nguyên nhân gây tai nạn nhiễm độc cho công nhân (hiện tượng rò rỉ khí độc). Các nguyên nhân kỹ
thuật có thể gây TNLĐ như:
- Quá trình công nghệ chứa đựng các yếu tố nguy hiểm,có hại: có các bộ phận chuyển động, bụi,
tiếng ồn,
- Thiết kế, kết cấu không đảm bảo, không thích hợp với đặc điểm sinh lý của người sử dụng; độ
bền kém; thiếu các tính hiệu, cơ cấu báo hiệu, ngăn ngừa quá tải như van an toàn, phanh hãm, chiếu
sáng không thích hợp; ồn, rung vượt quá mức cho phép,
- Không thực hiện cơ khí hóa, tự động hóa những khâu LĐ nặng nhọc, nguy hiểm.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc kỹ thuật an toàn như các thiết bị áp
lực không được kiểm nghiệm trước khi đưa vào sử dụng, thiếu hoặc sử dụng không đúng các phương
tiện bảo vệ cá nhân,
Nhóm các nguyên nhân về tổ chức, quản lý
Tổ chức lao động không hợp lý là nguyên nhân gây mệt mỏi mất tập trung tư tưởng dễ tạo ra
TNLĐ. Mệt mỏi làm cho phản xạ thần kinh kém, dễ bị tai nạn. Sự phù hợp về cấu trúc giải phẫu sinh
lý với công việc và máy móc cũng sẽ giảm thiểu TNLĐ. Có thể kể đến những nguyên nhân như sau:
- Tổ chức sắp xếp chỗ làm việc không hợp lý, tư thế thao tác khó khăn; không gian làm việc chật
hẹp, vị trí tư thế thao tác gò bó.
- Bố trí sắp đặt máy móc thiết bị sai quy tắc an toàn, sự cố trên một máy có thể gây nguy hiểm
cho các máy khác.
- Bố trí mặt bằng SX, đường đi lại, vận chuyển không an toàn: đường đi chật hẹp, gồ ghế, các

đường vận chuyển chính trong DN cắt nhau,
- Bảo quản thành phẩm, bán thành phẩm không đúng nguyên tắc an toàn: sắp xếp các chi tiết
thành chồng quá cao, để lẫn các hóa chất có thể phản ứng,
- Không cung cấp cho NLĐ những phương tiện cá nhân đặc chủng, phù hợp.
- Tổ chức tuyển dụng, phân công, huấn luyện, giáo dục không đúng, không đạt yêu cầu: tổ chức
huấn luyện không đúng định kỳ, thiếu nội quy an toàn vận hành thiết bị tại chỗ làm việc cho từng
máy, cũng như tranh ảnh, áp phích BHLĐ trong phân xưởng SX.
Nhóm nguyên nhân vệ sinh công nghiệp
- Vi phạm các yêu cầu vệ sinh công nghiệp; bố trí các nguồn phát sinh hơi, khí, bụi ở đầu hướng
gió hoặc ở tầng dưới; không khử độc, lọc bụi trước khi thải.
- Phát sinh bụi, hơi khí độc trong không gian SX, rò rỉ từ thiết bị bình chứa, đường ống truyền
dẫn, thiếu hệ thống thu khử độc ở những nơi phát sinh.
- Điều kiện vi khí hậu xấu, vi phạm tiêu chuẩn cho phép như: nhiệt độ quá cao, quá thấp; độ ẩm
cao; bức xạ lớn, không khí không được lưu thông,
- Chiếu sáng chỗ làm việc không hợp lý, độ rọi thấp, độ rọi phân bố không đều gây chói lóa, lấp
bóng,
- Tiếng ồn, rung động vượt tiêu chuẩn cho phép.
- Phương tiện bảo vệ cá nhân không đảm bảo các yêu cầu VS, gây bất tiện cho người sử dụng.
- VS công nghiệp tại máy và trong phân xưởng không đúng quy định.
- Địa hình, thời tiết…
9. Khái niệm, nguyên nhân và các biện pháp phòng, chống cháy nổ trong các doanh nghiệp
thương mại dịch vụ.
9.1. Khái niệm về cháy, nổ
Theo định nghĩa cổ điển nhất thì quá trình cháy là phản ứng hóa học kèm theo hiện tượng tỏa
nhiệt lớn và phát sáng. Theo quan điểm này quá trình cháy thực chất là một quá trình ôxy hóa- khử.
Các chất cháy đóng vai trò của chất khử, còn chất ôxy hóa thì tùy phản ứng có thể khác nhau.
Theo quan điểm hiện đại thì quá trình cháy là quá trình hoá lý phức tạp, trong đó xảy ra các phản
ứng hoá học kèm theo hiện tượng toả nhiệt và phát sáng. Như vậy quá trình cháy gồm hai quá trình
cơ bản là quá trình hóa học và quá trình vật lý. Quá trình hóa học là các phản ứng hóa học giữa chất
cháy và chất ôxy hóa. Quá trình vật lý là quá trình khuyếch tán khí và quá trình truyền nhiệt từ giữa

vùng đang cháy ra ngoài.
Như vậy cháy chỉ xảy ra khi có 3 yếu tố: Chất cháy (Than, gổ, tre, nứa, xăng, dầu, khí mêtan,
hydrô, ôxit cácbon ), ôxy trong không khí (> 14-15% ) và nguồn nhiệt thích ứng (ngọn lửa, thuốc lá
hút dở, chập điện, ).
9.2. Những nguyên nhân gây cháy, nổ
Do sự vi phạm các điều kiện an toàn sẽ phát sinh ra những nguyên nhân gây ra cháy. Tuy nhiên
những nguyên nhân gây ra cháy có rất nhiều và cũng khác nhau. Những nguyên nhân đó cũng thay
đổi liên quan đến sự thay đổi các quá trình kỹ thuật trong sản xuất và việc sử dụng các thiết bị,
nguyên vật liệu, các hệ thống chiếu sáng đốt nóng,
Có thể phân ra những nguyên nhân chính sau đây:
- Nguyên nhân tự bốc cháy: gỗ thông 250
o
C, giấy 184
o
C, vải sợi hoá học 180
o
C
- Nguyên nhân cháy do nhiệt độ cao đủ sức đốt cháy một số chất như que diêm, dăm bào, gỗ
(750-800
o
C) như khi hàn hơi, hàn điện
- Nguyên nhân cháy do ma sát (mài, máy bay rơi).
- Nguyên nhân cháy do tác dụng của hoá chất.
- Nguyên nhân cháy do sét đánh, do chập điện, do đóng cầu dao điện.
- Nguyên nhân sử dụng các thiết bị có nhiệt độ cao như lò đốt, lò nung, các đường ống dẫn khí
cháy, các bể chứa nhiên liệu dễ cháy, gặp lửa hay tia lửa điện có thể gây cháy, nổ…
- Nguyên nhân do độ bền thiết bị không đảm bảo.
- Nguyên nhân người sản xuất thao tác không đúng quy định
Tóm lại trên các công trường, trong sinh hoạt, trong các nhà công cộng, trong sản xuất có thể có
nhiều nguyên nhân gây ra cháy. Phòng ngừa cháy là có liên quan nhiều tới việc tuân theo các điều

