Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

skkn hay một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn luyện từ và câu ở lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.49 KB, 28 trang )

PHÒNG GD & ĐT QUẬN THANH XUÂN
==============

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH NHẬN BIẾT VÀ
VẬN DỤNG TỐT PHÉP TU TỪ SO SÁNH
TRONG PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 3

LĨNH VỰC: TIẾNG VIỆT

N¨m häc : 2014 * 2015


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN THANH XUÂN
TRƢỜNG TIỂU HỌC KHƢƠNG MAI

MÃ SKKN
(Dùng cho HĐ
chấm của sở)


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH NHẬN BIẾT VÀ
VẬN DỤNG TỐT PHÉP TU TỪ SO SÁNH
TRONG PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 3

Lĩnh vực : TIẾNG VIỆT
Tác giả

: Bùi Thị Hƣơng Sen


Chức vụ : Giáo viên

Năm học 2014 - 2015


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

1. Cơ sở lí luận:
Trong hệ thống giáo dục, bậc Tiểu học có một vị trí rất quan trọng, vì nó là
bậc học nền móng cho các bậc học tiếp theo.
Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng góp phần đào tạo ra
lớp người mới phát triển một cách toàn diện để có thể gánh trên vai sứ mệnh lịch
sử của ngành giáo dục. Ở Việt Nam, những năm gần đây giáo dục tiểu học được
quan tâm đặc biệt. Những năm qua đã có biết bao công trình nghiên cứu, bao sáng
kiến cải cách nội dung, đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với sự phát
triển của xã hội.
Chương trình tiểu học mới đòi hỏi người thầy ở khắp mọi miền Tổ quốc phải
nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, tích cực đổi mới phương pháp dạy học để
đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là môn học có chức năng “kép”
(vừa là môn khoa học, vừa là môn công cụ) và là môn học chiếm nhiều thời lượng
nhất. Môn Tiếng Việt cung cấp một khối lượng kiến thức cơ bản cho mỗi học sinh
trước khi bước vào đời. Đồng thời, nó giúp học sinh rèn luyện, nâng cao trình độ
sử dụng một phương tiện học tập và lĩnh hội tri thức khoa học, nâng cao kỹ năng
sử dụng Tiếng Việt.
Học Tiếng Việt không chỉ dừng lại ở những hiểu biết về nó, mà điều quan
trọng là sử dụng nó ngày một thành thạo hơn, tốt hơn vào các hoạt động giao tiếp
đa dạng trong xã hội.
Để đạt được mục tiêu trên, phân môn Luyện từ và câu đã góp phần không

nhỏ, ngoài việc củng cố về các mẫu câu và mở rộng vốn từ cho học sinh thì phân
môn Luyện từ và câu còn giúp các em làm quen với các biện pháp tu từ, trong đó
có biện pháp tu từ so sánh. Đây là mảng kiến thức rất mới đối với học sinh lớp 3.
Qua các bài học, các em sẽ nhận biết được các hình ảnh so sánh, các sự vật được so
sánh với nhau trong mỗi khổ thơ, mỗi đoạn văn, các em cần phân biệt được kiểu so
sánh của mỗi hình ảnh so sánh ấy; thấy được ý nghĩa, tác dụng của biện pháp so
sánh trong biểu đạt ngôn ngữ làm cho sự vật hiện lên sinh động và gần gũi hơn. Để
viết được những câu văn hay, những bài văn giàu hình ảnh và cảm xúc, các nhà thơ
nhà văn phải có sự quan sát tinh tế và kết hợp với các biện pháp nghệ thuật để tạo
nên sự thành công của tác phẩm .
Nhờ những hình ảnh bóng bảy, dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm diễn
tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được sử dụng phổ biến trong thơ ca,
đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi.
Việc giúp các em tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong tác phẩm để qua đó dạy các
em biết cách sử dụng các biện pháp tu từ vào trong những bài học của mình. Vậy,
vấn đề đặt ra là: Giáo viên cần có những hình thức tổ chức, phương pháp dạy học
như thế nào để các em tích cực tham gia vào hoạt động học tập và giờ dạy đạt hiệu
quả cao.

1/24


2. Cơ sở thực tiễn:
Qua thực tế ở trường mình dạy và trao đổi với các bạn bè đồng nghiệp ở
trường bạn, tôi thấy các giáo viên đều hiểu rõ tầm quan trọng của phân môn Luyện
từ và câu cũng như cái hay cái mới của phân môn này. Do có những nét mới trong
phân môn này nên khi dạy về biện pháp tu từ so sánh, nhiều giáo viên đã biến giờ
học Luyện từ và câu thành một giờ “giảng văn” nhằm lột tả cái hay, cái đẹp trong
mỗi hình ảnh so sánh. Điều đó hoàn toàn sai phương pháp đặc trưng của phân môn,
dẫn đến học sinh không không nắm được kiến thức trọng tâm của bài, chính vì vậy

mà các em không mấy hứng thú trong học tập dẫn đến hiệu quả học tập không cao.
Là một giáo viên mới dạy lớp 3 vốn kinh nghiệm chưa nhiều, việc nghiên cứu về
nội dung và phương pháp dạy học không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm say
mê, sự yêu nghề của tôi.
Nhận rõ tầm quan trọng của việc dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh để
các em biết vận dụng vào nói và viết văn, ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu nghiên
cứu và tìm ra Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt phép so
sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học
sinh biết phân biệt, biết cách so sánh tu từ.
Giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên
có được phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh.
Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các bài tập Luyện từ và
câu một cách hiệu quả nhất.
III. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM:
Tôi chọn học sinh lớp 3G do tôi chủ nhiệm năm học 2014 - 2015 làm đối
tượng nghiên cứu, sĩ số học sinh là 56 em.
IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tôi mạnh dạn nghiên cứu,
học hỏi, tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu)
2. Phương pháp điều tra giáo dục.
3. Phương pháp phân tích tổng hợp.
4. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm (thông qua các chuyên đề ở tổ khối, dự
giờ rút kinh nghiệm của đồng nghiệp, rút kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy của
mình, khảo sát đối tượng học sinh.)
5. Phương pháp quan sát, đàm thoại, trò chuyện với giáo viên và học sinh lớp 3.
V. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU:
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 3G

- Kế hoạch nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015.

2/24


B. NỘI DUNG
1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC DẠY BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH
TRONG PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 3
Đối với học sinh Lớp 3, So sánh là mảng kiến thức mới song cũng phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học: giàu trí tưởng tượng, giàu cảm
xúc, cách suy nghĩ hồn nhiên, trong sáng…Biện pháp so sánh có khả năng khắc
họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh động,
mặt khác so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể sinh động, diễn
đạt được mọi sắc thái biểu cảm. So sánh tu từ còn là phương thức bộc lộ tâm tư
tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Như vậy so sánh trong văn học mang chức
năng nhận thức và biểu cảm. Học tốt biện pháp So sánh sẽ giúp các em hiểu và
cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong những câu văn, những bài văn, bài thơ. Qua
đó góp phần mở mang tri thức, làm phong phú tâm hồn để giúp các em viết được
những câu văn hay, gợi tả, gợi cảm và những bài văn giàu cảm xúc. Không chỉ có
vậy, nó còn giúp cho các em học tốt thể loại văn miêu tả ở Lớp 4 và Lớp 5, thể loại
văn nghệ thuật sử dụng lời văn có hình ảnh và cảm xúc làm cho người nghe, người
đọc hình dung rõ nét, cụ thể, sinh động về các sự vật hiện tượng…
Hơn thế nữa, biện pháp So sánh còn giữ vai trò quan trọng trong việc diễn
đạt tư tưởng, tình cảm thích hợp với việc biểu đạt các đặc điểm, thuộc tính riêng
vốn có của các sự vật, hiện tượng… tạo nên những bức tranh sinh động với gam
màu ấn tượng bằng ngôn từ.
Chính vì vậy, dạy So sánh được rất nhiều giáo viên quan tâm, nhất là giáo
viên dạy lớp 3. Vấn đề được đặt ra là dạy như thế nào cho hợp lý nhất, học sinh
nắm bài tốt nhất để từ đó các em biết cách vận dụng vào những bài văn một cách
chính xác và đạt hiệu quả cao.

