Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Pháp luật mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.04 KB, 37 trang )

Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa

LỜI MỞ ĐẦU

1. lý do chọn đề tài
Hiện nay, hoạt động thương mại đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới,
đó là một nhu cầu bất thiết của tất cả các nước trên thế giới. Thông qua hoạt
động xuất nhập khẩu các nước tích cực mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác quốc
tế với nhau. Đều này sẽ tạo điều kiện để họ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của
đất nước, tiếp thu các thành tựu khoa hoc kỹ thuật của các nước khác, góp phần
làm cho thế giói ngày càng phát triển hơn nữa. Với việc đẩy mạnh hoạt động
xuất nhập khẩu, thế giới đã tạo ra nhiều công cụ bổ trợ khác nhau.
Ở Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế của nước ta đang ngày
càng phát triển. Đặc biệt, khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ Chức
Thương Mại Quốc Tế ( WTO ), thì càng tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ hơn nữa, nền sản xuất trong nước đã và đang vươn mình trỗi
dậy, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng được đẩy mạnh, tạo điều kiện thuận
lợi để hoạt động trao đổi và mua bán hàng hóa phat triển thu về nhiều lợi nhuận
cho đất nước nói chung và các thương nhân nói riêng. Cùng với đó là nhu cầu
về việc phát triển các công cụ bổ trợ ngày càng bứt thiết. Trong đó phải kể điến
một cơng cụ đã tồn tại từ rất lâu trên thế giới đó là các sở giao dịch hàng
hóa.Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước cùng nhu câu mua bán
hàng hóa, nước ta đã trở thành thị trường tiềm năng để phát triển hoạt động mua
bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Và thực tế Nhà nước đã tạo điều kiện
cho hoạt động này phát triển thông qua việc xây dựng hành lang pháp lý an
toang để điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch. Tuy nhiên,
thực tế áp dụng luật con nhiều bất cập đáng lo ngại đã cản trở sự phát triển của
nó, làm cho sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam phát triển chưa xứng với tiềm
năng. Địi hỏi cần phải sớm có các biện pháp để diều chỉnh, nhằm tạo điều kiện
Nguyễn Hữu Tinh


1


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
tốt nhất cho hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ngày càng
phát triển hơn nữa. Và đây cũng là lý do mà người viết chọn đề tài “Pháp luật
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa” để nghiên cứu và tìm các hướng
giải quyết tốt nhất, hi vọng có thể là tài liệu tham khảo bổ ích.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài, mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa là một hoạt động diễn ra từ rất lâu trên thế giới tuy nhiên với Việt
Nam nó là hoạt động tương đối mới mẻ. Vì vậy có nhiều vấn đề chưa được làm
rõ trong hình thức mua bán này. Do đó, đề tài sẽ đi sâu vào tìm hiểu các nội
dung cơ bản của hoạt động mua ban hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa theo
pháp luật hiện hành ở Việt Nam mà chưa đi sâu vào nghiên cứu từng vấn đề cụ
thể
3. Phương pháp nghiên cứu, đề tài được nghiên cứu dựa trên phương
pháp thu thập tài liệu có liên quan, tổng hợp thơng tin, phân tích, so sánh thông
tin và đưa ra các đánh giá.
4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa; các quy định của luật
doanh nghiệp về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, cùng các văn
bản hướng dẫn như: Nghị định 158/2006/NĐ-CP, Thông tư 03/2009/TT-BCT,
Quyết định 0106/2011/QĐ-BCT, Quyết định 4361/2010/QĐ-BCT; thực trạng
hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Với việc phân tích các quy định của luật và tình hình thực tế của hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa người viết đã đưa ra một số
giải pháp mang tính định hướng nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách nhận
ra được các bất cập của hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch và tiến

Nguyễn Hữu Tinh

2


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
tới hồn thiện hệ thống pháp luật hơn nữa. Bên cạnh đó, người viết cũng hi
vọng đề tài sẽ là nguồn tư liệu bổ ích cho những ai quan tâm đến hoạt động mua
bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
6. Kết cấu của niên luận.
A. LỜI NĨI ĐẦU
B. NỘI DUNG.
CHƯƠNG1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ
GIAO DỊCH.
CHƯƠNG2: THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN
HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH VÀ GIẢI PHÁP.
C. KẾT LUẬN.

Nguyễn Hữu Tinh

3


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH.
1. Khái quát chung về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch.
1.1. Khái niệm về sở giao dịch hàng hóa.

1.1.1 Lịch sử hình thành Sở giao dịch hàng hóa.
* Ở các nước trên thế giới.
Ngay từ thế kỷ XIX, nhiều quốc gia trên thế giới có nền kinh tế thị trường
đã thiết lập các Sở giao dịch hàng hóa.
Ở Hoa Kỳ, giữa thế kỷ XIX, tại các chợ đầu mối bến cảng đã có hàng
ngàn Sở giao dịch hàng hoá được thiết lập để thương nhân, nhà sản xuất các sản
phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp ( ngô, gạo, bông, gia súc… ) gặp gỡ, mua bán,
giao kết hợp đồng. Tuy nghiên do sự thay đổi của nền kinh tế đã dẫn đến tình
trạng chỉ cịn một số Sở giao dịch hàng hóa lớn cịn tồn tại và phát triển. Ví dụ
như: Hoa Kỳ nổi tiếng với sở giao dịch hàng hóa New York được thiết lập vào
thế kỷ XIX chuyên về mua bán xăng dầu khí đốt, vàng bạc… Canada có sở giao
dịch hàng hóa Winnipeg được thiết lập tư cuối thế kỷ XIX chun về mua bán
các hàng nơng sản ( lúa, mì, ngô,… ).Anh với sở giao dịch Luandon. Nhật với
sở giao dịch Tokyo chuyên về mua bán vàng bạc, bạch kim, cao su, bông vải,
nhôm,…