kiện an toàn khi thiết kế, xây dựng và sử dụng các công trình nhà cửa trên công công trường và trong
sản xuất.
9.3. Phòng và chống cháy, nổ
Biện pháp phi kỹ thuật
Điều 1 pháp lệnh phòng cháy chữa cháy 4/10/1961 đã quy định rõ: “ Việc phòng cháy và chữa
cháy là nghĩa vụ của mỗi công dân” và “ trong các cơ quan xí nghiệp, kho tàng, công trường, nông
trường, việc PCCC là nghĩa vụ của toàn thể cán bộ viên chức và trước hết là trách nhiệm của thủ
trưởng đơn vị ấy”. Ngày 31/5/1991 Chủ tịch HĐBT nay là Thủ tướng chính phủ đã ra chỉ thị về tăng
cường công tác PCCC. Điều 192, 194 của bộ luật hình sự nước CHXHCNVN quy định trách nhiệm
hình sự đối với mọi hành vi vi phạm chế độ, quy định về PCCC.
b/ Biện pháp kỹ thuật
Dựa vào nguyên lý phòng, chống cháy, nổ là tách rời 3 yếu tố là chất cháy, chất ôxy hoá và mồi
bắt lửa thì cháy nổ không thể xảy ra được.
Nguyên lý chống cháy, nổ là hạ thấp tốc độ cháy của vật liệu đang cháy đến mức tối thiểu và
phân tán nhanh nhiệt lượng của đám cháy ra ngoài.
Để thực hiện nguyên lý này trong thực tế có thể sử dụng các giải pháp khác nhau:
- Hạn chế khối lượng của chất cháy (hoặc chất ôxy hoá) đến mức tối thiểu cho phép về phương
diện kỹ thuật.
- Ngăn cách sự tiếp xúc của chất cháy và chất ôxy hoá khi chúng chưa tham gia vào quá trình
sản xuất. Các kho chứa phải riêng biệt và cách xa các nơi phát nhiệt. Xung quanh các bể chứa, kho
chứa có tường ngăn cách bằng vật liệu không cháy.
- Trang bị phương tiện PCCC (bình bọt AB, Bình CO
2
, bột khô như cát, nước.
- Huấn luyện sử dụng các phương tiện PCCC, các phương án PCCC. Tạo vành đai phòng
chống cháy.
- Cơ khí và tự động hoá quá trình sản xuất có tính nguy hiểm về cháy, nổ. Thiết bị phải đảm
bảo kín, để hạn chế thoát hơi, khí cháy ra khu vực sản xuất.
- Dùng thêm các chất phụ gia trơ, các chất ức chế, các chất chống nổ để giảm tính cháy nổ của
hỗn hợp cháy.

- Cách ly hoặc đặt các thiết bị hay công đoạn dể cháy nổ ra xa các thiết bị khác và những nơi
thoáng gió hay đặt hẳn ngoài trời
- Loại trừ mọi khả năng phát sinh ra mồi lửa tại những chỗ sản xuất có liên quan đến các chất
dể cháy nổ.
c/ Sử dụng các phương tiện chữa cháy
* Các chất chữa cháy: là những chất đưa vào đám cháy nhằm dập tắt nó như:
- Nước: Nước có ẩn nhiệt hoá hơi lớn làm giảm nhanh nhiệt độ nhờ bốc hơi. Nước được sử dụng
rộng rãi để chống cháy và có giá thành rẻ. Tuy nhiên không thể dùng nước để chữa cháy các kim loại
hoạt động như K, Na, Ca hoặc đất đèn và các đám cháy có nhiệt độ cao hơn 1700
0
C.
- Bụi nước: Phun nước thành dạng bụi làm tăng đáng kể bề mặt tiếp xúc của nó với đám cháy.
Sự bay hơi nhanh các hạt nước làm nhiệt độ đám cháy giảm nhanh và pha loãng nồng độ chất cháy,
hạn chế sự xâm nhập của ôxy vào vùng cháy. Bụi nước chỉ được sử dụng khi dòng bụi nước trùm kín
được bề mặt đám cháy.
- Hơi nước: Hơi nước công nghiệp thường có áp suất cao nên khả năng dập tắt đám cháy tương
đối tốt. Tác dụng chính của hơi nước là pha loãng nồng độ chất cháy và ngăn cản nồng độ ôxy đi vào
vùng cháy. Thực nghiệm cho thấy lượng hơi nước cần thiết phải chiếm 35% thể tích nơi cần chữa
cháy thì mới có hiệu quả.
- Bọt chữa cháy: còn gọi là bọt hoá học. Chúng được tạo ra bởi phản ứng giữa 2 chất: sunphát
nhôm Al
2
(S0
4
)
3
và bicacbonat natri (NaHCO
3
). Cả 2 hoá chất tan trong nước và bảo quản trong các
bình riêng. Khi sử dụng ta trỗn 2 dung dịch với nhau, khi đó ta có các phản ứng:

Al
2
(S0
4
)
3
+ 6H
2
O → 2Al(OH)
3
↓ + 3H
2
SO
4
H
2
SO
4
+ 2NaHCO
3
→ Na
2
SO
4
+2H
2
O + 2CO
2

Hydroxyt nhôm Al(OH)

3
là kết tủa ở dạng hạt màu trắng tạo ra các màng mỏng và nhờ có CO
2

một loại khí mà tạo ra bọt. Bọt có tác dụng cách ly đám cháy với không khí bên ngoài, ngăn cản sự
xâm nhập của ôxy vào vùng cháy. Bọt hoá học được sử dụng để chữa cháy xăng dầu hay các chất
lỏng khác.
- Bột chữa cháy: là chất chữa cháy rắn dùng để chữa cháy kim loại, các chất rắn và chất lỏng. Ví
dụ để chữa cháy kim loại kiềm người ta sử dụng bột khô gồm 96% CaCO
3
+ 1% graphit + 1% xà
phòng
- Các chất halogen: loại này có hiệu quả rất lớn khi chữa cháy. Tác dụng chính là kìm hãm tốc độ
cháy. Các chất này dể thấm ướt vào vật cháy nên hay dùng chữa cháy các chất khó hấm ướt như
bông, vải, sợi v.v Đó là Brometyl (CH
3
Br) hay Tetraclorua cacbon (CCl
4
)
.
* Xe chữa cháy chuyên dụng: được trang bị cho các đội chữa cháy chuyên nghiệp của thành phố
hay thị xã. Xe chữa cháy loại này gồm: xe chữa cháy, xe thông tin và ánh sáng, xe phun bọt hoá học,
xe hút khói v.v… Xe được trang bị dụng cụ chữa cháy, nước và dung dịch chữa cháy (lượng nước
đến 400 – 5.000 lít, lượng chất tạo bọt 200 lít.)
* Phương tiện báo và chữa cháy tự động: Phương tiện báo tự động dùng để phát hiện cháy từ
đâu và báo ngay về trung tâm chỉ huy chữa cháy. Phương tiện chữa cháy tự động là phương tiện tự
động đưa chất cháy vào đám cháy và dập tắt ngọn lửa.
* Các trang bị chữa cháy tại chỗ: đó là các loại bình bọt hoá học, bình CO
2
, bơm tay, cát, xẻng,

thùng, xô đựng nước, câu liêm v.v… Các dụng cụ này chỉ có tác dụng chữa cháy ban đầu và được
trang bị rộng rãi cho các cơ quan, xí nghiệp, kho tàng.
10. Tác hại của tai nạn điện, những nguyên nhân gây ra tai nạn điện và các biện pháp cần thiết để
đảm bảo an toàn điện trong các doanh nghiệp thương mại dịch vụ.
10.1. Tác hại của tai nạn điện (Tác dụng của dòng điện đối với cơ thể con người)
Khi người tiếp xúc với điện sẽ có 1 dòng điện chạy qua người và con người sẽ chịu tác dụng của
dòng điện đó.
-Tác hại của dòng điện đối với cơ thể con người có nhiều dạng: gây bỏng, phá vỡ các mô, làm
gãy xương, gây tổn thương mắt, phá huỷ máu, làm liệt hệ thống thần kinh,
-Tai nạn điện giật có thể phân thành 2 mức là chấn thương điện (tổn thương bên ngoài các mô)
và sốc điện (tổn thương nội tại cơ thể).
a. Chấn thương điện: Là các tổn thương cục bộ ở ngoài cơ thể dưới dạng: bỏng, dấu vết điện, kim
loại hoá da. Chấn thương điện chỉ có thể gây ra 1 dòng điện mạnh và thường để lại dấu vết bên ngoài.
+ Bỏng điện: Do các tia hồ quang điện gây ra khi bị đoản mạch, nhìn bề ngoài không khác gì các
loại bỏng thông thường. Nó gây chết người khi quá 2/3 diện tích da của cơ thể bị bỏng. Nguy hiểm
hơn cả là bỏng nội tạng cơ thể dẫn đến chết người mặc dù phía ngoài chưa quá 2/3.
+ Dấu vết điện: Là 1 dạng tác hại riêng biệt trên da người do da bị ép chặt với phần kim loại dẫn
điện đồng thời dưới tác dụng của nhiệt độ cao (khoảng 120
o
C).
+ Kim loại hoá da: Là sự xâm nhập của các mãnh kim loại rất nhỏ vào da do tác động của các
tia hồ quang có bão hoà hơi kim loại (khi làm các công việc về hàn điện).
b. Sốc điện: Là dạng tai nạn nguy hiểm nhất. Nó phá huỷ các quá trình sinh lý trong cơ thể con người
và tác hại tới toàn thân. Là sự phá huỷ các quá trình điện vốn có của vật chất sống, các quá trình này
gắn liền với khả năng sống của tế bào.
Khi bị sốc điện cơ thể ở trạng thái co giật, mê man bất tỉnh, tim phổi tê liệt. Nếu trong vòng 4-
6giây, người bị nạn không được tách khỏi kịp thời dòng điện co thể dẫn đến chết người.
Với dòng điện rất nhỏ từ 25-100mA chạy qua cơ thể cũng đủ gây sốc điện. Bị sốc điện nhẹ có
thể gây ra kinh hoàng, ngón tay tê đau và co lại; còn nặng có thể làm chết người vì tê liệt hô hấp và
tuần hoàn.