2.THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC PHÉP TU TỪ SO SÁNH:
Để nắm rõ nguyên nhân và tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất cho việc
dạy và học biện pháp tu từ so sánh, tôi đã tìm hiểu kĩ thực trạng việc dạy và học
biện pháp này ở giáo viên và học sinh.
Nhìn chung, nhiều giáo viên đã nắm được mục đích của việc dạy phép tu từ
so sánh, biết sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh. Một số giáo viên biết sử dụng linh hoạt các
phương tiện dạy học, giúp các em tiếp cận với phép so sánh một cách dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, giáo viên và học sinh vẫn còn gặp một số khó khăn và hạn chế
khi dạy và học phép tu từ so sánh như sau:
1.1 Về phía giáo viên:
Qua thực tế giảng dạy và trao đổi với bạn bè đồng nghiệp cho thấy:
- Khi dạy về biện pháp tu từ so sánh một số giáo viên còn rất lúng túng trong
việc nắm vững mức độ nội dung của từng bài cụ thể dẫn đến việc dạy quá cao hoặc
quá thấp so với chương trình.
- Giáo viên mới chỉ chú tâm vào việc dạy cho học sinh nhận biết phép tu từ
so sánh mà chưa quan tâm nhiều tới việc dạy học sinh cách cảm nhận và vận dụng
các kiến thức về so sánh vào việc nói và viết.
3/24


- Phần lớn giáo viên chỉ tổ chức cho học sinh luyện tập những bài tập trong
sách giáo khoa, rất ít giáo viên sáng tạo ra các bài tập mới, các tình huống mới hay
tạo ra hoàn cảnh sử dụng từ của học sinh.
- Vốn kiến thức của giáo viên còn hạn chế . Tài liệu tham khảo, mở rộng vốn
hiểu biết cho giáo viên và học sinh chưa nhiều.
- Một số bộ phận nhỏ giáo viên vẫn chưa chú trọng quan tâm đến việc lồng
ghép trong quá trình dạy học giữa các phân môn của môn Tiếng Việt với nhau, để
khơi dậy sự hứng thú học tập và sự tò mò của phân môn này với phân môn khác
trong môn Tiếng Việt.

1.2 Về phía học sinh:
Khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực
quan, vốn kiến thức văn học của học sinh rất ít ỏi nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ
so sánh còn hạn chế.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp mình phụ trách và tìm hiểu thêm về học sinh lớp
khác qua các đồng nghiệp, tôi thấy các em còn mắc những lỗi sau:
- Học sinh nhầm lẫn giữa so sánh logic và so sánh tu từ
Ví dụ câu “ Trăng đêm nay sáng quá, trăng mai còn sáng hơn” là một phép
so sánh tu từ bậc hơn kém nhưng thực tế nó là phép so sánh logic.
- Nhận diện sai các yếu tố so sánh
Ví dụ câu: “ Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng
đèn pha lê.” học sinh xác định các sự vật được so sánh với nhau là “ hạt sương” so
sánh với “ lá” như vậy là sai. Đáp án ở đây phải là “ hạt sương sớm” được so sánh
với “ bóng đèn pha lê”.
Hay trong các câu thơ sau:
Mùa đông
Trời là cái tủ ướp lạnh
Mùa hè
Trời là cái bếp lò nung.
Các em thường xác định sai là mùa đông so sánh với tủ ướp lạnh
mùa hè so sánh với bếp lò nung
- Tạo hình ảnh so sánh chưa hợp lý
Học sinh đặt câu có hình ảnh so sánh “Con đường thẳng tắp như một chiếc
thước kẻ.”. Hầu hết các em chỉ biết tạo ra hình ảnh so sánh mà thiếu đi tính thẩm
mĩ của nghệ thuật so sánh.
- Chưa cảm nhận được giá trị của phép so sánh.
Chẳng hạn với những câu hỏi như : Trong các hình ảnh so sánh có ở trong
bài, em thích hình ảnh nào? Vì sao? Các em chỉ nêu được hình ảnh so sánh mình
thích chứ không giải thích được vì sao thích.
Để kiểm tra khả năng nắm bài cũng như theo dõi sự tiến bộ của học sinh, tôi

đã tiến hành khảo sát học sinh trước khi áp dụng biện pháp mới. Sau khi học xong
2 tiết về so sánh ở tuần 1 và tuần 3, tôi đã chọn bài tập trong tiết Luyện từ và câu
của tuần 5 làm bài tập khảo sát.

4/24


Kết quả thu được như sau:
Mức độ
Nhận biết tốt biện pháp tu từ so sánh
Nhận biết chưa tốt biện pháp tu từ so sánh
Chưa nhận biết được biện pháp tu từ so sánh

Số lƣợng học sinh
10 em
38 em
8 em

Tỉ lệ (%)
18%
68%
14%

Băn khoăn trước kết quả còn thấp của học sinh lớp mình, tôi đã tìm hiểu
ra những nguyên nhân nêu trên và mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giúp học sinh
nhận biết và vận dụng tốt hơn phép tu từ so sánh.

3. BIỆN PHÁP:
3.1. Biện pháp 1: Nghiên cứu cấu trúc, nội dung chương trình sách giáo khoa,
phân nhóm các dạng bài tập so sánh.

3.1.1. Nội dung chương trình sách giáo khoa:
Muốn giảng dạy tốt từng bộ môn, phân môn thì việc đầu tiên người giáo
viên phải nghiên cứu kỹ nội dung, chương trình sách giáo khoa để có phương pháp
và kế hoạch dạy học đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học, khi
được nhà trường phân công giảng dạy lớp 3 tôi đã bắt tay ngay vào việc nghiên
cứu kỹ chương trình để có định hướng dạy tốt phân môn Luyện từ và câu, nhất là
mảng kiến thức về phép tu từ So sánh.
Phân môn Luyện từ và câu lớp 3 được dạy 1tiết/1 tuần trong đó có 7 tiết dạy
về So sánh (trong học kỳ I). Mục đích yêu cầu về nội dung, kiến thức mỗi tiết cũng
nâng dần mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, giúp học sinh từng bước
nắm bắt, ghi nhớ và luyện tập có hiệu quả.
Yêu cầu và mức độ của mỗi tiết dạy được tôi cụ thể hóa trong bảng sau:
Tiết/tuần
Tiết 1 (Tuần 1)
Tiết 2 (Tuần 3)
Tiết 3 (Tuần 5)
Tiết 4 (Tuần 7)
Tiết5 (Tuần10)
Tiết 6 (Tuần 12)
Tiết 7 (Tuần 15)

Nội dung
Học sinh bước đầu làm quen với biện pháp tu từ So sánh
Học sinh biết cách tìm những hình ảnh so sánh trong các
câu thơ, câu văn và nhận biết các từ chỉ sự so sánh trong các
câu văn đó
Học sinh nắm bắt được kiểu so sánh: So sánh hơn kém, so
sánh ngang bằng. Biết cách thêm các từ so sánh vào những
câu văn chưa có từ so sánh.
Học sinh tìm hiểu thêm một cách so sánh: so sánh sự vật với

con người, con người với sự vật.
Học sinh nắm bắt thêm cách so sánh: So sánh âm thanh với
âm thanh.
Học sinh biết cách so sánh hoạt động với hoạt động.
Học sinh đặt được câu văn có hình ảnh so sánh.

Toàn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập 1 dạy về So sánh gồm 7 tiết với
các mô hình sau:
5/24