Nguyễn Hữu Tinh

4


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
Đến nay, trên thế giới Mĩ và Anh là hai nước dẫn đầu thế giới về sự phát
triển của Sở giao dịch hàng hóa. Trong khu vực Châu Á, Nhật Bản, Trung
Quốc, Singapo, Hàn Quốc, Malaysia,… đều đã có Sở giao dịch hàng hóa phát
triển.
* Ở Việt Nam.
Hiện nay, ở Việt Nam nhu cầu thiết lập các Sở giao dịch hàng hóa đã phát
triển. Tại nhiều vùng kinh tế trọng điểm của nước ta đã dần xuất hiện các hình
thức đầu tiên để hình thành Sở giao dịch hàng hóa, đó là việc các chợ đầu mối

mua bán nơng sản ( lúa, gạo, cao su, cà phê,.. ) ở các tỉnh. Và để mở rộng và
phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay, tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi, Quốc hội đã quy định những vấn đề có tính ngun tắc về Sở giao dịch hàng
hóa cũng như việc mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa tại Luật thương
mại 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trên cơ sở luật và các văn bản hướng dẫn thi hành thì Bộ Cơng Thương
cấp phép hoạt động cho Sở giao dịch hàng hóa VNX với vốn điều lệ 150 tỷ
đồng. Cà phê, cao su và thép là những mặt hàng giao dịch đầu tiên. Sở giao dịch
hàng hóa Việt Nam (VNX), trước đây là Sở giao dịch hàng hóa Triệu Phong
chính thức hoạt động vào ngày 11/1/2011. Đây được xem là Sở giao dịch hàng
hóa đầu tiên ở Việt Nam.
1.1.2 Sở giao dịch hàng hóa.
Ở Việt Nam, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là một hình
thức mới mẻ, và lần đầu tiên được đưa vào Luật thương mại 2005. Đây là hình
thức mua bán hàng hóa có thể đáp ứng tốt việc bảo vệ nhà sản xuất nhằm giảm
thiểu rủi ro cho hàng hóa. Theo Thạc sĩ Hà Thị Thanh Bình thì “ Sở giao dịch
hàng hóa là nơi thỏa thuận va ký kết những hợp đồng để thực hiện việc mua bán

Nguyễn Hữu Tinh

5


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
hàng hóa khơng trực tiếp giao ngay mà là cam kết việc mua bán hàng hóa. Cịn
việc giao hàng và nhận tiền sẽ được thực hiện trong tương lai”
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy: Sở giao dịch hàng hóa khơng phải là tổ
chức mua bán hàng hóa mà là nơi để người mua bán gặp gỡ xác lập giao dịch
mua bán hàng hóa với nhau. Những giao dịch thơng qua sở giao dịch hàng hóa
chủ yếu là các giao dịch kỳ hạn, tức là giao dịch mà thời điểm giao hàng sẽ

được ấn định trong tương lai chứ khơng phải tại thời điểm giao dịch. Do đó Sở
giao dịch hàng hóa là hình thức thị trường đặc biệt, thực hiện mua bán hàng hóa
quy mơ lớn, theo mẫu và quy cách hàng hóa.
Theo điều 67 Luật thương mại 2005 quy dinh Sở giao dịch hàng hóa là tổ
chức có chức năng cung cấp điều kiện vật chất – kỹ thuật cần thiết để giao dịch
mua bán hàng hóa, điều hành các hoạt động giao dịch và niêm yết các mức giá
cụ thể để hình thành trên thị trường giao dịch tại thời điểm. Các vấn đề cụ thể
về điều kiện thành lập, quyền hạn, trách nhiệm của Sở giao dịch hàng hóa tương
lai được quy định trong văn bản hướng dẫn của Chính Phủ.
1.2. Khái niệm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở
giao dịch hàng hóa trong các tài liệu, luật giao dịch hàng hố của các nước,
trong đó có Luật thương mại năm 2005, Nghị định của Chính phủ số 158/2006/
NĐ-CP. Khoản 1 Điều 63 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó các bên thỏa
thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất
định qua Sở giao dịch hàng hóa theo những tiêu chuẩn của Sở giao dịch hàng
hóa với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao
hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai”.