Một đặc điểm khi bị sốc điện là không thấy rõ chỗ dòng điện vào người và người tai nạn không
có thương tích.
10.2. Những nguyên nhân làm cho người bị tai nạn điện:
- Sự hư hỏng của thiết bị, dây dẫn điện và các thiết bị mở máy.
- Sử dụng không đúng các dụng cụ nối điện thế trong các phòng bị ẩm ướt.
- Thiếu các thiết bị và cầu chì bảo vệ hoặc có nhưng không đáp ứng với yêu cầu.
- Tiếp xúc phải các vật dẫn điện không có tiếp đất, dịch thể dãn điện, tay quay hoặc các phần
khác của thiết bị điện.
- Bố trí không đầy đủ các vật che chắn, rào lưới ngăn ngừa việc tiếp xúc bất ngờ với bộ phận
dẫn điện, dây dẫn điện của các trang thiết bị.
- Thiếu hoặc sử dụng không đúng các dụng cụ bảo vệ cá nhân: ủng, găng, tay cách điện, thảm
cao su, giá cách điện.
- Thiết bị điện sử dụng không phù hợp với điều kiện sản xuất.
10.3. Các biện pháp cần thiết để đảm bảo an toàn điện
a/ Các quy tắc chung
Để đảm bảo an toàn điện cần phải thực hiện đúng các quy định:
- Phải che chắn các thiết bị và bộ phận của mạng điện để tránh nguy hiểm khi tiếp xúc bất ngờ
vào vật dẫn điện.
- Phải chọn đúng điện áp sử dụng và thực hiện nối đất hoặc nối dây trung tính các thiết bị điện
cũng như thắp sáng theo đúng quy chuẩn.
- Nghiêm chỉnh sử dụng các thiết bị, dụng cụ an toàn và bảo vệ khi làm việc.
- Tổ chức kiểm tra vận hành theo đúng các quy tắc an toàn.
- Phải thường xuyên kiểm tra dự phòng cách điện của các thiết bị cũng như của hệ thống điện.
Qua kinh nghiệm cho thấy, tất cả các trường hợp xảy ra tai nạn điện giật thì nguyên nhân chính
hầu như không phải là do thiết bị không hoàn chỉnh, cũng không phải do phương tiện bảo vệ an toàn
chưa đảm bảo mà chính là do vận hành sai quy định, trình độ vận hành kém, sức khỏe không đảm
bảo. Vì vậy để vận hành an toàn cần phải thường xuyên cần phải thường xuyên kiểm tra sửa chữa
thiết bị, chọn cán bộ kỹ thuật, mở các lớp tập huấn chuyên môn, phân công trực đầy đủ .
Muốn thiết bị được an toàn đối với người làm việc và những người xung quanh, cần tu sửa
chúng theo kế hoạch đã định, khi sửa chữa phải theo đúng quy trình vận hành. Ngoài các công việc

làm theo chu kỳ cần có bộ phận trực tiếp với nhiệm vụ thường xuyên xem xét, theo dỏi. Các kết quả
kiểm tra cần ghi vào sổ trực và trên cơ sở đó mà đặt ra kế hoạch tu sửa.
Thứ tự không đúng trong khi đóng, ngắt mạch điện cũng là nguyên nhân của sự cố nghiêm trọng
và tai nạn nghiêm trọng cho người vận hành. Vì vậy cần vận hành các thiết bị điện theo đúng quy
trình với sơ đồ nối dây điện của các đường dây bao gồm tình trạng thực tế của các thiết bị điện vμ
những điểm có nối đất. Khi tiếp xúc với mạng điện, cần trèo cao, trong phòng kín ít nhất phải có 2
người, một người thực hiện công việc còn một người theo dõi và kiểm tra và là người lãnh đạo chỉ
huy toμn bộ công việc. Các thao tác phải được tiến hành theo mệnh lệnh, trừ các trường hợp xảy ra
tai nạn mới có quyền tự động thao tác rồi báo cáo sau.
b/ Các biện pháp kỹ thuật an toàn điện
Để phòng ngừa, hạn chế tác hại do tai nạn điện, cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật an toàn điện
sau đây:
Các biện pháp chủ động đề phòng xuất hiện tình trạng nguy hiểm có thể gây tai nạn:
- Đảm bảo tốt cách điện của thiết bị điện
- Đảm bảo khoảng cách an toàn, bao che, rào chắn các bộ phận mang điện
- Sử dụng điện áp thấp, máy biến áp cách ly.
- Sử dụng tín hiệu, biển báo, khóa liên động…
Các biện pháp để ngăn ngừa, hạn chế tai nạn điện:
- Thực hiện nối “ không” bảo vệ, và thực hiện nối đất bảo vệ, cân bằng thế: Để đề phòng điện
rò ra các bộ phận khác, để tản dòng điện vào trong đất và giử mức điện thế thấp trên các vật ta nối
“không” bảo vệ, nối đất an toàn và cân bằng thế. Nối đất nhằm bảo vệ cho người khi chạm phải vỏ
các thiết bị điện trong trường hợp cách điện của thiết bị bị hư…
- Sử dụng máy cắt an toàn.
- Sử dụng các phương tiện bảo vệ, dụng cụ phòng hộ: Khi đóng mở cầu dao ở bảng phân phối
điện phải đi ủng cách điện. Các cần gạt cầu dao phải làm bằng vật liệu cách điện và khô ráo. Tay ướt
hoặc có nhiễu mồ hôi cấm không được đóng mở cầu dao bảng phân phối điện. Chổ đứng của công
nhân thao tác công cụ phải có bục gỗ thoáng và chắc chắn…
c/ Cấp cứu người bị điện giật
Nguyên nhân chính làm chết người vì điện giật do hiện tượng kích thích là chính chứ không phải
do bị chấn thương. Vì vậy khi bị tai nạn điện, việc tiến hành sơ cứu nhanh chóng, kịp thời và đúng