+ Mô hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật
+ Mô hình 2: So sánh Sự vật - Con ngƣời
+ Mô hình 3: So sánh Hoạt động - Hoạt động
+ Mô hình 4: So sánh Âm thanh - Âm thanh
Đặc trưng của phân môn Luyện từ và câu có những điểm mới so với sách
giáo khoa cũ là học sinh tự rút ra kiến thức qua việc thực hành làm các bài tập.
Vì vậy, dựa vào nội dung, chương trình như trên tôi đã khái quát lại chương
trình thành các dạng bài tập về biện pháp so sánh như sau:
3.1.2 Các dạng bài tập về biện pháp So sánh:
- Nhận biết những sự vật so sánh, những hình ảnh so sánh, những đặc điểm
so sánh và những từ so sánh trong câu: Tiết 1, 2, 3, 4, 5, 6.
- Cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh, tập đặt câu có sử dụng phép so
sánh: Tiết 7
Như vậy, mỗi tiết học về so sánh có yêu cầu khác nhau. Tiết học sau đòi hỏi
kiến thức cao hơn tiết học trước, mỗi tiết học cung cấp một mảng kiến thức, một
dạng bài tập. Vì thế tôi tìm hiểu kỹ nội dung, mức độ kiến thức cần truyền đạt của
từng tiết để tạo thành mạch kiến thức có liên kết một cách chặt chẽ logic.
* Một số yêu cầu cơ bản khi dạy So sánh
Học sinh Tiểu học với nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu

tượng nên việc hướng dẫn các em tìm hiểu những biện pháp tu từ không phải là dễ.
Bởi vậy, khi dạy phép so sánh trong phân môn luyện từ và câu cho học sinh, tôi đã
chú ý đến những yêu cầu cơ bản sau:
- Sử dụng đồ dùng trực quan và thông qua các ví dụ cụ thể để dẫn dắt học
sinh dần dần hiểu, nắm bắt, vận dụng biện pháp tu từ so sánh theo mức độ từ dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để từ đó nâng dần khả năng tư duy, óc sáng tạo
cho học sinh.
- Thông qua các bài tập nhận biết, học sinh được luyện tập và vận dụng biện
pháp tu từ so sánh trong khi nói và viết. Bên cạnh đó, học sinh còn cần được tiếp
xúc với ngôn ngữ nghệ thuật để biết cách cảm thụ cái hay, cái đẹp của thơ văn.
3.2. Biện pháp 2: Tìm hiểu khái niệm, cấu trúc của phép tu từ So sánh
Để dạy tốt kiến thức về so sánh thì người giáo viên phải nắm vững kiến thức
về phong cách học nói chung và phép so sánh tu từ nói riêng. Có như vậy giáo viên
mới chủ động trong bài giảng cũng xử lý tốt các tình huống.
3.2.1 Khái niệm:
So sánh tu từ là biện pháp tu từ trong đó người ta đối chiếu các sự vật với
nhau miễn là giữa các sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ
thể,những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc và người nghe.
Khi so sánh phải có ít nhất hai sự vật trở lên. Trong đó có sự vật so sánh (A)
và sự vật được so sánh (B). Hai sự vật này phải có ít nhất một nét tương đồng.
Hiệu quả của phép tu từ so sánh là gợi ra những hình ảnh cụ thể, những cảm
xúc thẩm mĩ.

6/24


3.2.2 Phân biệt sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh logic:
So sánh logic là một biện pháp nhận thức trong tư duy của con người, là
việc đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm
ra sự giống nhau và khác biệt giữa chúng.

Ví dụ:
Cái lưng còng của ông cụ sao giống lưng ông nội thế.
Cơ sở của phép so sánh logic dựa trên tính đồng nhất, đồng loại của các sự
vật hiện tượng và mục đích của sự so sánh là xác lập sự tương đương giữa hai đối
tượng.
Nếu như giá trị của so sánh logic là xác lập được sự tương đương giữa hai
đối tượng thì giá trị của so sánh tu từ là ở sự liên tưởng, sự phát hiện và gợi cảm
xúc thẩm mĩ ở người đọc, người nghe.
Trong ví dụ :
Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng.
( TV 3 - tập 1, trang 7)
Ở ví dụ trên “bà” được ví như “quả ngọt” đã chín, bà càng có tuổi thì tình
cảm của bà càng sâu sắc, càng ngọt ngào như quả chín trên cây. Với sự so sánh
này, người cháu đã thể hiện được tình cảm yêu thương, quý trọng của mình đối với
bà.
Như vậy, so sánh tu từ học và so sánh logic khác nhau ở 3 yếu tố:
- Tính hình tượng
- Tính biểu cảm
- Tính dị loại (không cùng loại) của sự vật.
3.2.3 Cấu trúc của phép so sánh tu từ:
Về cấu trúc đầy đủ của phép so sánh tu từ gồm 4 yếu tố:
Đối tƣợng
đƣợc so sánh
(1)
Trăng

Phƣơng diện, đặc
điểm so sánh


Từ so sánh

Đối tƣợng đƣa ra để
làm chuẩn so sánh

(2)
tròn

(3)
như

(4)
cái đĩa

Trong đó :
- Yếu tố (1) là cái so sánh, đây là yếu tố được hoặc bị so sánh tùy theo việc
so sánh là tích cực hay tiêu cực.
- Yếu tố (2) là cơ sở so sánh, đây là yếu tố chỉ tính chất sự vật hay trạng thái
của hành động được nhìn nhận theo một cách nào đó có vai trò nêu rõ phương diện
so sánh.
- Yếu tố (3) là mức độ so sánh thường được diễn ra ở mức độ ngang bằng
nhau. Ngoài từ “ nhƣ” còn có các từ “ tựa”, “ tựa nhƣ”, “ giống nhƣ”, “ là”,
“nhƣ là”, “ nhƣ thể”…; so sánh hơn kém như từ “ hơn”, “ chẳng bằng”…
- Yếu tố (4) là cái được so sánh, tức là cái đưa ra để làm chuẩn so sánh.
Theo cấu trúc như trên, đối tượng được so sánh và đối tượng đưa ra để làm
chuẩn so sánh có thể là sự vật, con người, âm thanh, đặc điểm, hoạt động…
7/24


Dựa vào cấu trúc có thể chia ra các dạng so sánh sau:

* Dạng 1: Phép so sánh đầy đủ cả 4 yếu tố:
Ví dụ:
Trăng tròn như cái đĩa
1
2 3
4
* Dạng 2: Phép so sánh vắng yếu tố (2)
So sánh vắng yếu tố (2) còn gọi là so sánh chìm, tức là không có cơ sở so
sánh. Khi bớt cơ sở so sánh thì phần thuyết minh miêu tả cái được so sánh sẽ rõ
ràng hơn.Nó còn tạo điều kiện cho sự liên tưởng rộng rãi, phát huy sự sáng tạo của
người đọc, người nghe hơn là so sánh có đủ 4 yếu tố. Dạng so sánh này kích thích
thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn để có thể xác định được những
nét giống nhau giữa 2 đối tượng ở 2 vế và từ đó nhận ra đặc điểm của đối tượng
được miêu tả.
Ví dụ :
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
* Dạng 3: Phép so sánh vắng yếu tố (2) và (3)
Đây là dạng so sánh không đầy đủ, chỉ có cái so sánh và cái được so
sánh.Trong trường hợp này yếu tố (2) và yếu tố (3) được thay thế bằng chỗ ngắt
giọng, dấu gạch ngang hoặc là hình thức đối chọi.
Ví dụ:
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.
Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đã dùng chỗ ngắt giọng (được ghi lại bằng dấu
gạch ngang) và đối chọi (giữa quả dừa và tàu dừa) để tạo nên một hình thức so
sánh có âm điệu nhịp nhàng.
Trong so sánh tu từ, còn có hình thức kết hợp một vế so sánh, một đối tượng

so sánh với nhiều đối tượng được so sánh.
Ví dụ:
Bác là cha, là bác, là anh.
Dựa vào mặt ngữ nghĩa thì so sánh tu từ có 2 dạng: so sánh ngang bằng và so
sánh hơn - kém.
+ Dạng so sánh ngang bằng.
Đây là dạng so sánh phổ biến thường dùng từ “ như”, “ là”, “tựa”, “ tựa
như”… để làm từ so sánh.
Ví dụ: Giọt sương sớm long lanh như những hạt ngọc.
+ Dạng so sánh hơn- kém
Đây là dạng so sánh luôn gắn với từ hơn : khỏe hơn, đẹp hơn hoặc chẳng
bằng.
Ví dụ:
Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
Những ví dụ trên cho ta thấy các đối tượng được đưa ra để so sánh khác
nhau về bản chất. Nhưng do một cách nhìn đặc biệt, các đối tượng vốn là khác loại,
khác bản chất có thể chuyển hóa được cho nhau, có những đặc điểm, những nét
giống nhau.
8/24