Nguyễn Hữu Tinh

6


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
Trong hoạt động thương mại, hàng hóa là đối tượng của giao dịch mua
bán có thể là hàng hóa hữu hình hoặc hàng hóa hình thành trong tương lai. Hoạt
động mua bán hàng hố c ó thể khơng dẫn đến thực chất việc giao nhận hàng
hóa trong thực tế. Các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa tương lại có thể

giao kết và thực hiện với mục đích hạn chế rủi ro hoặc thu lợi nhuận. Có thể
thấy, khái niệm mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa của Luật thương
mại năm 2005 đã thể hiện đầy đủ bản chất của hoạt động mua bán hàng hóa qua
Sở giao dịch hang hóa.
1.3. Đặc điểm của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa có những đặc điểm sau:
1.3.1. Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động
thương mại
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm sinh lợi khác.Như vậy, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, hay nói cách khác là hoạt động kinh doanh
nhằm tìm kiếm lợi nhuận của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ thương mại.
1.3.2 Về chủ thể
Tham gia vào hoạt động Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
gồm những chủ thể chính sau:
Thứ nhất, khách hàng (hay những người có nhu cầu mua bán hàng hoá
qua Sở giao dịch hàng hoá) là tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của Sở
giao dịch hàng hoá, thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa thơng qua việc uỷ thác cho thành viên kinh doanh của Sở giao dịch
hàng hóa. Khách hàng là chủ thể hợp đồng mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch

Nguyễn Hữu Tinh

7


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
hàng hóa và khơng bắt buộc phải là thương nhân, chỉ là các tổ chức, cá nhân có
nhu cầu mua bán hàng hoá qua sở giao dịch. Tuy nhiên, khách hàng không trực

tiếp giao dịch tại Sở giao dịch mà phải uỷ thác cho thành viên kinh doanh của
Sở giao dịch để thực hiện hoạt động mua hoặc bán hàng hoá qua sở giao dịch.
Thứ hai, thành viên kinh doanh của Sở giao dịch hàng hóa. Thành viên
kinh doanh có quyền thực hiện các hoạt động mua bán hàng hoá cho chính mình
để tìm kiếm lợi nhuận hoặc nhận uỷ thác mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa cho khách hàng để hưởng thù lao.
Thứ ba, thành viên mơi giới của Sở giao dịch hàng hóa. Thành viên môi
giới thực hiện hoạt động môi giới mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
để nhận thù lao.Thành viên môi giới không được nhận uỷ thác của khách hàng
như thành viên kinh doanh để mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa mà
chỉ được thực hiện hoạt động mơi giới mua bán hàng hố qua Sở giao dịch hàng
hố.
Bên cạnh ba chủ thể chính này, trong mua bán hàng hóa thơng qua Sở
giao dịch hang hóa cịn có một số chủ thể khác, đó là các nhà tư vấn thực hiện
việc phân tích thị trường, lập báo cáo, cho ý kiến tư vấn hoặc đưa ra các đề xuất
về việc mua bán hợp đồng kỳ hạn cho một người nào đó và thu phí; các đại lý
giao dịch được cấp phép làm đại lý cho công ty mơi giới hàng hóa giao sau
trong việc mơi giới các lệnh mua bán từ khách hàng…
1.3.3. Hình thức mua bán hàng hóa thơng qua Sở giao dịch hàng hóa.
Hình thức mua bán hàng hóa thơng qua Sở giao dịch hàng hóa là hợp
đồng, đó là hợp đồng kì hạn và hợp đồng quyền chọn.
Hợp đồng kì hạn là thoả thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua
cam kết nhận hàng hoá tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng.

Nguyễn Hữu Tinh

8


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa

Để giảm thiểu rủi ro cho chính mình, trên cơ sở hợp đồng kì hạn đã giao
kết, hai bên có thể kí tiếp hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua
(hợp đồng quyền chọn). Hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua là
thoả thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng
hoá xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản
tiền nhất định để mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên mua quyền có
quyền chọn thực hiện hoặc khơng thực hiện việc mua bán hàng hố đó.
1.3.4. Về phương thức giao dịch.
Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là phương thức trung gian
( Sở giao dịch hàng hóa ).
Các hợp đồng mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa đã được Sở giao dịch
tiêu chuẩn hóa về số lượng, thời gian giao hàng và địa điểm giao hàng, các bên
chỉ cần thỏa thuận về giá. Một trong các căn cứ để các bên xác định giá cho hợp
đồng mua bán hàng hóa là giá niêm yết tại Sở giao dịch hàng hóa.
Ngồi ra, khi mua bán hàng hóa thơng qua Sở giao dịch hàng hóa, quan hệ
mua bán phải tuân thủ các điều kiện do từng Sở giao dịch quy định. Do đó, các
bên tham gia mua bán hàng hóa thơng qua Sở giao dịch hàng hóa không nhất
thiết phải xem xét khả năng thực tế của bên kia, người mua khơng phải lo lắng
về hàng hóa có được đảm bảo chất lượng, số lượng và người bán cũng khơng
cần phải lo về khả năng thanh tốn của bên mua. Bởi những điều này đã được
Sở giao dịch hàng hóa quy định chặt chẽ. Vì vây, khi mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa, quyền lợi của khách hàng sẽ được đảm bảo tốt hơn khi mua
bán hàng hóa ngịi Sở giao dịch hàng hóa.
Như vậy có thể nói rằng, Sở giao dịch là phương thức giao dịch trung
gian trong hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Sở giao
dịch hàng hóa thành lập hoặc ủy thác cho tổ chức khác thành lập trung tâm

Nguyễn Hữu Tinh

9



Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
thanh tốn hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ( trung tâm thanh tốn ), trung
tâm giao nhận hịng hóa khi khách hàng thực hiện các hợp đồng mua bán hàng
hóa.

