Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

đánh giá của người dân về chương trình nông thôn mới tại xã đa tốn, gia lâm, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.38 KB, 57 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
BÁO CÁO ĐỀ TÀI CẤP TRƯỜNG
NĂM 2014
Mã số:
Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ CỦA NGƯỜI DÂN VỀ CHƯƠNG TRÌNH NÔNG THÔN MỚI
TẠI XÃ ĐA TỐN, GIA LÂM, HÀ NỘI
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Đỗ Thị Thanh Huyền
ThS. Nguyễn Thị Tuyết Lan
Đơn vị : Khoa Kinh tế và PTNT
Hà Nội, 2014
MỤC LỤC
MỤC LỤC BẢNG BIỂU
MỤC LỤC ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Chủ chương xây dựng nông thôn mới đã và đang được Đảng, Nhà nước và toàn dân
quan tâm hiện nay với mục đích xây dựng mô hình nông thôn mới có kinh tế phát triển, thu
nhập của cư dân nông thôn ở mức cao và không ngừng được nâng cao, có đời sống văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, có cơ sở hạ tầng cho giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe và
phục vụ sinh hoạt đồng bộ, hiện đại, môi trường cảnh quan được đảm bảo, tình hình chính trị,
an ninh trật tự an toàn xã hội được duy trì và đặc biệt là khoảng cách chênh lệch giữa nông
thôn và thành thị được rút ngắn.
Với những mục tiêu trên, chủchương xây dựng nông thôn mới đã được Chính phủ phê
duyệt và thực hiện thí điểm giai đoạn đầu từ năm 2008 – 2011 ở 5 tỉnh trên cả nước và sau đó
là chiến lược xây dựng nông thôn mới trên phạm vi toàn quốc từ năm 2010 – 2020 được phê
duyệt khiến phong trào xây dựng nông thôn mới diễn ra sôi nổi trên phạm vi cả nước. Sau
một số năm thực hiện thí điểm, và triển khai trên diện rộng, tổng kết các thành quả đạt được
và hạn chế còn tồn tại để nhìn nhận lại tổng thể mô hình nông thôn mới của chúng ta xây
dựng như thế nào đặc biệt là những đánh giám nhìn nhận của người dân về mô hình này cần


được quan tâm xem xét để có những hướng điều chỉnh phù hợp trong thời gian tới.
Đa Tốn là một xã thuộc huyện Gia Lâm, là một trong số ít các xã được lựa chọn thực
hiện thí điểm về xây dựng mô hình nông thôn mới của thành phố Hà Nội. Cho đến nay, sau ba
năm thực hiện, về cơ bản đã đạt được hầu hết các tiêu chí của mô hình nông thôn mới. Do đó,
việc xem xét đánh giá mô hình nông thôn mới hiện nay ở xã Đa Tốn đang như thế nào? Có
đúng như những gì đã xây dựng, đúng như những kỳ vọng của chúng ta về mô hình nông thôn
mới ở địa phương và đặc biệt là người dân trong xã – nơi mà về cơ bản đã đạt và xây dựng
thành công mô hình này đánh giá, nhìn nhận như thế nào về những mặt đạt được, mặt hạn chế
và cần phải làm gì trong thời gian tiếp theo là những vấn đề đặt ra hiện nay ở địa phương.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Đánh giá của
người dân về chương trình nông thôn mới tại xã Đa Tốn, Gia Lâm, Hà Nội”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu đánh giá của người dân về mô hình nông thôn mới từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm cũng như đề xuất những giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn thiện mô hình nông thôn
mới trên địa bà xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về nông thôn mới, đánh giá mô hình nông
thôn mới.
+ Bước đầu đánh giá mô hình nông thôn mới với góc nhìn từ phía người dân xã Đa
Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
+ Rút ra những bài học kinh nghiệm trong xây dựng nông thôn mới tại xã
1.3 Phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Phạm vi nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đánh giá của người dân về mô
hình nông thôn mới tại xã Đa Tốn, Gia Lâm, Hà Nội trên các khía cạnh về nội dung, quá trình
triển khai xây dựng và các kết quả bước đầu đạt được ở thực tế tại địa phương.
1.3.2 Phạm vi không gian
Đề tài được triển khai trên địa bàn xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội
1.3.3 Phạm vi thời gian