Vậy so sánh tu từ là biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu
hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn
toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri
giác mới mẻ về đối tượng.
Mặt khác, sách giáo khoa Tiếng Việt 3 không trực tiếp đưa ra khái niệm
So sánh (với tư cách là một biện pháp tu từ) cho học sinh mà thông qua các bài tập
dần dần hình thành khái niệm đơn giản về so sánh cho học sinh. Chính vì vậy khi
dạy về so sánh cho học sinh, tôi đã dựa trên các dạng bài tập để phân loại và lựa

chọn phương pháp dạy phù hợp với từng dạng bài cụ thể.
3.3. Biện pháp 3: Giúp học sinh nhận biết các dạng bài tập về so sánh
3.3.1. Dạng bài tập nhận biết biện pháp tu từ so sánh
Đây là dạng bài tập giúp học sinh nhận biết những sự vật so sánh, những
hình ảnh so sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu. Để dạy
tốt dạng bài tập này, tôi đã hướng dẫn học sinh cụ thể trong từng tiết học như sau:
* Ví dụ 1: Tiết 1 - Tuần 1 (Bài tập 2/ Trang 8 - Tiếng Việt 3, Tập 1)
Tìm những sự vật được so sánh trong các câu văn, câu thơ dưới đây:
a) Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành
Huy Cận
b) Mặt biển sáng trong như tấm gương khổng lồ bằng ngọc thạch.
Vũ Tú Nam
c) Cánh diều như dấu “á”
Ai vừa tung lên trời
Lương Vĩnh Phúc
d) Ơ, cái dấu hỏi
Trông ngộ, ngộ ghê
Như vành tai nhỏ
Hỏi rồi lắng nghe
Phạm Như Hà
Đây là dạng bài tập đầu tiên các em được làm quen với so sánh với yêu cầu
là nhận diện các từ chỉ sự vật được so sánh. Để làm tốt bài tập này học sinh phải
nắm chắc các từ chỉ sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên là:
+ “ Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành”
+ “ Mặt biển so sánh với “tấm thảm khổng lồ”
+ “ Cánh diều” so sánh với dấu “á”
+ “ Dấu hỏi” so sánh với “vành tai nhỏ”.
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với
“hoa đầu cành” hay vì sao nói “ Mặt biển” như “tấm thảm khổng lồ”? Lúc đó giáo

viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật này đều có điểm nào giống nhau,
chẳng hạn:
+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
+ Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
9/24


Trên thực tế ấn tượng thính giác kết hợp với ấn tượng thị giác giúp các em dễ dàng
nhận ra hiện tượng so sánh ẩn chứa trong các câu thơ, câu văn nên tôi đã cho học
sinh xem ảnh “cánh diều” và “dấu á”. Còn dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía
trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai thì tôi cho học sinh nhìn vào vành tai bạn.
Cuối cùng tôi đưa ra kết luận: Các tác giả quan sát rất tài tình nên đã phát
hiện sự giống nhau giữa các sự vật xung quanh ta. Bởi vậy, khi so sánh cần có hai
sự vật đưa ra, hai sự vật đó phải có điểm giống, điểm tương đồng với nhau. Và
trong hai sự vật đó (1 sự vật được so sánh, 1 sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh)
thường được đặt trước và sau từ “như”. Đây là một dấu hiệu để nhận ra các sự vật
được so sánh với nhau trong câu.
* Ví dụ 2: Tiết 2 - Tuần 3 (Bài tập 1 + 2/ Trang 24 - Tiếng Việt 3, Tập 1)
- Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu văn, câu thơ sau. Nêu các từ chỉ sự so
sánh.
a) Mắt hiền sáng tựa vì sao
Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời.
Thanh Hải
b) Em yêu nhà em
Hàng xoan trước ngõ
Hoa xao xuyến nở
Như mây từng chùm.
Tô Hà
c) Mùa đông

Trời là cái tủ ướp lạnh
Mùa hè
Trời là cái bếp lò nung.
Lò Ngân Sủn
d) Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng.
Đất nước ngàn năm
Ở bài tập này tôi cho học sinh thảo luận nhóm.
Bằng kiến thức đã học ở tiết 1(Tuần 1), các em dễ dàng nhận ra các hình ảnh
so sánh trong các câu thơ, câu văn:
a) Mắt hiền sáng tựa vì sao
b) Hoa xao xuyến nở
Như mây từng chùm
c) Trời là cái tủ ướp lạnh
Trời là cái bếp lò nung.
d) Dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng
Tôi đặt câu hỏi với học sinh:
+ Trong câu a, dựa vào đâu con biết hình ảnh “mắt hiền” được so sánh với
“vì sao”? (Dựa vào từ “tựa”)
Giáo viên chỉ ra: Đây là từ chỉ sự so sánh
Tương tự câu a, học sinh sẽ tìm được các từ so sánh trong các câu còn lại.
Sau đó tôi chốt lại kiến thức của bài bằng cách đưa ra hệ thống câu trả lời nhằm
giúp học sinh nắm chắc nội dung của bài:
10/24


Từ chỉ sự vật đƣợc so sánh
Mắt hiền
Hoa xao xuyến nở
Trời
Trời

Dòng sông

Từ so sánh
tựa
như




Từ chỉ sự vật dùng để so sánh
vì sao
mây từng chùm
cái tủ ướp lạnh
cái bếp lò nung
đường trăng lung linh dát vàng

Như vậy, yêu cầu của bài học đã nâng cao dần so với tiết 1. Học sinh không
chỉ nêu được các sự vật so sánh, từ chỉ sự so sánh “như” mà còn nêu được các từ
chỉ sự so sánh thường dung: như, là, tựa như, tựa, …
Tôi nhấn mạnh để học sinh hiểu: Từ chỉ sự so sánh chính là dấu hiệu để
nhận biết câu văn, câu thơ có hình ảnh so sánh.
Sau tiết học, nhằm củng cố lại kiến thức cho học sinh, tôi yêu cầu học sinh
làm bài tập sau:
Tìm các sự vật được so sánh, sự vật dùng để so sánh và từ so sánh trong câu
sau:
Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây.
Đáp án:
Từ chỉ sự vật đƣợc so sánh
Từ so sánh

Từ chỉ sự vật dùng để so sánh
Mây
như
bông
Bông
như
mây
-> Giáo viên chốt: Cùng là một sự vật, có khi đó là sự vật được so sánh, có
khi lại là sự vật dùng để đối chiếu so sánh.
* Ví dụ 3: Tiết 3 - Tuần 5 (Bài tập 1 / Trang 42- Tiếng Việt 3, Tập 1)
Qua bài tập này học sinh tiếp tục luyện tập nhằm nắm chắc cấu tạo chung
của so sánh bao gồm: các hình ảnh so sánh, các vật được so sánh và các từ so sánh.
Đặc biệt học sinh nắm được một kiểu so sánh mới: So sánh hơn kém và các từ có ý
nghĩa so sánh hơn kém; phân biệt được 2 kiểu so sánh (So sánh ngang bằng và so
sánh hơn kém)
Sau khi học sinh xác định được các hình ảnh có trong câu:
a) Cháu khỏe hơn ông nhiều
Ông là buổi trời chiều
Cháu là ngày rạng sang
b) Trăng khuya sáng hơn đèn
c) Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
- Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
Tôi cho học sinh ghi lại những từ chỉ sự so sánh trong các câu thơ trên
a) hơn, là, là
b) hơn
c) chẳng bằng, là
11/24



Dựa vào các từ so sánh vừa tìm được, tôi hướng dẫn học sinh nhận diện kiểu
so sánh mới (so sánh hơn kém); từ đó phân biệt được 2 kiểu so sánh bằng các câu
hỏi:
+ Trong câu a, cách so sánh “Cháu khỏe hơn ông nhiều” và “Ông là buổi
trời chiều” có gì khác nhau? Hai sự vật được so sánh với nhau trong mỗi câu là
ngang bằng nhau hay hơn kém nhau?
Trả lời:
- Câu “Cháu khỏe hơn ông nhiều”, hai sự vật so sánh với nhau là “ông” và
“cháu”; hai sự vật này không ngang bằng nhau mà có sự chênh lệch hơn kém (cháu
hơn ông).
- Câu “Ông là buổi trời chiều”, hai sự vật này có sự ngang bằng nhau.
+ Sự khác nhau về cách so sánh của hai câu này do đâu tạo nên?
(Trả lời: Do từ so sánh khác nhau tạo nên. Từ “hơn” chỉ sự hơn kém, từ “là”
chỉ sự ngang bằng nhau).
Sau khi học sinh nhận biết được hai kiểu so sánh, giáo viên cho học sinh xếp
các hình ảnh vào hai nhóm: + So sánh ngang bằng
+ So sánh hơn kém
Đặc biệt, ở bài học này, tôi đã nhấn mạnh cho học sinh: Sự khác nhau về
cách so sánh là do từ chỉ sự so sánh tạo nên:
+ Nếu từ so sánh là: tựa, nhƣ, là, giống nhƣ, nhƣ là, bằng…-> thuộc kiểu
so sánh ngang bằng.
+ Nếu từ so sánh là: hơn, chẳng bằng…-> thuộc kiểu so sánh hơn kém.
Như vậy, qua 3 tiết học, mặc dù đều là dạng bài tập nhận biết hình ảnh so
sánh, từ so sánh nhưng học sinh đã nắm bắt được kiểu so sánh và được nâng dần
theo mức độ từ dễ đến khó. Đây cũng là quan điểm chung của tất cả các môn học ở
Tiểu học.
* Ví dụ 4: Tiết 5 - Tuần 10
Với hai bài tập nhận biết hình ảnh so sánh, học sinh tiếp tục luyện tập về so
sánh và hiểu thêm một cách so sánh mới: So sánh âm thanh với âm thanh. Ở bài
học này tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu như sau:

+ Bài tập 1 (Trang 79 - Tiếng Việt 3, Tập 1)
Đọc đoạn thơ:
Đã có ai lắng nghe
Tiếng mưa trong rừng cọ
Như tiếng thác dội về
Như ào ào trận gió.
- Yêu cầu học sinh làm việc theo cặp trả lời câu hỏi:
+ Tiếng mưa trong rừng cọ được so sánh với những âm thanh nào?
(Trả lời: như tiếng thác, tiếng gió)
Như vậy, không chỉ có các sự vật, con người dùng làm đối tượng so sánh mà
những âm thanh trong tự nhiên cũng được các tác giả chọn làm hình ảnh so sánh.
Điều quan trọng tất cả những so sánh này đều gợi lên những cảm xúc thẩm mĩ, đều
là kết quả của sự liên tưởng, sự phát hiện mà không phải ai cũng nhìn ra và nhận
thấy. Sau bài tập 1, tôi giới thiệu cho học sinh kiểu so sánh: âm thanh với âm
thanh.
12/24


* Tiết 6 - Tuần 12
- Tiết học này, học sinh tiếp tục làm quen với phép so sánh nhưng là so sánh
hoạt động với hoạt động
* Bài tập 1/Trang 98 - Tiếng Việt 3, Tập 1
Đọc khổ thơ dưới đây và trả lời câu hỏi:
Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn tròn
Trên sân, trên cỏ.
Phạm Hổ
a) Tìm các từ chỉ hoạt động trong khổ thơ trên
b) Hoạt động chạy của những chú gà con được miêu tả bằng cách nào?

- Với câu hỏi a, học sinh đọc thầm khổ thơ và gạch dưới các từ chỉ hoạt
động (lăn, chạy)
+ Yêu cầu học sinh đọc lại khổ thơ để tìm câu thơ có hình ảnh so sánh:
(Chạy như lăn tròn)
- Với câu hỏi b, tôi cho học sinh thảo luận nhóm 2 và nêu ý kiến
Sau các câu trả lời, tôi nhấn mạnh: đây là cách so sánh hoạt động với hoạt
động. Hoạt động “chạy” của những chú gà con được miêu tả giống hoạt động “lăn”
của những hòn tơ nhỏ.
Qua bài tập 1, học sinh bước đầu đã nắm được cách so sánh hoạt động với
hoạt động. Vận dụng các kiến thức đã học trong các tiết trước và bài tập 1, các em
sẽ tự mình khám phá, tìm hiểu để tìm ra được những hoạt động được so sánh với
nhau trong bài tập 2.
* Bài tập 2 /Trang 98- Tiếng Việt 3, tập 1
Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau:
a. Con trâu đen lông mượt
Cái sừng nó vênh vênh
Nó cao lớn lênh khênh
Chân đi như đập đất
b. Cau cao cao mãi
Tàu vươn tới trời
Như tay ai vẫy
Hứng làn mưa rơi
c. Xuồng con đậu quanh thuyền lớn giống như đàn con nằm quanh bụng mẹ.
Khi có gió, thuyền mẹ cót két rên rỉ, đám xuồng con lại húc húc vào mạn thuyền
mẹ như đòi bú tí.
Sau khi học sinh trao đổi, nêu ý kiến, giáo viên hệ thống lại kiến thức của
bài tập 2 qua bảng sau nhằm giúp học sinh nắm chắc cấu trúc của so sánh:
13/24



a) Con trâu đen (chân) đi
b) Tàu cau
vươn

Từ
so
Hoạt động
sánh
như đập đất
như tay (vẫy)

c) Xuồng con

như

Sự vật,
con vật

Hoạt động

đậu (quanh thuyền lớn)
húc húc (vào mạn thuyền mẹ)

nằm (quanh bụng mẹ)
đòi (bú tí)

Dạng bài tập này tôi giúp học sinh nắm chắc được các từ chỉ hoạt động, từ
đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn:
+ Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đập đất” qua từ “như”.
* Như vậy qua 6 tiết học, học sinh đã nhận biết được các sự vật so sánh, các

từ so sánh, kiểu so sánh và các cách so sánh.
Trong mỗi tiết học, mỗi bài tập về dạng nhận biết trên, học sinh lại được
cảm nhận cái hay, cái đẹp của những câu văn có hình ảnh so sánh. Cụ thể như sau:
3.3.2. Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh
* Ví dụ 1: Tiết 5 - Tuần 10 (Bài tập 1/Trang 79 - TV3, Tập 1)
Với dạng bài này, giáo viên cần cho học sinh giải quyết các câu hỏi sau:
Nếu đặt :
A là sự vật so sánh.
B là sự vật được so sánh.
Học sinh phải trả lời được:
+ So sánh các sự vật, sự việc với nhau như vậy để làm gì?
Trả lời được câu hỏi này là học sinh đã hiểu được tác dụng của biện pháp tu
từ so sánh.
Để học sinh cảm nhận được giá trị nhận thức cũng như giá trị thẩm mĩ của
một hình ảnh so sánh, tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu bằng các câu hỏi sau:
+ B giúp các em hình dung ra A như thế nào?
+ B giúp em cảm nhận điều gì mới mẻ về A?
+ Hình ảnh so sánh đó gợi cho em cảm xúc gì?
Ví dụ:
Sau khi tìm được những âm thanh so sánh với tiếng mưa trong rừng cọ là
tiếng thác đổ và tiếng gió, tôi đưa tiếp câu hỏi:
Qua sự so sánh trên, em hình dung tiếng mưa trong rừng cọ như thế nào?
(Trả lời: Tiếng mưa trong rừng cọ rất to, rất mạnh và rất vang)
-> Như vậy cách so sánh đó đã giúp cho người đọc, người nghe hình dung rõ
hơn về tiếng mưa trong rừng cọ. Đó chính là tác dụng của so sánh: làm cho đối
tượng được so sánh rõ hơn, nổi bật hơn.
Tương tự với bài tập 1, ở bài tập 2 tôi cũng đưa ra các câu hỏi giúp học sinh
cảm nhận cái hay, cái đẹp của phép so sánh.
14/24



* Ví dụ :
Câu a) Tiếng suối được tác giả so sánh với tiếng đàn cầm, Vậy em hình dung ra
tiếng suối như thế nào?
(Tiếng suối chảy đều đều và rất êm tai)
Câu b) Tiếng suối và tiếng hát được so sánh với nhau ở điểm nào?
(rất trong)
Qua sự so sánh đó, em cảm nhận tiếng suối như thế nào?
(trong trẻo, nhỏ nhẹ và ngân xa)
* Như vậy, so sánh giúp cho người đọc, người nghe hình dung về sự vật
một cách cụ thể, sinh động hơn. Không những thế, nó còn thể hiện sự quan sát rất
tài tình và tinh tế của các nhà văn, nhà thơ khi muốn bộc lộ cảm xúc của mình vào
tác phẩm.
3.3.3 Dạng bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh
* Ví dụ 1: Tiết 3 - Tuần 5 (Bài tập 4/ Trang 43 - TV3, Tập 1)
Hãy tìm các từ so sánh có thể thêm vào những câu chưa có từ so sánh ở bài tập 3.
M: Tàu dừa như chiếc lược chải vào mây xanh
Đây là bài tập học sinh bước đầu làm quen với việc đặt câu có hình ảnh so
sánh. Vì vậy, ở bài tập này, tôi cho học sinh phân tích mẫu và chỉ ra kiểu so sánh
trong bài là so sánh ngang bằng. Với kiểu so sánh đó, học sinh sẽ tìm được rất
nhiều từ ngữ thay thế: như, như là, tựa, tựa như, giống như…
Khi học sinh đã viết được những câu văn có hình ảnh so sánh, tôi cho học
sinh làm một bài tập đơn giản sau:
Viết câu văn so sánh các sự vật với nhau:
a. Cánh đồng lúa
tấm thảm
b. Mặt hồ
chiếc gương bầu dục
Với bài tập này, ngoài việc tìm ra được phép so sánh, bằng óc liên tưởng của
mình học sinh sẽ tìm được những điểm giống nhau của các sự vật để đặt câu:

a. Cánh đồng lúa chín vàng trông như tấm thảm khổng lồ.
b. Từ trên cao nhìn xuống, mặt hồ như một chiếc gương bầu dục lớn.
* Ví dụ 2: Tiết 7 - Tuần 15 (Bài tập 3/ Trang 126 - TV3,Tập 1)
Quan sát từng cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu văn có hình
ảnh so sánh các sự vật trong tranh.
Ở bài tập này, sách giáo khoa cung cấp sẵn nội dung so sánh qua các tranh
vẽ từng cặp sự vật có điểm giống nhau. Việc cần làm của học sinh là xác định được
sự vật so sánh và sự vật đưa ra để làm chuẩn so sánh ở từng cặp là gì, sau đó căn
cứ vào các cặp tranh để tìm ra sự giống nhau (tương đồng nhau) giữa các cặp sự
vật trong tranh, từ đó đặt câu có hình ảnh so sánh các sự vật đó.
Để tạo hứng thú cho học sinh đặt câu, tôi phóng to bức tranh trong sách giáo
khoa và hướng dẫn học sinh nói tên các cặp sự vật có trong mỗi tranh.
- Tranh 1: + Mặt trăng so sánh với quả bóng
- Tranh 2: + Nụ cười của bé so sánh với bông hoa
+ Khuôn mặt của bé so sánh với bông hoa
15/24


- Tranh 3:
- Tranh 4:

+ Ngọn đèn so sánh với ngôi sao
+ Ngọn đèn so sánh với ánh trăng
+ Hình dáng nước ta được so sánh với chữ S

Điểm cần lưu ý ở bài tập này là khi so sánh ta cần xác định đâu là sự vật so
sánh và đâu là sự vật dùng để đối chiếu so sánh.
Tiếp đó tôi cho học sinh đặt câu có hình ảnh so sánh phù hợp với từng tranh
rồi viết vào vở; gọi 2 học sinh lên bảng, mỗi học sinh đặt 2 câu theo 2 tranh. Khi
học sinh đặt câu chưa hay, tôi hướng dẫn các em sửa lại câu văn cho hay hơn.

VD: + Trăng tròn như quả bóng-> Trăng đêm rằm tròn như quả bóng.
+ Bé cười tươi như hoa -> Nụ cười của bé tươi như bong hoa mới nở.
+ Đèn sáng như sao -> Ngọn đèn sáng như những vì sao.
Sau chữa xong bài tập tôi đưa ra câu hỏi:
+ Khi đặt câu có hình ảnh so sánh cần lưu ý điều gì?
(Tìm ra điểm nổi bật và tương đồng của hai sự vật)
+ Bài tập 4/ Trang 126 - TV3
Tìm những từ ngữ thích hợp với mỗi ô trống:
a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như………, như……..
b. Trời mưa, đường đất sét trơn như…………..
c. Ở thành phố, có nhiều tòa nhà cao như……
Nếu như ở bài tập 3 cần căn cứ vào các cặp tranh để tìm ra sự giống nhau
giữa các sự vật trong tranh rồi đặt câu thì bài tập 4 lại cần tìm những từ ngữ thích
hợp (sự vật 2 có điểm tương đồng với sự vật đã cho) điền vào chỗ trống sau từ
“như” để tạo câu có sự so sánh. Dựa vào những yếu tố cho sẵn, kết hợp với trí
tưởng tượng và vốn kiến thức hiện có, học sinh có thể hoàn thành bài tập này như
sau:
16/24


a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn
chảy ra.
b. Trời mưa, đường đất sét trơn như bôi mỡ.
c. Ở thành phố, có nhiều tòa nhà cao như núi.
Sau hai bài tập, tôi cho học sinh so sánh sự khác nhau của hai bài tập
(Bài tập 3: Từ 2 sự vật phải tìm được điểm giống nhau để so sánh
Bài tập 4: Từ 1 sự vật cho trước phải tìm được sự vật khác có điểm giống
với sự vật đó để so sánh)
Qua bài học này tôi chốt lại cho học sinh cấu trúc chung của so sánh để các
em nhớ, biết vận dụng khi đặt câu có hình ảnh so sánh:

Sự vật A

Đặc điểm so sánh

Từ so sánh

Sự vật B

* Ngoài việc giúp cho học sinh nhận biết được biện pháp tu từ so sánh qua
các tiết học và các bài tập của phân môn Luyện từ và câu, tôi còn giúp học sinh
khai thác và tìm hiểu các hình ảnh so sánh trong các phân môn khác như: Tập đọc,
Tập làm văn, …Từ đó học sinh được củng cố, khắc sâu, mở rộng thêm kiến thức
về So sánh.
* Ví dụ: Bài tập đọc Ông ngoại (Tuần 5) có đoạn văn tả thành phố sắp vào
thu như sau:
Thành phố sắp vào thu. Những cơn gió nóng mùa hè đã nhường chỗ cho
luồng khí mát dịu mỗi sáng. Trời xanh ngắt trên cao, xanh như dòng sông trong,
trôi lặng lẽ giữa những ngọn cây hè phố.
Sau phần tìm hiểu đoạn, tôi yêu cầu học sinh tìm câu văn có hình ảnh so
sánh trong đoạn và chỉ ra hình ảnh so sánh trong câu. Hình ảnh so sánh giúp em
hiểu thêm điều gì?
(Câu: Trời xanh ngắt trên cao, xanh như dòng sông trong, trôi lặng lẽ giữa
những ngọn cây hè phố. Hình ảnh so sánh: Trời - dòng sông trong. Hình ảnh so
sánh giúp người đọc hình dung rõ hơn về bầu trời mùa thu.)
Qua hình ảnh so sánh đó các em sẽ biết cách vận dụng để viết về cảnh đẹp
của quê hương trong bài Tập làm văn của mình.
* Không chỉ dừng lại ở đó, trong các tiết hướng dẫn học buổi chiều, mỗi
dạng bài So sánh tôi còn ra thêm cho học sinh một số bài tập nhằm củng cố, khắc
sâu kiến thức về so sánh để các em có thể viết được những câu văn, những đoạn
văn hay và biết cách cảm thụ văn học một cách tốt nhất.

3.4. Biện pháp 4: Giúp học sinh củng cố kiến thức về biện pháp so sánh qua hệ
thống bài tập mở rộng.
3.4.1. Dạng bài tập nhận diện những sự vật được so sánh, những hình ảnh so
sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu.

17/24


Bài 1: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn dưới đây:
a) Cánh diều no gió
Tiếng nó chơi vơi
Diều là hạt cau
Phơi trên nong trời.
b)
Hoa lựu như lửa lập lòe
Nhớ khi em tưới, em che hàng ngày.
c) Khi cá vàng khẽ uốn lưng thì đuôi xòe rộng như một dải lụa màu da cam
còn khoan thai uốn lượn mãi.
d) Giàn hoa mướp vàng như đàn bướm đẹp.
Đáp án:
a) Diều là hạt cau
b) Hoa lựu như lửa lập lòe
c) Đuôi(cá vàng) xòe rộng như một dải lụa màu da cam
d) Hoa mướp vàng như đàn bướm đẹp
Bài 2: Tìm các từ chỉ sự so sánh trong mỗi câu sau:
a) Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
b) Mẹ bảo: trăng như lưỡi liềm
Ông rằng: trăng tựa con thuyền cong mui
Bà nhìn: như hạt cau phơi

Cháu cười : quả chuối vàng tươi ngoài vườn.
c) Dưới gốc phượng già, những cánh hoa phượng rụng phủ kín mặt đất như
tấm thảm đỏ.
d) Dưới ánh nắng chói chang, hàng ngàn lá cọ xòe ra như những vầng mặt
trời rực rỡ.
Đáp án: a) là
b) tựa , như
c) như
d) như
Bài 3: Tìm các từ so sánh điền vào chỗ trống để tạo thành câu có hình ảnh so sánh.
a) Hai chân chích bông xinh xinh …….. hai chiếc tăm.
b) Rễ cây nổi lên mặt đất thành hình thù kỳ quái……….những con rắn hổ
mang giận dữ.
c) Trăm cô gái………tiên sa.
Đáp án: Có thể là: a) giống như
b) như
c) tựa
Bài 4: Điền các bộ phận của phép so sánh trong mỗi câu sau vào ô trống cho phù
hợp:
a) Những giọt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê.
b) Hàng trăm bông hoa giấy thắm đỏ nở đồng loạt như một tấm thảm đỏ rực.
c) Trên trời có một cô mây rất đẹp. Khi thì cô mặc áo trắng như bông, khi
thì thay áo màu xanh biếc, lúc lại đổi áo màu hồng tươi.
Sự vật A