1.3.5. Đối tượng của quan hệ mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa.
Đối tượng của quan hệ mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là
hàng hoá. Hàng hoá được các bên thoả thuận giao kết phải là hàng hoá được
phép giao dịch tại sở giao dịch; tuân thủ các quy định về loại hàng, tiêu chuẩn
chất lượng, chủng loại và các điều kiện khác do Bộ công thương quy định hoặc
Sở giao dịch hàng hóa đặt ra. Theo thơng lệ chung, hàng hố được mua bán tại
Sở giao dịch thường là những hàng hoá được giao kết với số lượng lớn và có sự
biến động mạnh về giá cả, ví dụ: Nơng sản ( gạo, hạt tiêu, cà phê, ca cao, ngũ
cốc ), vàng, kim loại màu, len thơ… Hàng hố được giao dịch tại Sở giao dịch
hàng hóa có thể chưa hiện hữu vào thời điểm giao kết hợp đồng ( ví dụ: Máy
móc chưa sản xuất; nhà chưa hoặc đang xây dựng; gạo, cà phê, ca cao, cao su,
bông vải…chưa đến vụ thu hoạch ).
1.4. Pháp luật hiện hành về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở
Việt Nam
Hiện nay, hành lang pháp lí cho việc xây dựng Sở giao dịch hàng hóa và
hoạt động mua bán hàng hố qua Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam đã tương
đối đầy đủ. Luật thương mại năm 2005 đã đặt nền móng đầu tiên về các quy
định quản lý nhà nước đối với Sở giao dịch hàng hóa. Tiếp đó, Chính phủ và
các cơ quan quản lý đã ban hành một số văn bản quy định có liên quan như
Nghị định số 158/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28 tháng 12 năm 2006 quy
định chi tiết Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch


Nguyễn Hữu Tinh

10


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
hàng hóa; Thơng tư số 03/2009/TT-BCT của Bộ Cơng Thương ngày 10 tháng 2
năm 2009 hướng dẫn hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy phép thành lập và quy
định chế độ báo cáo của Sở giao dịch hàng hóa theo quy định tại Nghị định số
158/2006/NĐ-CP; Quyết định số 4361/2010/QĐ-BCT của Bộ trưởng Bộ Công
Thương ngày 18 tháng 8 năm 2010 ban hành danh mục các loại hàng hóa được
phép giao dịch qua Sở giao dịch hàng hóa; Quyết định 0106/2011/QĐ-BCT
ngày 10 tháng 01 năm 2011 về sửa đổi, bổ sung giấy phép thành lập Sở giao
dịch hàng hóa . Có thể khái quát ở một số nội dung cơ bản sau:
1.4.1. Về tổ chức và hoạt động của Sở giao dịch hàng hố.
Sở giao dịch hàng hóa là một chủ thể tổ chức và điều hành hoạt động mua
bán hàng hóa. Ở các nước Sở giao dịch hàng hóa tồn tại rất đa dạng về hình
thức tổ chức và cơ chế vận hành. Tuy nhiên, bản chất chung của Sở giao dịch
hàng hóa vẫn là một tổ chức nghề nghiệp, có tư cách pháp nhân, hoạt động theo
nguyên tắc hạch tốn kinh tế độc lập. Do đó, việc thành lập Sở giao dịch hàng
hóa phải tuân thủ quy định của pháp luật điều kiện và thủ tục chặt chẽ.
1.4.1.1. Địa vị pháp lý của Sở giao dịch hàng hóa.
Sở giao dịch hàng hóa do Bộ cơng thương cấp phép thành lập dưới hình thức
một cơng ty cổ phần hoặc cơng ty TNHH, có tư cách pháp nhân và hoạt động
theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật thương mại và Nghị định của Chính
phủ số 158/2006/NĐ-CP. Đây là điểm khác biệt cơ bản của hoạt động mua bán
hàng hóa thơng qua Sở giao dịch hàng hóa với hoạt động mua bán hàng hóa
thơng thường và hoạt động mua bán hàng hóa giao sau trên thị trường ngồi sở.
Trong hoạt động mua bán hàng hóa thơng thường, các bên trực tiếp thỏa thuận
với nhau về giá cả, số lượng, phẩm cấp hàng hóa, thời hạn giao nhận mà khơng

cần phải thông qua một chủ thể trung gian nào. Tại thì trường hàng hóa giao sau
ngồi sở cũng vậy, các bên có thể chủ động thỏa thuận với nhau việc mua, bán
một lượng hàng hóa nhất định với các điều khoản về chất lượng, giá cả và thời
Nguyễn Hữu Tinh