5
Các thông tin, số liệu thứ cấp được thu thập từ một số năm gần đây chủ yếu là trong
khoảng thời gian 3 năm từ năm 2012 đến năm 2014
Các thông tin, số liệu sơ cấp được thu thập chủ yếu trong năm 2013, 2014.
1.4 Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Cách tiếp cận
Cách tiếp cận xuyên suốt được sử dụng trong đề tài là cách tiếp cận có sự tham gia Theo
đó, cách tiếp cận này được sử dụng để thảo luận, trao đổi và thu thập những đánh giá, bình
luận của người dân về mô hình nông thôn mới tại địa phương trên các phương diện về kinh tế,
văn hóa – xã hội, cơ sở hạ tầng, hệ thống chính quyền… ở địa phương. Đồng thời cũng để tập
hợp các ý kiến, đề xuất từ phía cộng đồng về những giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn thiện
mô hình nông thôn mới tại xã.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu
1.4.2.1 Phương pháp thu thập thông tin, số liệu
a, Thông tin thứ cấp
Số liệu thứ cấp là những số liệu thu thập từ các nguồn có sẵn đã được công bố của Tổng
cục thống kê, Ban thống kê xã Đa Tốn, sách báo, tạp chí, các bài viết trên báo điện tử có liên
quan. Những thông tin và số liệu này được thu thập, chọn lọc từ các nguồn khác nhau, góp
phần làm rõ tình hình chung của địa bàn, cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề cần được nghiên
cứu
Thông tin ,số liệu Nguồn thu nhập Cách làm
Cơ sở lý luận và thực
tiễn của đề tài
Các sách báo, luận văn,
luận án, tạp chí có liên quan
đã được xuất bản, các bài
viết trên các trang mạng
internet…
Tra cứu, thu thập và
chọn lọc thông tin hữu ích,

phù hợp với đề tài.
Thông tin chung về xây
dựng nông thôn mới, các
quyết định, thông tư liên quan
đến xây dựng nông thôn mới.
Các văn bản chính sách
của Chính Phủ, tạp chí,
mạng internet.
Tra cứu, chọn lọc thông
tin.
Số liệu, thông tin về đặc
điểm tự nhiên, kinh tế xã hội,
kết quả đạt được trong quá
trình xây dựng mô hình tại xã
Đa Tốn.
Ban thống kê xã, Ban
quản lý dự án xây dựng
nông thôn mới của xã.
Ghi chép, phôt báo cáo,
sổ sách có chứa thông tin
đó.
b, Thông tin, số liệu sơ cấp
Những thông tin mới chưa được công bố, được thu thập bằng các phương pháp chủ yếu là
điều tra và phỏng vấn trực tiếp các hộ thông qua hệ thống các câu hỏi đóng và mở nhằm thu
thập các thông tin về chủ hộ, thông tin cơ bản như nhân khẩu, lao động, vốn, đất đai và những
vấn đề liên quan đến tình hình thực hiện xây dựng các mô hình nông thôn mới như quan
điểm, kiến nghị đóng góp của người dân
6
Điều tra chọn mẫu: Tiến hành điều tra 60 hộ dân trên địa bàn xã Đa Tốn bằng bảng câu
hỏi có sẵn nhằm tìm hiểu đặc điểm của hộ, sự quan tâm cũng như những tác động của xây

dựng nông thôn mới đến các hộ gia đình và những khó khăn, vướng mắc đang gặp phải.
Đối tượng điều tra Số lượng
1. Cán bộ địa phương (Ban chỉ đạo, Ban quản lý NTM)
+ Bí thư, Chủ tịch UBND xã, trưởng các ban (tài chính, địa chính)
+ Các tổ chức đoàn thể (Hội Nông dân, Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội
CCB, )
+ HTX dịch vụ nông nghiệp
9
3
5
1
2. Người dân (phân nhóm theo địa bàn / theo lĩnh vực nông nghiệp,
TTCN, thương mại, Công chức, viên chức làm việc ngoài địa bàn xã)
- Khu vực gần trung tâm chợ Bún (01 thôn)
- Khu vực gần chùa Khoan Tế (01 thôn)
- Khu vực xa trung tâm xã (02 thôn)
60
20
20
20
Tổng 69
Thông tin, số liệu mới được thu thập bằng các nhóm phương pháp sau:
• Phỏng vấn trực tiếp các cán bộ xã, ban quản lý xây dựng nông thôn mới về tình hình triển
khai, những kết quả và những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện .Nông thôn mới
khác gì nông thôn cũ.
• Phương pháp điều tra nhanh nông thôn: Phương pháp giúp người dân có thể chia sẻ và bày tỏ
những nguyện vọng, mong muốn về nông thôn mới.
Ngoài ra để góp phần vào việc điều tra số liệu tôi còn sử dụng một số phương pháp sau :
• Phương pháp điều tra nhanh nông thôn (RRA): Mô tả các nhóm tiếp cận và các phương pháp
nhằm giúp cho người dân địa phương có thể chia sẻ và phát huy kinh nghiệm cũng như giúp