Đặc điểm so sánh

Từ so sánh
18/24


Sự vật B


Đáp án:
Sự vật A
Giọt sương sớm
Bông hoa giấy
Áo (mây)

Đặc điểm so sánh
long lanh
đỏ
trắng

Từ so sánh
như
như
như

Sự vật B
bóng đèn pha lê
tấm thảm
bông

Tôi đưa bài tập trên nhằm giúp học sinh nhận dạng được câu văn có hình
ảnh so sánh, nắm vững mô hình, cấu trúc của câu văn so sánh cũng như phân biệt
rõ các thành phần trong câu văn có hình ảnh so sánh. Đây là cơ sở để học sinh thực
hành và viết các câu văn có hình ảnh so sánh hay.
Bài 5: Tìm những hình ảnh so sánh thích hợp điền vào chỗ trống để câu văn có
hình ảnh so sánh phù hợp nhất:

a) ……….. lơ lửng giữa trời như cánh diều đang bay.
b) ……….. cuồn cuộn chảy như những con ngựa tung bờm phi nước đại.
c) Mùa xuân, hoa xoan nở từng chùm tím biếc trông như …………..
d) Trăng rằm trung thu tròn như ……………
Đây là bài tập không phải là khó, nhưng để làm tốt bài bập này thì giáo viên
phải hướng dẫn học sinh quan sát, suy nghĩ, liên tưởng để tìm ra những sự vật có
nét tương đồng với sự vật đã cho, từ đó tạo câu văn có hình ảnh so sánh.
Ví dụ: Trong câu a, con thấy có những sự vật nào giống như một cánh diều?
(mặt trăng lưỡi liềm, hạt cau, dấu á…)
? Trong các sự vật trên, có sự vật nào ta thấy lơ lửng được trên không? (mặt
trăng lưỡi liềm)
Từ đó học sinh chọn được hình ảnh phù hợp điền vào chỗ trống để tạo thành
câu văn đúng và hay: Mảnh trăng lưỡi liềm lơ lửng giữa trời như cánh diều đang
bay.
Tương tự với các trường hợp còn lại, học sinh sẽ viết được những câu văn có
hình ảnh so sánh như:
b) Dòng sông mùa lũ cuồn cuộn như những con ngựa tung bờm phi nước
đại.
c) Mùa xuân, hoa xoan nở từng chùm tím biếc trông như những đám mây
bồng bềnh trên ngọn cây.
d) Trăng rằm trung thu tròn như cái đĩa./ như quả bóng bay…
Bài 6: Em hãy lựa chọn những từ ngữ trong ngoặc thay thế các từ in nghiêng và
thêm từ “như” để câu văn có hình ảnh so sánh:
a) Buổi sáng, những cánh buồm nâu trên biển đẹp quá.
b) Nắng mai hồng rất đẹp trải dài trên con đường làng quê em.
c) Đôi cánh gà mẹ xòe ra chắc chắn che chở cho các chú gà con.
(cánh bướm dập dờn, dải lụa đào, chiếc nơ, hai mái nhà, chiếc ô)
Bài tập này với mục đích bước đầu cho học sinh làm quen với việc viết câu
văn có hình ảnh so sánh để diễn đạt sự vật sao cho sinh động. Bằng hiểu biết và óc
liên tưởng của mình các em sẽ lựa chọn được những từ ngữ thích hợp để thay thế.

19/24


Đáp án:
a. Buổi sáng, những cánh buồm nâu trên biển như những cánh bướm dập dờn
b. Nắng mai hồng như dải lụa đào trải dài trên con đường làng quê em.
c. Đôi cánh gà mẹ xòe ra như hai mái nhà che chở cho các chú gà con.
3.4.2. Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh
Bài 1: Gạch dƣới những hình ảnh so sánh trong các câu văn dƣới đây. Trong
các hình ảnh đó, em thích hình ảnh nào? Vì sao?
a) Trông trống mới oai vệ làm sao! Thân trống tròn trùng trục như cái chum
sơn đỏ. Bụng trống phình ra, hai đầu khum lại.
b) Dưới ánh nắng chói chang, hàng ngàn lá cọ xòe ra như những vầng mặt
trời rực rỡ.
c) Lá phượng giống lá me, mỏng, ngon lành như những hạt cốm non. Những
cành cây mập mạp như hàng trăm cánh tay đưa ra đón ánh áng mặt trời để sưởi ấm
cho mình.
Đáp án: (hình ảnh so sánh: phần gạch chân)
Tiếp đó tôi yêu cầu học sinh chọn hình ảnh mình thích và giải thích lý do vì sao?
(VD: Hình ảnh hàng ngàn lá cọ xòe ra như những vầng mặt trời thể hiện sự quan sát
tinh tế, bất ngờ của tác giả khi tìm ra được hình ảnh “vầng mặt trời” để so sánh với
“hàng ngàn lá cọ”. Vì vậy câu văn khi đọc lên thấy thật thú vị.)
Bài 2: Trong các câu văn sau em thấy câu nào hay nhất? Vì sao?
a. Những chùm hoa phượng đỏ.
b. Những chùm hoa phượng đỏ rực như những ngọn lửa bập bùng cháy trên cây.
c. Những chùm hoa phượng đỏ như son.
Các câu văn trên cùng là viết về hoa phượng nhưng mỗi câu lại có cách diễn
đạt khác nhau. Tôi yêu cầu học sinh so sánh câu thứ nhất và câu thứ hai, câu nào
hay hơn, vì sao? Tất cả học sinh trong lớp tôi đều khẳng định câu thứ hai hay hơn
vì đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh để miêu tả màu sắc của hoa phượng. Tiếp đó

tôi cho học sinh so sánh câu thứ hai với câu thứ ba. Khi học sinh đều khẳng định
câu thứ ba không hay bằng câu thứ hai và học sinh diễn đạt lý do theo ý hiểu của
mình vì sao cùng sử dụng phép so sánh mà câu thứ hai lại hay hơn, tôi chốt lại cho
học sinh hiểu: Ở câu thứ hai tác giả dùng hình ảnh “chùm hoa phượng đỏ rực như
những ngọn lửa bập bùng cháy trên cây”, một hình ảnh rất đẹp, rất sinh động để
làm cho màu sắc của hoa phượng trở nên đẹp hơn, câu văn hay hơn và có sức gợi
tả. Còn ở câu thứ ba thì màu hoa phượng được so sánh với màu son, tuy có điểm
giống nhau nhưng cách so sánh đó chưa sinh động và còn làm giảm đi vẻ đẹp của
hoa phượng. Câu văn trở nên khô khan, kém hay hẳn đi.
Như vậy, qua phân tích học sinh sẽ lựa chọn được câu văn hay và các em
còn hiểu được: khi so sánh, muốn cho sự vật miêu tả được đẹp và sinh động thì cần
so sánh với một sự vật khác đẹp hơn và như thế câu văn có được sức gợi tả, gợi
cảm cho người đọc.