11


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
điểm giao hàng trong tương lai nhất định mà khơng thông qua một tổ chức nào.
Nhưng đối với hoạt động mua bán hàng hóa thơng qua Sở giao dịch hàng hóa,
thỏa thuận mua bán hàng hóa của các bên nhất thiết phải thực hiện thơng qua Sở
giao dịch hàng hóa. Sở giao dịch hàng hố đóng vai trị trung gian, kết nối quan
hệ mua bán hàng hóa của các bên mua bán hàng hóa. Để tham gia được vào
quan hệ mua bán này, người mua và người bán phải đáp ứng được những yêu
cầu nhất định do Sở giao dịch hàng hóa quy định.
1.4.1.2. Điều kiện để thành lập Sở giao dịch hàng hóa
Theo quy định tại Điều 8 Nghị định 158 Sở giao dịch hàng hóa được
thành lập nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
1. Có vốn pháp định 150 tỷ đồng trở lên;
2. Điều lệ hoạt động phù hợp với quy định của Nghị định này;
3. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở lên
và có thời gian cơng tác trong lĩnh vực kinh tế - tài chính ít nhất là 05 năm; có
đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh
nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp;
4. Các điều kiện khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Như vậy, Sở giao dịch hàng hóa chỉ được thành lập nếu đáp ứng các điều
kiện trên, trong đó Điều lệ hoạt động của Sở giao dịch phải phản ánh được theo
đúng nội dung quy định tại điều 14 Nghị định 158 bao gồm: Điều kiện và thủ
tục chấp thuận tư cách thành viên; quyền và nghĩa vụ thành viên; Các trường

hợp chấm dứt tư cách thành viên và trách nhiệm khi chấm dứt tư cách thành
viên; Loại hàng hoá giao dịch; tiêu chuẩn và đơn vị đo lường của loại hàng hố
đó; Mẫu hợp đồng giao dịch và lệnh giao dịch; Thời hạn giao dịch hợp đồng và
quy trình thực hiện giao dịch; Hạn mức giao dịch, ký quỹ giao dịch và phí giao

Nguyễn Hữu Tinh

12


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
dịch; Các phương thức, thủ tục thực hiện hợp đồng; Nội dung công bố thông tin
của Sở Giao dịch hàng hóa và các báo cáo hoạt động, báo cáo tài chính của các
thành viên; Các biện pháp quản lý rủi ro; Giải quyết tranh chấp; Sửa đổi, bổ
sung Điều lệ hoạt động và các nội dung có liên quan khác .
1.4.1.3. Quyền và trách nhiệm của Sở giao dịch hàng hóa
Nghị định 158 đã quy định khá rõ và chi tiết về các quyền và nghĩa vụ
của Sở giao dịch hàng hóa. Trong đó, bao gồm các nghĩa vụ cơ bản được quy
định tại điều 16 như: công bố các giấy tờ chứng minh tư cách giấy phép thành
lập, điều lệ hoạt động, mẫu hợp đồng, mẫu lệnh giao dịch… của Sở giao dịch;
thực hiện chế độ báo cáo…và là chủ thể chịu trách nhiệm đến cùng về các giao
dịch. Đều này, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện giao dịch
một cách dễ dàng và họ cũng không cần phải quá lo sợ rằng sở giao dịch sẽ “bỏ
chạy” giữa chừng nếu có bất lợi. Mà luật đã quy định khá rõ sở giao dịch phai
có trách nhiệm đến cùng trong các giao dịch. Nghĩa là phải đảm bảo giao dịch
được thực hiện một cách thuận lợi và phải chịu mọi trách nhiệm khi giao dịch
khơng thành cơng mà có lỗi của so giao dịch. Do đó, nhà đầu tư có thể yên tâm
khi tham gia các giao dịch tại sở giao dịch. Ngoài ra, với tính chất là một trung
gian trong các giao dịch nên có thể sở giao dịch sẽ liên kết với một bên để làm
phương hại đến lợi ích của bên cịn lại, khơng đảm bảo tính cơng bằng và cạnh

tranh. Lường trước được điều này luật cũng đã có quy định cụ thể trong nghĩa
vụ của Sở giao dịch hàng hóa dó là nghĩa vụ tổ chức giao dịch một cách vơ tư,
cơng bằng và hiệu quả
Bên cạnh đó, cũng như bất kì một tổ chức kinh doanh nào, luật cũng quy
định khá rõ các quyền cơ bản của Sở giao dịch hàng hóa khi tham gia hoat đơng
tại điều 15 Nghi định 158/2006/NĐ-CP như: Sở giao dịch hàng hóa có quyền
lựa chọn hàng hóa cơ sở đưa vào danh mục giao dịch tại sở; tổ chức, điều hành
và quản lý hoạt động giao dịch qua sở; chấp thuân, hủy bỏ tư cách thành viên
Nguyễn Hữu Tinh

13


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
của cơng ty có “chân” tại sở giao dịch; u cầu các thành viên ký quỹ để thực
hiện giao dịch; thu các loại phí theo quy định; ban hành quy chế niêm yết, công
bố thông tin; kiểm tra, giám sát hoạt động giao dịch; yêu cầu thành viên áp
dụng biện pháp quản lý rủi ro; làm trung gian giải quyết tranh chấp theo yêu
cầu….Để đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho sở giao dich có thể hoạt động có
hiệu quả, tạo một hành lang pháp lý an toan cho Sở giao dịch hàng hóa hình
thành và phát triển bền vững.
1.4.1.4. Thành viên của Sở giao dịch hàng hóa.
Điều 17 Nghị định 158 đã quy định khá rõ các quyền và nghĩa vụ cũng
như điêu kiện để trở thành và chấm dứt tư cách thành viên của Sở giao dịch
hàng hóa. Theo đó:
Thứ nhất, Thương nhân mơi giới: Theo Điều 19 Nghị định 158 Thành
viên môi giới phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: “Là doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp; vốn pháp định là 5 tỉ
đồng trở lên; giám đốc hoặc tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở
lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và khơng thuộc đối tượng bị cấm quản lí

doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp; các điều kiện khác theo
quy định của Điều lệ hoạt động của Sở giao dịch hàng hố”. Thương nhân mơi
giới thực hiện các hoạt động mơi giới mua bán hàng hố qua Sở giao dịch hàng
hóa. Quyền và nghĩa vụ của thành viên mơi giới thực hiện theo Luật Thương
mại và Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng hóa.
Thứ hai, Thương nhân kinh doanh thực hiện các hoạt động mua bán hàng
hoá qua Sở giao dịch hàng hóa. Điều kiện trở thành thành viên kinh doanh của
Sở giao dịch hàng hóa bao gồm: “Là doanh nghiệp được thành lập theo quy
định của Luật doanh nghiệp; vốn pháp định 75 tỉ đồng trở lên; giám đốc hoặc
tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở lên, có đủ năng lực hành vi dân
sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lí doanh nghiệp theo quy định của
Nguyễn Hữu Tinh

14


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
Luật doanh nghiệp; các điều kiện khác theo quy định của Điều lệ hoạt động của
Sở giao dịch hàng hoá” (Điều 21 Nghị định 158).
Họ có quyền thực hiện các hoạt động tự doanh hoặc nhận uỷ thác mua bán
hàng hố qua Sở giao dịch hàng hóa cho khách hàng; yêu cầu khách hàng kí quỹ
để thực hiện giao dịch; Nộp phí thành viên, phí giao dịch và các loại phí khác
theo quy định của Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng hóa; Thiết lập hệ
thống kiểm sốt nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát, ngăn ngừa những xung đột
lợi ích trong nội bộ và trong giao dịch; Trong trường hợp nhận uỷ thác, phải ký
kết hợp đồng uỷ thác bằng văn bản với khách hàng và chỉ được thực hiện giao
dịch cho khách hàng khi nhận được lệnh uỷ thác giao dịch từ khách hàng; Cung
cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời thông tin cho khách hàng; Lưu giữ đầy đủ các
chứng từ và tài khoản phản ánh chi tiết, chính xác các giao dịch cho khách hàng
và cho chính mình.; Ưu tiên thực hiện lệnh uỷ thác giao dịch của khách hàng

trước lệnh giao dịch của chính mình; Giao dịch trung thực và cơng bằng, vì lợi
ích của khách hàng; Đảm bảo hạch tốn riêng hoạt động mua bán hàng hóa qua
Sở Giao dịch hàng hóa của từng khách hàng và của chính mình; Thực hiện chỉ
định của Sở Giao dịch hàng hóa theo quy định; Các nghĩa vụ khác theo quy
định của Nghị định này và Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng hóa...
Ngịai ra, để đảm bảo giám sát có hiệu quả các hoạt động của thương
nhân, đảm bảo cho hoạt động mua bán hàng hóa thuận lợi thì theo quy định tại
điều 24 Nghị định 158 Thương nhân bị chấm dứt tư cách thành viên nếu vi
phạm các điều kiên sau đây:
1. Khơng cịn đáp ứng đủ các điều kiện trở thành thành viên.
2. Giải thể, phá sản hoặc chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp
luật.

Nguyễn Hữu Tinh

15


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
3. Tự đề nghị chấm dứt tư cách thành viên và được Sở Giao dịch hàng
hóa chấp thuận theo quy định của Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng
hóa.
4. Có hành vi vi phạm là điều kiện chấm dứt tư cách thành viên theo quy
định của Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng hóa hoặc quy định của pháp
luật.
1.4.2. Hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hóa
1.4.2.1. Hợp đồng mua bán hàng hố qua Sở giao dịch hàng hóa.
Hợp đồng được sử dụng làm công cụ để giao dịch theo quy định của Luật
thương mại là “hợp đồng kì hạn” và “hợp đồng quyền chọn” và là loại hợp đồng
song vụ, theo đó các bên cam kết thực hiện nghĩa vụ trong tương lai.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 64 Luật thương mại 2005: “Hợp đồng kì
hạn là thoả thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng
hoá tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng”. Như vậy, theo cách định
nghĩa truyền thống, hợp đồng kì hạn giống như những hợp đồng mua bán thơng
thường, đó là sự thoả thuận, thống nhất ý chí giữa các chủ thể giao kết để
chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua và đổi lấy khoản tiền là giá trị
hàng hoá. Tuy nhiên, khác với mua bán thơng thường, việc kí kết hợp đồng kì
hạn khơng phải là kí kết trực tiếp giữa người bán và người mua mà được thực
hiện thông qua Sở giao dịch hàng hóa với tư cách là cơ quan trung gian. Khi
một người muốn mua hàng hoá qua sở giao dịch, người đó sẽ phải tuân thủ các
quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa cũng như quy tắc, điều lệ hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa đó.
Hợp đồng kì hạn chứa đựng yếu tố rủi ro cao hơn so với hợp đồng mua bán
thông thường nhưng bên mua và bên bán nhiều khi lại tìm kiếm lợi nhuận trên
cơ sở sự biến động đó của thị trường.