phương pháp là những yếu tố quyết định để cứu sống nạn nhân. Thí nghiệm và thực tế cho thấy rằng
từ lúc bị điện giật đến một phút sau nếu được cứu chữa ngay thì 90% trường hợp cứu sống được, để 6
phút sau mới cứ chỉ có thể cứu sống 10%, nếu để từ 10 phút mới cấp cứu thì rất ít trường hợp cứu
sống được.
Khi sơ cứu người bị nạn cần thực hiện hai bước cơ bản: Tách nạn nhân ra khỏi nguồn điện sau
đó làm hô hấp nhân tạo.
Tách nạn nhân ra khỏi nguồn điện:
Nếu nạn nhân chạm vào điện hạ áp, cần nhanh chóng cắt nguồn điện (tại các vị trí cầu dao, áp tô
mát, cầu chì…). Nếu không thể cắt nhanh nguồn điện được thì dùng các vật cách điện như sào, gậy
tre, gỗ khô… để gạt dây điện ra khỏi nạn nhân. Nếu nạn nhân nắm chặt vào dây điện, cần phải đứng
trên các vật cách điện (bệ gỗ, tấm cách điện…) để kéo nạn nhân ra hoặc đi ủng cách điện hoặc dùng
găng tay cách điện để gỡ nạn nhân ra. Trong trường hợp cần thiết có thể dùng kìm cách điện, dao
hoặc rìu có cán gỗ khô để cắt hoặc chặt đứt dây điện.
Nếu nạn nhân bị chạm hoặc bị phóng điện từ thiết bị có điện áp cao thì không thể đến cứu ngay
trực tiếp mà cần phải đi ủng, dùng gậy, sào cách điện để tách người bị nạn ra khỏi phạm vi có điện.
Đồng thời báo cho người quản lý đến cắt điện trên đường dây. Nếu người bị nạn đang làm việc ở
đường dây trên cao, dùng dây dẫn nối đất làm ngắn mạch đường dây cần tiến hành nối đất trước sau
đó ném dây lên làm ngắn mạch đường dây, đồng thời có biện pháp đỡ nạn nhận khi rơi ngã nếu
người bị nạn ở trên cao.
Làm hô hấp nhân tạo:
Ngay sau khi tách được người bị nạn ra khỏi bộ phận mang điện, đặt nạn nhân ở chỗ thoáng mát,
cởi các phần quần áo bó thân (như cúc cổ, thắt lưng…), lau sạch máu, nước bọt và các chất bẩn rồi
thao tác theo trình tự sau:
- Đặt nạn nhân nằm ngửa, kê gáy bằng vật mềm để đầu ngửa về phía sau.
- Kiểm tra khí quản nạn nhân có thông suốt hay không và lấy các dị vật ra. Nếu hàm bị co cứng
phải mở miệng bằng cách để tay áp vào phía dưới của góc hàm dưới, tỳ ngón cái vào mép hàm để
đẩy hàm dưới ra.
- Kéo ngửa mặt nạn nhân về phía sau sao cho cằm và cổ trên một đường thẳng đảm bảo cho
không khí vào được dễ dàng. Đẩy hàm dưới về phía trước đề phòng lưỡi rơi xuống đóng thanh quản.
- Mở miệng và bịt mũi nạn nhân, người cấp cứu hít hơi và thổi mạnh vào miệng nạn nhân (đặt

khẩu trang hoặc khăn sạch lên miệng nạn nhân). Nếu không thể thổi vào miệng được thì có thể bịt
kín miệng và thổi vào mũi nạn nhân.
- Lặp lại thao tác trên nhiều lần, có kết hợp với thao tác xoa bóp tim. Việc thổi khí cần làm
nhịp nhàng và liên tục 10-12 lần/phút với người lớn, 20 lần/phút với trẻ em.
Xoa bóp tim ngoài lồng ngực:
- Nếu có hai người cấp cứu thì một người thổi ngạt còn một người xoa bóp tim. Người xoa bóp
tim đặt hai tay chồng lên nhau và đặt ở 1/3 phần dưới xương ức của nạn nhân, ấn khoảng 4-6 lần thì
dừng lại 2 giây để người thứ nhất thổi không khí vào phổi nạn nhân. Khi ấn ép mạnh lồng ngực
xuống 4-6 cm, sau đó giữ tay lại khoảng 1/3 giây rồi mới rời tay khỏi lồng ngực cho trở về vị trí cũ.
- Nếu chỉ có một người cấp cứu thì cứ sau hai ba lần thổi ngạt, ấn vào lồng ngực nạn nhân như
trên từ 4-6 lần.
Các thao tác phải được làm liên tục cho đến khi nạn nhân xuất hiện dấu hiệu sống trở lại, hệ hô
hấp có thể tự động hoạt động ổn định. Để kiểm tra nhịp tim, nên ngừng xoa bóp khoảng 2-3 giây. Sau
khi thấy sắc mặt trở lại hồng hào, đồng tử co giãn, tim phổi bắt đầu hoạt động nhẹ… cần tiếp tục cấp
cứu khoảng 5-10 phút nữa để tiếp sức thêm cho nạn nhân. Sau đó cần kịp thời chuyển ngay nạn nhân
tới bệnh viện. Trong quá trình vận chuyển vẫn phải tiếp tục tiến hành công việc cấp cứu liên tục.
11. Khái niệm tác hại nghề nghiệp và bệnh nghề nghiệp.
11.1. TÁC HẠI NGHỀ NGHIỆP
Tác hại nghề nghiệp là những ảnh hưởng xấu của các yếu tố có hại trong dây truyền công
nghệ, quy trình SX, điều kiện nơi làm việc,… đến sức khỏe và khả năng làm việc của NLĐ.
Các yếu tố có hại đối với sức khỏe NLĐ: Là những yếu tố phát sinh trong quá trình SX khi
tác động vào con người với mức độ vượt quá giới hạn chịu đựng của con người sẽ gây tổn hại đến
các chức năng của cơ thể, làm giảm khả năng LĐ. Sự tác động này thường diễn ra từ từ, kéo dài. Hậu
quả cuối cùng là gây BNN.
Các yếu tố gây tác hại nghề nghiệp được chia thành 2 nhóm:
- Nhóm 1: Các yếu tố có hại liên quan đến môi trường làm việc như:
+ Yếu tố vật lý: vi khí hậu xấu, bức xạ ion hóa, bức xạ không ion hóa, tiếng ồn, rung động, áp suất
cao, áp suất thấp, phóng xạ, ánh sáng,…
+ Yếu tố hóa học: bụi trong SX, các chất, hơi, khí độc,…
+ Yếu tố sinh vật học có hại: vi trùng, siêu vi trùng, ký sinh trùng, nấm mốc, côn trùng,…

- Nhóm 2: Các yếu tố có hại liên quan đến tâm sinh lý LĐ như:
+ LĐ thể lực nặng nhọc;
+ Tư thế LĐ gò bó;
+ Các stress về tâm lý, xã hội;
+ Căng thẳng thần kinh giác quan nhịp điệu làm việc;
+ Tính đơn điệu của công việc; thời gian LĐ, nghỉ ngơi không hợp lý,…
11.2. BỆNH NGHỀ NGHIỆP
- Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện LĐ có hại của nghề nghiệp tác động tới NLĐ.
Bệnh có thể xảy ra cấp tính hoặc từ từ. Một số BNN không chữa khỏi và để lại di chứng. BNN có thể
phòng tránh được.
Như vậy, kết quả tác động của các tác hại nghề nghiệp lên cơ thể NLĐ gọi là BNN
Bệnh nghề nghiệp rất nguy hiểm vì nhiễm từ từ vào cơ thể mà người lao động không hay biết, đến
khi có triệu chứng thì đã nặng, khó chữa.
12. Khái niệm, tác hại và biện pháp phòng ngừa vi khí hậu xấu.
Vi khí hậu tại nơi làm việc là trạng thái lý học của không khí trong một không gian thu hẹp của
nơi làm việc, bao gồm: nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ nhiệt, tốc độ chuyển động của không khí. Các yếu tố
của điều kiện vi khí hậu phải đảm bảo ở giới hạn nhất định, phù hợp với sinh lý của con người. Các
yếu tố vi khí hậu phải đảm bảo ở giới hạn nhất định, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý LĐ của con
người. Vượt qua giới hạn này là vi khí hậu không thuận lợi, sẽ gây ảnh hưởng tới tâm lý, sức khoẻ và
khả năng LĐ của con người.
Tác hại của vi khí hậu xấu
Điều kiện vi khí hậu có thể ảnh hưởng tới các quá trình sinh học trong điều hoà nhiệt độ của
cơ thể và có thể gây bệnh tật cho người lao động khi mà các phản ứng sinh lý sinh hóa bị rối loạn.
- Tác hại khi làm việc ở nhiệt độ cao:
+ Sự tuần hoàn máu mạnh hơn, tần suất hô hấp tăng, sự thiếu hụt ôxi tăng nên đòi hỏi sự cố gắng
cao của cơ thể để giữ cân bằng nhiệt.
+ NLĐ mất nhiều mồ hôi: Lao động nặng mất 6 - 7 lít nước/ca nên sau ngày làm việc trọng
lượng cơ thể có thể bị sút 2 – 4 kg. Đồng thời với việc mất nước, cơ thể mất một lượng muối khoáng.
Mất nước không được bù đắp kịp thời sẽ dẫn đến những rối loại chuyển hóa muối và nước, gây ra rối
loại các chức năng sinh lý của cơ thể như: đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, gây trở ngại nhiều cho