20/24


3.4.3.Bài tập dạng vận dụng biện pháp tu từ so sánh
Bài 1: Em hãy sử dụng biện pháp so sánh để diễn đạt lại các câu sau cho sinh
động, gợi cảm hơn:
a) Những bông hoa bàng màu trắng, nhỏ li ti.
b) Bà của em đã già, tóc của bà bạc lắm.
c) Bầy chim non đang hót trong nắng mai.
Với bài tập này học sinh sẽ suy nghĩ và viết lại câu văn theo ý mình. Tôi chú
ý hướng dẫn, chữa cho các em nhưng không áp đặt theo ý cô. Đồng thời, tôi ghi
nhanh một số câu văn hay lên bảng cho các em khác học tập.
Ví dụ:
a) Những bông hoa bàng màu trắng, nhỏ li ti như những hạt cườm trải khắp
trên cành cây.
b) Bà của em đã già, tóc của bà bạc trắng như mây.

c) Bầy chim non đang hót trong nắng mai như một bản hòa tấu.
Sau khi học sinh đã thành thạo dạng bài tập này tôi lại ra một số bài tập ở
mức độ khó hơn.
Bài 2: Hãy dùng biện pháp so sánh để diễn đạt về mỗi sự vật sau: ông
mặt trời, cánh đồng lúa, dòng sông, hoa hồng….
Loại bài tập này khó hơn, đòi hỏi học sinh phải có một trí tưởng tượng thật
phong phú kết hợp với khả năng diễn đạt thật thành thạo thì mới có thể viết được
những câu văn có hình ảnh so sánh hay. Tôi cũng có biện pháp hướng dẫn cụ thể
các em học sinh yếu bằng cánh sau khi học sinh đã trình bày hết ý kiến mà chưa có
được câu văn hay thì tôi sẽ đưa một vài câu văn làm mẫu để các em tích lũy làm tư
liệu cho mình.
Ví dụ:
- Ông mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa đang từ từ nhô lên ở phía đằng đông.
- Cánh đồng lúa chín vàng trải rộng như một tấm thảm khổng lồ.
- Dòng sông uốn quanh như một dải lụa chia đôi hai làng.
- Những đóa hồng nhung dịu dàng và kiêu sa như những nàng tiên.
Bài 3 (Dành cho học sinh khá giỏi)
Cô giáo em
Hiền như cô Tấm
Giọng cô đầm ấm
Như lời mẹ ru.
Từ ý thơ trên, em hãy viết đoạn văn ngắn tả cô giáo em.
Đây là dạng bài tập khó nên tôi chỉ yêu cầu đối với học sinh giỏi để các em
bồi dưỡng thêm về kiến thức cũng như cách cảm thụ văn học và sẽ phục vụ tốt cho
những bài văn miêu tả của lớp 4, 5. Với cách làm như vậy thì trí tưởng tượng của
học sinh sẽ ngày một phong phú, khả năng diễn đạt câu văn sẽ tốt hơn. Trong các
bài tập vận dụng biện pháp so sánh để câu văn trở nên hay hơn, bài viết sinh động
hơn sẽ không còn là một việc khó đối với các em.

21/24



3.5. Biện pháp 5: Giúp học sinh nhận biết biện pháp so sánh thông qua
các câu đố dân gian
Kho tàng câu đố dân gian thật phong phú và đa dạng. Nó phản ánh những
thuộc tính, đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Nó vừa có chức năng bồi dưỡng tri
thức, vừa có chức năng giải trí cho con người. Trong số đó, cha ông ta cũng đã biết
sử dụng biện pháp so sánh để làm rõ sự vật cần phải tìm nhưng không quá lộ. Dựa
vào điều đó tôi đã sưu tầm và tích luỹ một số câu đố có sử dụng biện pháp so sánh.
Sau một số bài học tôi đưa ra một số câu đố có sử dụng phép so sánh để hướng dẫn
học sinh tìm hiểu thêm về nghệ thuật so sánh.
VD:
Vừa bằng lá tre
Ngo ngoe dưới nước.
(Là con gì?)
Để khai thác, tôi hỏi học sinh như sau:
+ Em có nhận xét gì về câu đố trên?
(Câu đố có sử dụng so sánh nhưng ẩn sự vật so sánh)
+ Sự vật dùng để đối chiếu trong câu đố trên là gì? (Là lá tre)
+ Em cần phải dựa vào chi tiết nào nữa để tìm ra lời giải?
(Dựa vào chi tiết: Ngo ngoe dưới nước)
+ Vậy sự vật so sánh ở đây là sự vật nào? (Là con đỉa)
Với các câu đố tôi đưa ra các em rất thích thú và tìm cách giải. Qua những
câu đố như vậy các em cũng sẽ được khắc sâu kiến thức của mình về cách tìm sự
vật có nét tương đồng với sự vật đã cho.

4. KẾT QUẢ:
Sau một thời gian nghiên cứu và thực nghiệm, để nắm được kết quả học tập
của học sinh lớp tôi về biện pháp tu từ so sánh, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh
trong lớp 3G đợt 2 với phiếu bài tập sau:


PHIẾU BÀI TẬP
Bài 1: Đọc các câu thơ, câu văn sau rồi làm bài tập bằng cách điền vào bảng:
a. Những ngón tay thon thon như những búp măng.
b. Cánh đồng trông xa như một tấm thảm màu vàng.
c. Những chú gà con mới nở trông như những hòn tơ nhỏ.
Câu
Sự vật đƣợc so sánh
Từ so sánh
Sự vật so sánh
a)
.....................................
................
....................................
b)
.....................................
..................... ...................................
c)
.....................................
..................... ...................................
Bài 2 : Khoanh tròn vào chữ trƣớc câu có hình ảnh so sánh:
a. Nắng là ánh sáng của mặt trời.
b. Nắng là từng dòng lửa xối xuống mặt đất.
c. Nắng tạo ra từng dòng lửa xối xuống mặt đất.
22/24


Bài 3: Thêm các từ ngữ vào chỗ chấm để tạo thành câu văn có hình ảnh so
sánh:
a) Những bông hoa ………………………………………………………..

b) Đôi mắt của em bé ……………………………………………………..
c) Những đám mây trên trời ………………………………………………
d) Tiếng mèo kêu trong đêm …………………………………………….
Bài 4: Em hãy một đoạn văn khoảng 3 - 5 câu văn tả đặc điểm của con vật
nuôi mà em yêu thích nhất, trong đó có sử dụng biện pháp so sánh.
Sau khi nghiên cứu và lựa chọn một phiếu bài tập nhằm kiểm tra tổng quát
kiến thức cơ bản về biện pháp so sánh, tôi thu được kết quả như sau:
Bài kiểm
tra
Lần 1
Lần 2

HS nhận biết được
biện pháp tu từ so
sánh
Số lƣợng
%
40
71%
50
89%

HS biết vận dụng
biện pháp tu từ so
sánh để viết văn
Số lƣợng
%
30
54%
48

86%

HS chưa biết vận dụng
biện pháp tu từ so sánh
để viết văn.
Số lƣợng
%
26
46%
8
14%

Qua phiếu bài tập tôi đã nhận thấy rõ sự tiến bộ của học sinh. Ở bài tập số 1
hầu hết các em làm rất tốt, chỉ có bài tập số 2 vẫn còn một số ít em nhầm lẫn.
Riêng bài tập số 3, các em làm cũng tương đối tốt, các em đã biết chọn những sự
vật phù hợp để so sánh với sự vật cho trước một cách hợp lý và thể hiện được tính
nghệ thuật trong câu văn.
Mục tiêu chủ yếu của phân môn Luyện từ và câu là rèn kỹ năng dùng từ đặt
câu. Từ đó bồi dưỡng tình cảm quý trọng tiếng Việt, thói quen dùng từ và viết câu
đúng, có ý thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp đạt được phẩm chất văn hoá.
Bám sát mục tiêu môn học, áp dụng các biện pháp dạy phép so sánh trong Luyện
từ và câu, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm trong giảng dạy có hiệu quả.
Trong việc vận dụng kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy, trải nghiệm đối với
các đối tượng học sinh , tôi nhận thấy đã đạt được một số kết quả khả quan:
- Các em yêu thích môn Tiếng Việt trong đó có phân môn Luyện từ và câu,
vui vẻ, hào hứng, hăng say trong học tập.
- Các em hoàn thành tương đối tốt các bài tập vận dụng, thực hành.
- Học sinh đã biết dùng từ đặt câu đúng mẫu, đúng nghĩa và có hình ảnh.
Nhiều học sinh đã viết những câu văn, những bài văn có sử dụng biện pháp So
sánh một cách hiệu quả.

- Các em đã biết diễn đạt sự cảm nhận cái hay, cái đẹp của nghệ thuật so
sánh. Hơn thế nữa, thông qua luyện tập nhận biết và vận dụng các biện pháp tu từ
so sánh trong phân môn Luyện từ và câu, các em đã tích luỹ cho mình được vốn
kiến thức về ngôn ngữ nghệ thuật, đồng thời các em còn được bồi dưỡng tình cảm
yêu quý đồ vật, cây cối, loài vật và thiên nhiên gần gũi với mình.
Tuy nhiên, trong khi dạy thực nghiệm và qua bài khảo sát, tôi nhận thấy vẫn
còn một số tồn tại nhỏ, như việc học sinh chưa mạnh dạn vận dụng biện pháp tu từ
so sánh vào việc viết văn. Đây cũng sẽ là hướng để tôi tiếp tục nghiên cứu.
23/24


×