họ biết phân tích các điều kiện để lập và thực hiện kế hoạch.
• Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân(PRA): Đây là phương pháp
giúp cho người dân nông thôn có thể chia sẻ, thảo luận và phân tích kiến thức hiểu biết của họ
về cuộc sống, điều kiện nông thôn cũng như lập kế hoạch thực hiện quan sát và đánh giá.
Đồng thời giúp họ tham gia vào xây dựng nông thôn mới theo phương châm “dân biết, dân
bàn, dân đóng góp, dân làm, dân kiểm tra, dân quản lý và dân hưởng lợi, phỏng vấn các hộ
thuộc địa bàn nghiên cứu để tìm hiểu về tình hình các hộ, kinh tế xã hội, mức độ tham gia của
người dân vào xây dựng nông thôn mới. Số liệu thu thập bằng điều tra chọn mẫu. (Nội dung
điều tra trong phiếu điều tra phần phụ lục)
7
1.3.2.2 Phương pháp tổng hợp thông tin
Thông tin, số liệu sau khi thu thập sẽ được tổng hợp và phân tổ theo các tiêu thức khac
nhau. Sau đó được xử lý bằng phần mềm Excel từ đó đưa ra các kết luận, nhận xét phản ánh
yêu cầu nội dung trong nghiên cứu. Số liệu có thể được phân tổ theo các tiêu thức như kinh tế,
xã hội, môi trường,… Số liệu đã qua xử lý được trình bày dưới dạng bảng, đồ thị thống kê.
1.4.2.3 Phương pháp xử lý phân tích thông tin
a, Phương pháp phân tổ thống kê
Phương pháp này dùng để hệ thống hóa và phát triển các tài liệu điều tra, từ đó rút ra
các quy luật kinh tế của quá trình sản xuất nhằm thể hiện mối quan hệ qua lại của các nhân tố
riêng biệt, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả và hiệu quả của quá trình
sản xuất. Mặt khác, hiệu quả kinh tế lại chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, do đó phải sử
dụng phương pháp phân tổ thống kê.
Tiêu thức phân tổ ở đây là theo loại cơ sở chuyển toàn bộ, chuyển phần nhiều và
chuyển. Còn đối với các cơ sở sản xuất thì phân loại theo hình thức mức đóng góp.
Xác định số tổ và phạm vi mỗi tổ dựa trên cơ sở đảm bảo cho các đơn vị có cùng tính
chất thì cùng một tổ, khác nhau về tính chất thì khác tổ.
Xác định các chỉ tiêu giải thích sẽ nói lên mặt lượng trong mối quan hệ với mặt chất
của hiện tượng. Khi xác định các chỉ tiêu giải thích phải phản ánh được nội dung cần nghiên
cứu về vai trò của người dân trong xây dựng nông thôn mới và đảm bảo có mối liên quan chặt
chẽ với tiêu thức phân tổ.

Biểu mẫu điều tra phỏng vấn trực tiếp được sử dụng để thu thập dữ liệu về điều kiện
sản xuất, kết quả và hiệu quả sản xuất, các vấn đề thuộc về chính sách xã hội, về quy hoạch,
hạ tầng kinh tế- xã hội, về hệ thống chính trị. Đối tượng phỏng vấn là các chủ hộ dân và các
cơ sở sản xuất.
Phiếu điều tra bán cấu trúc được sử dụng để phỏng vấn các hộ dân, cán bộ địa phương và cán
bộ Ban quản lý các dự án xây dựng thị xã, phòng quản lý đô thị….
b, Phương pháp thống kê so sánh:
So sánh là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu. Có thể dựa vào đồ
thị hay các bảng số liệu đã xử lý để so sánh về các chỉ tiêu kinh tế, xã hội, môi trường ….của
xã trước và sau khi tiến hành xây dựng nông thôn mới, so sánh kết quả đạt được với kế hoạch
đặt ra, so sánh kết quả đạt được với mục tiêu hướng tới, so sánh về tình hình kinh tế giữa các
hộ nhằm phát hiện những yếu tố ảnh hưởng tới kết quả xây dựng mô hình nông thôn mới để
từ đó có cơ sở đề xuất những giải pháp định hướng nhằm tiếp tục phát huy các kết quả của mô
hình nông thôn mới.
1.4.2.4 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
Các chỉ tiêu phản ánh quá trình tổ xây dựng mô hình nông thôn mới
Các chỉ tiêu nghiên cứu của đề tài được thực hiện căn cứ theo các bước tổ chức thực
hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Chỉ tiêu đánh giá về bộ máy tổ chức, chỉ đạo thực hiện Chương trình
- Vai trò, nhiệm vụ của bộ máy tổ chức, chỉ đạo Chương trình
- Mức độ hiệu quả của BCĐ, BQL trong quá trình thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn
mới của xã
- Mức độ tham gia và năng lực của từng thành viên trong BCĐ, BQL
Chỉ tiêu đánh giá về công tác tuyên truyền, vận động người dân
- Mức độ tuyên truyền, vận động người dân
- Hiệu quả của công tác tuyên truyền vận động
8
Chỉ tiêu về khảo sát đánh giá thực trạng nông thôn
- Việc thực hiện khảo sát đánh giá đã đạt được những gì? Đạt bao nhiêu %?
- Mức độ phù hợp của việc khảo sát đánh giá