NLĐ. Nếu không có biệp pháp khắc phục dẫn đến hiện tượng say nóng, say nắng, co giật, mất trí.
Khi cơ thể mất nước có thể gây bệnh rối loạn chức năng thần kinh, tim mạch, bệnh ngoài da, đục
nhãn mắt nghề nghiệp.
Ví dụ: Nhà hàng là nơi trực tiếp SXKD các sản phẩm ăn uống nên môi trường không khí của nhà
hàng rất nóng đặc biệt khu vực “2/3 nhiệt” và khu vực bếp được thiết kế theo kiểu “khép kín”. Trong
khu vực “2/3 nhiệt” không thể lắp điều hòa nhiệt độ, chỉ có quạt thông gió, nhiều bếp hoạt động cùng
một lúc với cường độ cao do đó đã làm cho môi trường không khí của nhà hàng rất oi bức, nóng ẩm
và ô nhiễm mùi.
- Tác hại khi làm việc ở nhiệt độ thấp, đặc biệt khi có gió mạnh sẽ làm cho cơ thể quá lạnh gây
ra cảm lạnh, các bệnh về hô hấp, bệnh thấp khớp, khô niêm mạc, Nhiệt độ quá thấp làm cho NLĐ
bị cóng, cử động không chính xác, năng suất giảm thấp, tăng mức độ nguy hiểm khi vận hành máy,
thiết bị.
- Tác hại khi làm việc ở nơi có độ ẩm cao: có thể dẫn đến tăng độ dẫn điện của vật cách điện,
tăng nguy cơ nổ do bụi khí, cơ thể khó bài tiết qua mồ hôi.
+ Độ ẩm không khí từ 75 – 80% trở lên sẽ làm cho sự điều hòa nhiệt độ khó khăn, làm giảm sự
tỏa nhiệt của cơ thể bằng con đường tiết mồ hôi.
+ Nếu độ ẩm không khí cao, nhiệt độ cao, lưu thông không khí kém sẽ làm cho con người nóng
bức, khó chịu.
- Tác hại khi làm việc ở nơi có độ ẩm quá thấp: Nếu độ ẩm không khí thấp, có gió vừa phải thì
thân nhiệt không bị tăng lên, con người cảm thấy thoải mái, nhưng không nên để độ ẩm thấp < 30%.
- Vi khí hậu lạnh và khô làm cho rối loạn vận mạch thêm trầm trọng, gây khô niêm mạc, nứt nẻ
da.
- Vi khí hậu nóng ẩm làm giảm khả năng bay hơi mồ hơi, gây ra rối loạn thăng bằng nhiệt, làm
cho mệt mỏi xuất hiện sớm, nó còn tạo cho vi sinh vật phát triển, gây bệnh ngoài da.
- Tốc độ gió biểu thị bằng tốc độ chuyển động của không khí. Tốc độ lưu chuyển không khí ảnh
hưởng trực tiếp đến sự tỏa nhiệt, bốc hơi nước. Vì thế, nơi làm việc cần thoáng mát. Luồng không
khí có tốc độ đều hoặc có tốc độ và phương thay đổi nhanh chóng đều có ý nghĩa vệ sinh quan trọng
trong SXKD.
- Các yếu tố bức xạ nhiệt nếu cao hoặc thấp hơn tiêu chuẩn vệ sinh cho phép đều ảnh hưởng đến
sức khoẻ, gây bệnh tật và giảm khả năng lao động của con người.

Các biện pháp cải thiện điều kiện vi khí hậu xấu
Biện pháp kỹ thuật:
- Cải tiến kỹ thuật, cơ giới hóa và tự động hóa các khâu sản xuất mà NLĐ phải làm việc trong
điều kiện nhiệt độ cao.
- Cách ly nguồn nhiệt bằng phương pháp che chắn. Nếu có điều kiện làm lán di động có mái che
để chống nóng.
- Bố trí thông gió tự nhiên và nhân tạo để tạo ra luồng không khí thường xuyên nơi SXKD, đồng
thời phải có biện pháp chống ẩm để NLĐ dễ bốc mồ hôi, cụ thể:
+ Thiết kế nơi làm việc: Khi thiết kế trần nhà tối thiểu phải cao 3 - 3,5 m, đối với nhà nhiều
tầng thì tăng chiều cao mỗi tầng. Thông gió nóc là một giải pháp chống nóng tốt. Tăng chiều cao
phòng trên cơ sở đảm bảo 25 – 30 m
3
khí /1 người /1 giờ và còn làm giảm nhiệt độ, giảm bức xạ
nhiệt.
+ Nên chọn hướng nhà thích hợp vì hướng nhà là một trong những biện pháp quan trọng hàng
đầu để bảo vệ nhà hàng khỏi bị nóng. Tốt nhất nên chọn hướng Nam hoặc Đông Nam, tránh hướng
Tây vì hướng này mang lại một lượng tối đa nhiệt của mặt trời trong những ngày nóng nhất. Nhà
hướng Nam có nhiệt độ thấp hơn nhà hướng Tây 2 - 3
0
C. Cần dùng tường và mái đủ độ dày, có lớp
phân cách và làm bằng vật liệu có trị số biên độ dao động nhiệt thấp nhất, có hệ số hàm nhiệt cao
như gạch, bê-tông và cần dùng rèm che ngăn nắng trực tiếp chiếu vào phòng. Nên dùng sơn tường
có màu sáng vì màu sơn trắng chỉ hấp thụ 15 - 20% nhiệt, màu vàng hấp thụ 30 - 50% nhiệt, màu
tối hấp thụ 100%; có đủ diện tích cửa sổ, cửa trời tạo điều kiện thông gió tốt.
+ Nơi làm việc dùng cửa bằng kính nên dùng loại kính có phản quang, màu mát dịu. Nếu chỉ sử
dụng loại kính bình thường hay tạo ra sự ngột ngạt và có khả năng xuất hiện “hiệu ứng nhà kính” tạm
thời, làm cho nơi làm việc trở nên nóng bức, ngột ngạt hơn.
+ Song song với các biện pháp trên, nơi làm việc cần trồng nhiều cây xanh vì cây xanh làm
giảm cường độ bức xạ nhiệt, làm giảm nhiệt độ không khí xuống 1,5 – 2
0

C. Khi nhiệt độ mặt sàn
đường nhựa là 40
0
C , nhiệt độ ngoài trời là 32
0
C thì nhiệt độ ở thảm cỏ chỉ có 26
0
C.
+ Trong khu đặc biệt là khu chế biến nhiệt thì không dùng thiết bị lạnh nhân tạo mà chỉ nên
áp dụng các biện pháp chống nóng như trên cùng với việc sử dụng ánh sáng bằng đèn huỳnh quang
để tạo ra cảm giác mát mẻ hơn và còn có thể nhận biết được một cách chính xác trạng thái, màu sắc
của sản phẩm.
+ Bố trí máy điều hòa nhiệt độ ở những bộ phận SXKD đặc biệt.
- Bố trí các máy, thiết bị bức xạ nhiều nhiệt ở phòng riêng hoặc bố trí ngoài nơi SXKD (nếu quá
trình công nghệ cho phép) nhằm hạn chế bớt ảnh hưởng bức xạ nhiệt của chúng.
+ Máy, thiết bị, đường ống, lò tỏa nhiệt khác nên làm cách nhiệt bằng vật liệu như bông, amiăng,
vật liệu chịu lửa, bê-tông bột. Nếu không cho phép sử dụng chất cách nhiệt thì xung quanh thiết bị bức
xạ nhiệt phải làm lớp vỏ bao và màn chắn hoặc màn nước.
Biện pháp tổ chức:
- Tổ chức lao động hợp lý, cải thiện ĐKLĐ ở chỗ nắng, nóng. Tạo điều kiện nghỉ ngơi và bồi
dưỡng hiện vật cho NLĐ. Tăng cường sinh tố trong khẩu phần ăn, cung cấp đủ nước uống sạch và
hợp vệ sinh (pha thêm 0,5% muối ăn), đảm bảo chỗ tắm rửa cho NLĐ sau khi làm việc.
- Sử dụng các dụng cụ phòng hộ cá nhân, quần áo bằng vải sợi chống nhiệt cao ở những nơi
nóng, kính màu, kính mờ ngăn các tia có hại cho mắt.
Biện pháp vệ sinh y tế:
- Khám sức khỏe định kỳ cho NLĐ ở chỗ nóng, không bố trí những người có bệnh thần kinh, tim
mạch làm việc ở nơi có nhiệt độ cao.
13. Khái niệm, tác hại và biện pháp phòng chống tiếng ồn
Khái niệm tiếng ồn: Tiếng ồn là tập hợp những âm thanh gây khó chịu cho con người, nó phát sinh
do sự chuyển động của các chi tiết hoặc các bộ phận của máy móc do va chạm hoặc do khí động học.