Nguyễn Hữu Tinh

16


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
Trên cơ sở hợp đồng kì hạn đã giao kết, hai bên có thể kí tiếp hợp đồng
quyền chọn.Hợp đồng quyền chọn bao gồm hợp đồng về quyền chọn bán hoặc
quyền chọn mua. Hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua là thoả
thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hố
xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền
nhất định để mua quyền này (gọi là tiền mua quyền).Bên mua quyền có quyền
chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua bán hàng hố đó (khoản 3 Điều
64 LTM). Hợp đồng quyền chọn thực chất là sự tự bảo hiểm cho chính hợp

đồng kì hạn mà hai bên đã kí kết; theo đó:
Cho phép dồn nghĩa vụ về một bên (bên bán quyền). Khi giá cả hàng hoá
trên thị trường tăng hoặc giảm so với giá thoả thuận trong hợp đồng, bên mua
quyền có quyền thực hiện hoặc khơng thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng kì hạn.
Bên bán quyền trong hợp đồng quyền chọn phải sẵn sàng đón nhận hàng hố
nếu bên mua quyền thực hiện quyền giao hàng, mặc dù có thể hợp đồng đó
khơng cịn có lợi cho mình. Bù lại, bên bán quyền chắc chắn đã được hưởng
một khoản tiền (tiền bán quyền) chứ không phải là lợi nhuận mà hợp đồng mang
lại. Điều này đòi hỏi bên bán quyền trong hợp đồng quyền chọn phải là những
chủ thể có tiềm lực kinh tế mạnh để sẵn sàng chấp nhận rủi ro đồng thời vẫn thu
được lợi nhuận. Đây là một lợi thế rất lớn của hợp đông quyền chọn và cũng
phù hợp với mục đích tham gia Sở giao dịch của các nhà đầu tư đó là lợi nhuận,
do dó mà loại hợp đơng này rất được các nhà đầu tư ưa chuộng.
1.4.2.2. Loại hàng hoá được phép đưa vào giao dịch
Theo quy định của Nghị định số 158/2006/NĐ-CP, danh mục hàng hoá
giao dịch tại SGDHH phải được công bố và nằm trong danh mục được phép
giao dịch của Sở giao dịch hàng hóa theo quyết định của Bộ trưởng Bộ thương
mại trong từng thời kì. Sở giao dịch hàng hóa chỉ được phép giao dịch các loại
hàng hố thuộc danh mục đã cơng bố với những điều kiện rất nghiêm ngặt về
Nguyễn Hữu Tinh

17


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
tiêu chuẩn, khối lượng, chất lượng... Danh mục hàng hóa được phép giao dịch
qua Sở giao dịch hàng hóa đã được Bộ Công Thương xây dựng tại Quyết định
4361/QĐ-BCT ngày 18/8/2010. Theo đó, có 8 loại hàng được phép giao dịch là:
cà phê nhân, chưa rang, chưa khử chất cafein; Mủ cao su tự nhiên, đã hoặc
chưa tiền lưu hóa; Cao su tự nhiên ở dạng tấm cao su xông khói; Cao su tự

nhiên đã được định chuẩn kỹ thuật; Các sản phẩm thép khơng hợp kim được
cán phẳng, có chiều rộng từ 600 mm trở lên, được cán nóng, chưa phủ, mạ
hoặc tráng; Các sản phẩm thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng
từ 600mm trở lên, cán nguội, chưa dát phủ, mạ hoặc tráng; Các sản phẩm thép
khơng hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ 600mm trở lên đã phủ, mạ
hoặc tráng; Các sản phẩm thép không hợp kim ở dạng thanh và que khác, mới
chỉ qua rèn, cán nóng, kéo nóng hoặc ép đùn nóng, kể cả cơng đoạn xoắn sau
khi cán.
Thơng qua việc liệt kê các sản phẩm được phép mua bán qua Sở giao dịch
hàng hóa, về cở bản là bao gồm cà phê, các sản phẩm mủ cao su và thép. Đều
này, có thể khẳng định rằng Nhà nước ta đã rất quan tâm đến sự phát triển của
hoạt động mua bán hang hóa qua sở giao dịch này. Bởi các sản phẩm được đưa
vào ranh mục đêu là những sản phẩm thế manh của Việt Nam trên trường quốc
tế ( cà phê, mủ cao su ) hoặc đang có nhu cầu trong thị trường trong nước ( thép
). Nó thể hiện tầm nhìn sâu rộng của các nhà hoạch định chính sách trong nước,
tạo điều kiện thuận lợi để Sở giao dịch hàng hóa phát triển một cách bền vững.
Tuy nhiên, với lợi thế là nước xuất khẩu hàng đầu về gạo, điều…, thiết nghĩ
cũng nên đưa các sẩn phẩm này vào danh sách này.
1.4.2.3. Phương thức giao dịch
Cũng như trên thị trường chứng khoán tập trung, Sở giao dịch hàng hóa
thực hiện phương thức giao dịch thơng qua việc khớp lệnh tập trung trên cơ sở
lệnh mua, lệnh bán với nguyên tắc: Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng
Nguyễn Hữu Tinh