- Tiếng ồn là tác hại nghề nghiệp khi cường độ của chúng vượt quá giới hạn tiêu chuẩn cho phép.
- Các đặc trưng của tiếng ồn là các thông số vật lý như cường độ, tần số, phổ tiếng ồn và các thông số
sinh lý như mức to, độ cao.
- Tác hại gây ra bởi tiếng ồn phụ thuộc vào cường độ và tần số của nó.
Tác hại của tiếng ồn
- Khi chịu tác động của tiếng ồn, độ nhạy cảm của thính giác giảm xuống, ngưỡng nghe tăng lên. Khi
rời môi trường tiếng ồn đến nơi yên tĩnh, độ nhạy cảm có khả năng phục hồi lại nhanh, nhưng khả
năng phục hồi đó chỉ có một hạn độ nhất định.
- Dưới tác động kéo dài của tiếng ồn, thính lực giảm đi rõ rệt và phải sau một thời gian khá lâu sau
khi rời nơi ồn, thính giác mới phục hồi trở lại. Nếu tác động của tiếng ồn lặp đi, lặp lại nhiều lần,
thính giác không còn khả năng phục hồi hoàn toàn về trạng thái bình thườmg được. Sự thoái hóa dần
dần sẽ phát triển thành những biến đổi có tính chất bệnh lý gây ra bệnh nặng tai và điếc.
- Tiếng ồn có cường độ trung bình và cao sẽ gây kích thích mạnh đến hệ thống thần kinh trung ương;
sau một thời gian dài, có thể dẫn tới hủy hoại sự hoạt động của đầu não với những biểu hiện như đau
đầu, chóng mặt, cảm giác sợ hãi hay bực tức, trạng thái tâm thần không ổn định, trí nhớ giảm sút,
- Tiếng ồn ảnh hưởng xấu đến hệ thống tim mạch, gây rối loạn nhịp tim; làm cho hệ thần kinh bị
căng thẳng liên tục có thể gây ra bệnh cao huyết áp.
- Người tiếp xúc với tiếng ồn quá lâu, có thể bị mệt mỏi, ăn uống sút kém, không ngủ được; nếu kéo
dài sẽ dẫn đến suy nhược thần kinh và cơ thể.
Các biện pháp chống ồn
- Loại trừ nguồn phát sinh ra tiếng ồn: Dùng quá trình SX không tiếng ồn thay cho quá trình SX
có tiếng ồn; làm giảm cường độ tiếng ồn phát sinh từ máy và động cơ; giữ cho máy ở trạng thái hoàn
thiện; siết chặt bulông, đinh vít, tra dầu mỡ thường xuyên.
- Cách ly tiếng ồn và hút âm: Chọn vật liệu cách âm để làm nhà cửa; làm nền nhà bằng cao su, cát,
nền nhà phải đào sâu, xung quanh nên đào rãnh cách âm rộng 6 – 10cm.
- Lắp đặt các thiết bị giảm tiếng động của máy: bao phủ chất hấp thụ sự rung động ở các bề mặt
rung động phát ra tiếng ồn bằng vật liệu có ma sát lớn; lắp bộ phận tiêu âm trong một số máy.
- Dùng các phương tiện bảo vệ cá nhân
Phòng hộ cá nhân thu được hiệu quả tức thời và nhiều khi rất tốt cho những người bắt buộc
phải tiếp xúc với tiếng ồn. Chỉ đơn giản là dùng nút bông nút tai ở người lao động, người đi máy

bay, có thể giảm được 5 - 10 do tiếng ồn môi trường. Các dụng cụ bịt tai chụp hoàn toàn bộ tai
ngăn được tiếng ồn từ 10 - 20 do nên hầu hết tiếng ồn trở nên thấp, dưới mức gây hại. Trong những
điều kiện phải tiếp xúc với tiếng ồn quá cao như lái xe tăng, pháo thủ hoặc môi trường có tiếng
tương tự người ta cần phải dùng mũ chống tiếng ồn, chụp che toàn bộ tai mới bảo vệ được cơ
quan thính giác trước tác hại của tiếng ồn.
- Chế độ LĐ hợp lý
Chế độ lao động và nghỉ ngơi hợp lý cũng đóng vai trò làm giảm nhẹ tác hại của tiếng ồn vì thần
kinh và các cơ quan không bị quá kích thích hoặc tăng ngưỡng dẫn đến mệt mỏi không hồi
phục, không chuyển sang giai đoạn bệnh lý mạn tính. Thời gian lao động đủ gây mệt mỏi hoặc chưa
mệt mỏi đã được nghỉ sẽ mau hồi phục chức năng của các cơ quan trong cơ thể trong đó có cơ quan
thính giác.
Vấn đề y tế và an toàn lao động cần lưu ý là việc tiêu chuẩn hóa môi trường lao động có tiếp xúc với
tiếng ồn và chăm sóc sức khỏe cho người lao động. Môi trường lao động phải có tiếng ồn dưới tiêu
chuẩn cho phép.
Trong khám, tuyển người lao động vào lao động ở môi trường có tiếng ồn cao cần loại trừ
người có các bệnh về tai và thần kinh. Đối với người lao động làm việc tiếp xúc với tiếng ồn vượt
tiêu chuẩn cho phép cần được khám sức khỏe thường xuyên để kịp thời phát hiện những tình trạng
bệnh lý ban đầu do tiếng ồn hoặc bệnh ở giai đoạn mới, giai đoạn tiềm tàng có thể chữa khỏi được
và nếu người nào bị bệnh ở giai đoạn biến chứng thì giải quyết chế độ cho họ theo chế độ hiện hành.
14. Khái niệm, tác hại và biện pháp phòng chống bụi
 Khái niệm: Bụi là tập hợp của nhiều hạt vật chất có kích thước rất nhỏ ở trạng thái lơ lửng trong
không khí trong một thời gian nhất định.
 Tác hại của bụi
- Bám vào máy móc thiết bị làm máy móc thiết bị chóng mòn.
- Bám vào các ổ trục làm tăng ma sát.
- Bám vào các mạch động cơ điện gây hiện tượng đoản mạch và có thể làm cháy động cơ điện.
- Bụi chủ yếu gây tác hại đối với sức khỏe NLĐ. Mức độ tác động của bụi lên các bộ phận cơ thể con
người phụ thuộc vào tính chất lý hóa, tính độc, độ nhỏ và nồng độ bụi.

+ Đối


với da và niêm mạc: Bụi bám vào da làm sưng lỗ chân lông gây viêm da, bám vào
niêm mạc gây viêm niêm mạc; đặc biệt, một số loại bụi len, nhựa đường có thể gây dị ứng da.
+ Đối với mắt: Bụi bám vào mắt gây ra các bệnh về mắt như viêm màng tiếp hợp, viêm giác
mác. Nếu bụi nhiễm siêu vi trùng mắt hột có thể gây bệnh mắt hột; bụi kim loại có cạnh sắc nhọn khi
bám vào mắt làm xây xát hoặc thủng giác mạc, làm giảm thị lực của mắt; bụi vôi bắn vào mắt gây
bỏng mắt.
+ Đối với tai: Bụi bám vào các ống tai gây viêm tai, nếu bụi nhiều quá có thể làm tắc ống tai.
+ Đối với bộ máy tiêu hóa: Bụi vào miệng gây viêm lợi, sâu răng. Các loại bụi hạt to nếu sắc
nhọn gây ra xây xát niêm mạc dạ dày, viêm loét hoặc gây rối loạn tiêu hóa.
+ Đối với bộ máy hô hấp: Vì bụi chứa trong không khí nên tác hại lên đường hô hấp là chủ
yếu. Bụi trong không khí càng nhiều thì bụi vào phổi càng nhiều. Bụi có thể gây ra viêm mũi, viêm
khí phế quản,
Khi hít phải loại hạt bụi rất bé có kích thước từ 0,1 - 5µm thì sẽ có 70 - 80% lượng bụi đi vào phổi và
ở trong các phế nang làm tổn thương phổi hoặc gây bệnh bụi phổi.
 Biện pháp phòng và chống bụi
a. Biện pháp kỹ thuật
+ PP cơ khí hóa quá trình SX để NLĐ ít tiếp xúc với bụi; che đậy các bộ phận phát sinh nhiều bụi
bằng vỏ che, từ đó đặt ống hút thải bụi ra ngoài để phòng bụi trong công tác xay, nghiền, sàng, bốc
dỡ các loại vật liệu hạt rời hoặc dễ sinh bụi.
+ PP khử bụi bằng cơ khí và điện như: buồng lắng bụi bằng PP ly tâm, lọc bụi bằng điện, khử bụi
bằng máy siêu âm, dùng các lưới lọc bụi bằng PP ion hóa tổng hợp.
+ BP SX ướt hoặc SX trong không khí ẩm nếu ĐK cho phép hoặc có thể thay đổi kỹ thuật thi công.
+ Sử dụng hệ thống thông gió tự nhiên và nhân tạo, rút bớt độ đậm đặc của bụi trong không khí bằng
các hệ thống hút bụi, hút bụi cục bộ trực tiếp từ chỗ bụi được tạo ra. Thường xuyên tổng vệ sinh nơi
làm việc để giảm lượng bụi trong môi trường SX.
b. BP về tổ chức
+ Bố trí các xí nghiệp, xưởng gia công, phát ra nhiều bụi, xa các vùng dân cư, các khu vực nhà ở.
Công trình nhà ăn, nhà trẻ đều phải bố trí xa nơi SX phát sinh ra bụi.
+ Đường vận chuyển các nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm mang bụi phải bố trí riêng

biệt để tránh tình trạng tung bụi vào môi trường SX nói chung và các khu vực gián tiếp. Tổ chức tốt
tưới ẩm mặt đường khi trời nắng gió, hanh khô.
- Trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân
+ Trang bị quần áo công tác phòng bụi không cho bụi lọt qua để phòng ngừa cho NLĐ làm việc ở
những nơi nhiều bụi, đặc biệt với bụi độc.
+ Dùng khẩu trang, mặt nạ hô hấp, bình thở, kính đeo mắt để bảo vệ mắt, mũi, miệng.
c. Biện pháp y tế
+ Trên công trường hay trong nhà máy phải có đủ nhà tắm, nơi rửa cho NLĐ. Sau khi làm việc, NLĐ
phải tắm giặt sạch sẽ, thay quần áo; cấm ăn uống, hút thuốc lá ở nơi SX.
+ Không tuyển dụng người có bệnh mãn tính về đường hô hấp làm việc ở nơi nhiều bụi. Những NLĐ
tiếp xúc với bụi thường xuyên được khám sức khỏe định kỳ để phát hiện kịp thời những bệnh do
nhiễm bụi.
+ Phải định kỳ kiểm tra hàm lượng bụi trong môi trường SX; nếu thấy quá tiêu chuẩn cho phép phải
tìm mọi BP làm giảm hàm lượng bụi.
d. Các BP khác
+ Thực hiện tốt khâu bồi dưỡng hiện vật cho NLĐ, tổ chức ca kíp và bố trí giờ giấc LĐ, nghỉ ngơi
hợp lý để tăng cường sức khỏe NLĐ; coi trọng khẩu phần ăn và rèn luyện thân thể cho NLĐ.
15. Trình bày khái niệm, tác hại và biện pháp phòng ngừa rung động.
Khái niệm rung động: là hiện tượng vật lý thường do các động cơ nổ hay các dụng cụ cầm tay bằng
khí nén tạo ra.
Tác hại của rung động
- Rung động với cường độ nhỏ và thời gian tác động ngắn thì có ảnh hưởng tốt đến sức khỏe: tăng
lực bắp thịt, làm giảm mệt mỏi,… Rung động với cường độ lớn và thời gian tác động lâu gây khó
chịu cho cơ thể.
- Rung động có tần số thấp nhưng biên độ lớn thường gây ra sự lắc xóc, nếu biên độ càng lớn thì gây
ra lắc xóc càng mạnh.
- Rung và chấn động có thể chia 2 loại: rung toàn thân hoặc rung cục bộ.
+ Rung toàn thân khi NLĐ làm việc phải đứng hoặc ngồi trên bệ hoặc sàn đặt máy, máy chuyển
động làm rung sàn hoặc bệ máy làm rung chuyển toàn thân NLĐ. Rung toàn thân thường xảy ra đối
với những người làm việc trên phương tiện giao thông, máy hơi nước, máy nghiền

+ Rung cục bộ do một bộ phận thân thể NLĐ trong thao tác công việc sử dụng các dụng cụ cầm tay
chạy bằng khí nén tiếp xúc với một bộ phận của máy, thiết bị hoạt động tạo thành rung một bộ phận
cơ thể NLĐ gọi là rung cục bộ. Rung cục bộ xuất hiện ở tay, ngón tay khi làm việc với cưa máy, búa
máy, máy đánh bóng. Rung gây ra chứng bợt tay, mất cảm giác, ngoài ra gây thương tổn huyết quản,
thần kinh, khớp xương, cơ bắp, xúc giác và lan rộng, thâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương,
hệ tuần hoàn nội tiết.
+ Cả hai loại rung trên tùy theo mức độ đều gây tổn thương xương, khớp, rối loạn tim mạch. Nếu
chấn động vượt quá giới hạn cho phép sẽ gây BNN.
- Làm thay đổi hoạt động của tim, gây ra di lệch các nội tạng trong ổ bụng, làm rối loạn sự hoạt động
của tuyến sinh dục nam và nữ.
- Nếu bị lắc xóc và rung động kéo dài, có thể làm thay đổi hoạt động chức năng của tuyến giáp trạng,
gây chấn động cơ quan tiền đình và làm rối loại chức năng giữ thăng bằng của cơ quan này.
- Rung động kết hợp với tiếng ồn làm cơ quan thính giác bị mệt mỏi quá mức dẫn đến bệnh điếc nghề
nghiệp.
- Rung động lâu ngày gây nên các bệnh đau xương khớp, làm viêm hệ thống xương khớp. Đặc biệt
trong ĐK nhất định có thể phát triển gây thành bệnh rung động nghề nghiệp.
Các biện pháp phòng chống tác hại của rung động
- Về BP kỹ thuật
+ Thay các bộ phận máy thiết bị phát ra rung động.
+ Kiểm tra thường xuyên và sửa chữa kịp thời các chi tiết máy bị mòn và hư hỏng hoặc gia công các
chi tiết máy đặc biệt để khử rung.
+ Nền và bệ máy phải bằng phẳng và chắc chắn.
+ Cách ly những thiết bị phát ra độ rung lớn bằng những rãnh xung quanh móng máy.
+ Thay sự liên kết cứng giữa nguồn rung động và móng của nó bằng liên kết giảm rung khác để giảm
sự truyền rung của máy xuống móng.
- Về BP tổ chức SX
+ Chia nhiều ca kíp để san sẻ mức độ tiếp xúc với rung động cho NLĐ
+ Bố trí thời gian nghỉ giữa ca dài không tiếp xúc với rung động.
- Về phòng hộ cá nhân
+ Phòng hộ cá nhân có tác dụng làm giảm trị số biên độ dao động truyền đến cơ thể khi có rung động