18


Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
giao dịch lớn nhất; nếu có nhiều mức giá đạt được khối lượng giao dịch lớn
nhất thì lấy mức giá trùng hoặc gần với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần

nhất.Và nếu có nhiều mức giá thoả mãn điều kiện trên thì lấy mức giá được trả
cao nhất.Đồng thời, việc khớp lệnh dựa trên cơ sở lệnh có mức giao cao hơn
được ưu tiên thực hiện. Đều này cho thầy tuy các mặt khác là khác nhau nhưng
về phương thức giao dịch thì Sở giao dịch hàng hóa và thị trường chứng khoán
là giống nhau. Với việc thực hiện phương thức khớp lệnh đã và sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để các nhà đầu tư rễ ràng nắm bắt được giá của các mặt hàng trong sàn
và nhanh chóng có thể đưa ra các quyết định hợp lý nhằm đảm bảo lợi nhuận
hoặc tránh bị thua lỗ.
Để được tham gia giao dịch, đều 39 Nghị định của Chính phủ số
158/2006/NĐ-CP cho phép Sở giao dịch hàng hóa căn cứ vào điều kiện của
mình mà quy định mức kí quỹ giao dịch nhưng không được thấp hơn 5% trị giá
của từng lệnh giao dịch và phải đảm bảo số dư tài khoản kí quỹ mở tại trung
tâm thanh tốn. Ngồi ra, Nghị định này cũng đặt ra các trường hợp ngoại lệ.
Đều này sẽ đảm bảo cho khả năng thanh toán của các nhà đầu tư tránh hiện
tượng lừa dảo hoặc đổ vỡ hợp đồng do mất khả năng thanh tốn. Ngồi ra, để
đảm bảo nguồn sản phẩm trên thực tế có thể đáp ứng thực hiện hợp đồng, cũng
như tránh hiện tượng lừa dảo để kiếm lời thì Đều 34 Nghị định của Chính phủ
số 158/2006/NĐ-CP đã giới hạn tổng mức giao dịch của toàn bộ các hợp đồng
trong thời gian giao dịch không được vượt quá 50% tổng khối lượng hàng hố
đó được sản xuất tại VN, tính theo năm trước đó. Đồng thời, mỗi thành viên chỉ
được giao dịch không vượt quá 10% tổng hạn mức giao dịch kể trên.
khi dáp ứng các điều kiện này thì nhà đầu tư có thể tham gia giao dịch và
Thời gian giao dịch do Sở giao dịch hàng hóa cơng bố theo ngày, theo phiên
giao dịch, thời gian khớp lệnh, mở cửa, đóng cửa... và cơng bố các thơng tin
liên quan đến việc thay đổi thời gian kể trên. Và để đảm bảo tính pháp lý của

Nguyễn Hữu Tinh

19



Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
việc xác lập hợp đồng thi luật cịn quy định: Thời hạn giao dịch hợp đồng được
tính từ phiên giao dịch đầu tiên của ngày đầu tiên giao dịch hợp đồng đó cho
đến phiên giao dịch cuối cùng của ngày cuối cùng giao dịch hợp đồng đó. Khi
hết hạn giao dịch, các bên nắm giữ hợp đồng có nghĩa vụ phải thực hiện các
quyền và nghĩa vụ ghi trên hợp đồng.
1.4.2.4. Phương thức thực hiện hợp đồng
Để có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán trong khi tham gia
Sở giao dịch thì các bên trong quan hệ hợp đồng có thể lựa chọn, thực hiện theo
thủ tục thanh toán bù trừ qua trung tâm thanh toán hoặc giao nhận hàng.
Theo khoản 1,2 đều 26 và khoản 1, 2 đều 29 Nghị định 158 trung tâm
thanh toán là tổ chức thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ thanh toán trong
hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở Giao dịch hàng hóa.Trung tâm giao nhận
hàng hố là tổ chức thực hiện chức năng lưu giữ, bảo quản và giao nhận hàng
hoá cho các hoạt động mua bán hàng hố qua Sở Giao dịch hàng hóa. Đều này
cho thấy tính chun mơn hóa và tính chặt chẽ cao của sở giao dịch. Với hai
trung tâm này nhà đầu tư có thể dễ ràng giao nhận hàng hóa cũng như thanh
tốn chi phí giao dịch và chi phí hợp đồng thuận tiện và nhanh chóng. Ngồi sự
thuận tiện, nhanh chóng, nó cũng sẽ là một chiếc khiên an tồn cho các nhà đầu
tư nếu có sự lo lắng vế hàng hóa tránh sự gian dối.
1.4.2.5. Chế độ ủy thác mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
Với tính chất là sở giao dịch hàng hóa, do đó mọi hoạt động mua bán phải
qua Sở giao dịch hàng hóa, đều này đôi khi sẽ làm cho các nhà đầu tư cảm thấy
bất tiên. Nhất là với những người khơng có khả năng đến trực tiếp sàn để giao
dịch thì lại càng khó khăn khi muốn tham gia giao dịch hàng hóa qua Sở giao
dịch. Bên cạnh đó, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa cịn mang tính
chất quốc tế, nên rất khó để nhà đầu tư có thể đến trực tiếp sở để tham giao giao

Nguyễn Hữu Tinh


20



×