chung hoặc lên phần cơ thể tiếp xúc với vật rung động.
+ Giầy vải chống rung: có miếng đệm lót bằng cao su, trong đó có gắn 6 lò so. Chiều dày miếng đệm
30mm, độ cứng của lò so ở phần gót 13kg/cm, ở phần đế 10,5kg/cm. Khi tần số rung động từ 20 –
50Hz với biên độ tương ứng từ 0,4 – 0,1mm thì độ tắt rung của loại giầy này đạt khoảng 80%.
+ Găng tay chống rung: được sử dụng khi dùng các dụng cụ cầm tay rung động hoặc đầm rung bề
mặt. Yêu cầu chủ yếu là hạn chế ảnh hưởng rung động tập trung vào tay. Sử dụng găng tay có lớp lót
ở lòng bàn tay bằng cao su xốp dày sẽ làm giảm biên độ rung động với tần số 50Hz từ 3 – 4 lần.
Dùng găng tay chống rung có cao su đàn hồi giảm sự truyền rung động đi 10 lần.
- Về BP y tế
+ Không nên tuyển dụng những người có các bệnh về rối loạn thần kinh, mạch máu ở long bàn tay
làm việc tiếp xúc với rung động.
+ Không nên bố trí LĐ nữ lái các loại xe vận tải cỡ lớn gây ra lắc xóc nhiều.
16. Khái niệm, tác hại và biện pháp phòng ngừa chiếu sáng không hợp lý.
 Khái niệm
Để xác định ĐK và trình độ của thiết bị ánh sáng, người ta dùng khái niệm về độ sáng của bề mặt
được chiếu sáng hay độ rọi.
Độ rọi E là mật độ quang thông bề mặt tức là quang thông đổ lên 1 bề mặt xác định, được tính bằng
tỷ số quang thông F đối với diện tích bề mặt được chiếu sáng S:
E = F/S
Trong đó:
E là độ rọi (lx - lux);
F là quang thông (lm - luymen);
S là diện tích (m
2
)
 Tác hại của việc chiếu sáng không hợp lý
- Độ chiếu sáng không đầy đủ: Làm việc trong ĐK chiếu sáng không đạt tiêu chuẩn, mắt phải điều
tiết quá nhiều trở nên mệt mỏi. Tình trạng mệt mỏi kéo dài sẽ gây căng thẳng, làm chậm phản xạ thần
kinh, khả năng phân biệt của mắt đối với sự vật dần dần bị sút kém, có thể sinh tật cận thị (người trẻ).
- Nếu chiếu sáng quá nhiều, sự phân biệt các vật bị nhầm lẫn, dẫn đến làm sai các động tác và do đó

sẽ xảy ra TNLĐ, đồng thời làm giảm NSLĐ và chất lượng sản phẩm.
- Độ chiếu sáng quá chói:
+ Cường độ chiếu sáng quá lớn hoặc bố trí chiếu sáng không hợp lý sẽ dấn đến tình trạng lóa
mắt làm cho nhức mắt, do đó làm giảm thị lực của NLĐ.
+ Hiện tượng chiếu sáng chói lóa buộc NLĐ phải mất thời gian để cho mắt thích nghi khi
nhìn từ trường ánh sáng thường sang trường sang trường ánh sáng chói và ngược lại sẽ làm giảm sự
thụ cảm của mắt, làm giảm NSLĐ, tăng phế phẩm và TNLĐ.
 Các PP chiếu sáng trong SX
Trong SX thường lợi dụng 3 loại ánh sáng: tự nhiên, nhân tạo và hỗn hợp. Ở mỗi nơi làm việc, tùy
thời gian khác nhau mà sử dụng 1 trong 3 loại ánh sáng trên. Trong tất cả các trường hợp đều nên lợi
dụng ánh sáng tự nhiên vì rẻ tiền nhất và có ảnh hưởng tốt đối với con người.
a. Chiếu sáng tự nhiên
+ Có thể theo các cách: chiếu sáng qua cửa trời hoặc cửa sổ lấy ánh sáng trên cao; chiếu sáng qua cửa
sổ tường ngăn hoặc kết hợp 2 hình thức trên.
+ Đặc điểm của ánh sáng tự nhiên: thay đổi trong phạm vi rất lớn, phụ thuộc vào thời gian trong
ngày, mùa trong năm và thời tiết. Trong một thời gian ngắn, độ chiếu sáng tự nhiên có thể thay đổi
khác nhau vài lần, cho nên độ chiếu sáng trong phòng không nên đặc trưng và quy định bởi đại lượng
tuyệt đối như đối với chiếu sáng nhân tạo.
b. Chiếu sáng nhân tạo
+ Chiếu sáng nhân tạo có thể là chiếu sáng chung, cục bộ và kết hợp.
+ Trong ĐK SX, để cho ánh sáng phân bố đều chỉ nên tổ chức chiếu sáng chung hoặc kết hợp; không
được chiếu sáng cục bộ vì: sự tương phản giữa những chỗ quá sáng và chỗ tối làm cho mắt mệt mỏi,
giảm NSLĐ, có thể gây ra chấn thương.
Nguồn sáng nhân tạo có thể là đèn dây tóc, đèn huỳnh quang, đèn đặc biệt và đèn hồ quang điện.
- Đèn dây tóc có độ chói quá lớn gây ra tác dụng lóa mắt. Để loại trừ tác dụng đó, người ta dùng chao
đèn (loại chiếu thẳng đứng, phản chiếu và khuếch tán).
- Đèn huỳnh quang được sử dụng rộng rãi trong một số lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là nơi cần
phân biệt màu sắc hoặc yêu cầu độ chính xác cao. Đèn huỳnh quang có ưu điểm: phân tán ánh sáng
tốt, ít chói hơn đèn dây tóc vài lần và hầu như xóa được ánh sáng đèn và gần như ánh sáng tự nhiên;
tiêu thụ ít điện, phát quang tốt và thời gian sử dụng được lâu hơn. Đèn huỳnh quang có nhược điểm:

chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh, kết cấu đèn phức tạp, hay bị nhấp nháy đối với các
mạng điện xoay chiều.
- Đèn pha chiếu sáng thường được sử dụng ở trên công trình thi công về ban đêm, để chiếu sáng các
khu vực xây dựng, diện tích kho bãi lớn không thể bố trí các đèn chiếu thường trên bề mặt cần chiếu.
Đèn pha chiếu sáng gồm 2 loại:
+ Đèn pha rải ánh sáng có chùm sáng tỏa ra tương đối rộng nhờ bộ phận phản chiếu bằng kính tráng
bạc hình parabol. Loại này thường được sử dụng để chiếu sáng các diện tích xây dựng và kho bãi lớn.
+ Đèn pha để chiếu sáng mặt đứng.
17. Khái niệm, tác hại và biện pháp phòng ngừa các yếu tố về cường độ, tư thế và tính chất đơn
điệu trong lao động.
Do yêu cầu của công nghệ và tổ chức lao động mà NLĐ có thể phải lao động ở cường độ lao
động quá mức theo ca, kíp, tư thế làm việc gò bó trong thời gian dài, ngửa người, vẹo người, treo
người trên cao, mang vác nặng, động tác lao động đơn điệu, buồn tẻ hoặc với phải tập trung chú ý
cao gây căng thẳng về thần kinh tâm lý.
Làm việc quá sức: sự làm việc gắng sức quá mức chịu đựng của cơ thể có thể gây nên nhiều tác
hại về hô hấp và tim mạch, mệt mỏi mất tập trung dễ dẫn đến tai nạn thậm chí có thể dẫn đến đột quị.
Ðiều kiện lao động trên gây nên những hạn chế cho hoạt động bình thường, gây trì trệ phát triển,
gây hiện tượng tâm lý mệt mỏi, chán nản dẫn tới những biến đổi ức chế thần kinh, gây bệnh tâm lý
mệt mỏi, uể oải, suy nhược thần kinh, đau mỏi cơ xương, có khi dẫn đến TNLĐ.
Mệt mỏi trong lao động
a. Khái niệm mệt mỏi trong lao động
Mệt mỏi là trạng thái tạm thời của cơ thể xảy ra sau một thời gian lao động nhất định. Mệt mỏi
trong lao động thể hiện ở chỗ:
- Năng suất lao động giảm.
- Số lượng phế phẩm tăng lên.
- Dễ bị xảy ra TNLĐ.
Khi mệt mỏi, NLĐ cảm giác khó chịu, buồn chán công việc. Nếu được nghỉ ngơi, các biểu hiện
trên mất dần, khả năng lao động được phục hồi.

×