Chỉ tiêu đánh giá về quy hoạch
- Mức độ hợp lý của việc quy hoạch xây dựng nông thôn mới
- Mức độ tham gia của người dân vào việc quy hoạch
Chỉ tiêu đánh giá về lập, phê duyệt và thực hiện đề án
- Mức độ tham gia của người dân vào việc xây dựng đề án Chương trình xây dựng nông thôn
mới của xã
- Đánh giá của người dân về các kế hoạch thực hiện Chương trình
Chỉ tiêu về giám sát, đánh giá và báo cáo về tình hình thực hiện Chương trình
- Mức độ giám sát của BCĐ, BQL
- Mức độ thỏa mãn kì vọng của người dân
- Mức độ chính xác của sự đánh giá và những báo cáo về tình hình thực hiện Chương trình.
Để có thể đánh giá kết quả mô hình nông thôn mới tại xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, tp
Hà Nội, tôi sử dụng các chỉ tiêu như sau:
• Về quy hoạch
• Về cơ sở hạ tầng
• Về kinh tế- các hình thức sản xuất
• Về văn hóa- xã hội – môi trường
• Hệ thống tổ chức chính trị xã hội
• Chỉ tiêu về đánh giá của người dân về nông thôn mới
- Chỉ tiêu đánh giá về kết quả đạt được theo 5 nhóm tiêu chí
- Chỉ tiêu đánh giá về mức độ thay đổi, cải thiện so với trước khi có nông thôn mới
- Chỉ tiêu về mức độ hài lòng với quá trình, kết quả xây dựng nông thôn mới tại địa
phương
- Chỉ tiêu về mức độ thỏa mãn kỳ vọng của người dân.
PHẦN II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về đánh giá của người dân về mô hình nông thôn mới
2.1.1 Cơ sở lý luận về đánh giá của người dân về mô hình nông thôn mới
2.1.1.1 Các khái niệm cơ bản
a, Đánh giá
Là đưa ra nhận định tổng hợp về các dự kiện đo lường được qua các kì kiểm tra, lượng

giá trong quá trình và kết thúc bằng cách đối chiếu, so sánh với những tiêu chuẩn đã được xác
định rõ ràng trước đó trong các mục tiêu. Mặt khác đánh giá còn là quá trình thu thập, xử lí
thông tin để lượng định tình hình và kết quả công việc giúp quá trình lập kế hoạch, quyết định
và hành động có kết quả.
Đánh giá là quá trình mà qua đó ta quy cho đối tượng một giá trị nào đó. Đánh giá là
hoạt động nhằm nhận định , xác nhận giá trị thực trạng về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chất
lượng hiệu quả công việc, trình độ, sự phát triển , những kinh nghiệm được hình thành ở thời
điểm hiện tại đang xét so với mục tiêu hay những chuẩn mực đã được xác lập.
9
Năm tiêu chí được sử dụng để đánh giá là : tính phù hợp( các biện pháp của dự án có
giải quyết được “vấn đề” ?), hiệu suất (nguồn lực có được sử dụng một cách hợp lý), hiệu quả
( chương trình ,dự án có đạt đến các mục tiêu), tác động( dự án có góp phần vào việc đạt mục
đích), tính bền vững ( kết quả và tác động sẽ được duy trì sau khi tài trợ đã kết thúc)
b, Người dân
Nhân dân hay còn gọi là người dân, quần chúng, dân là thuật ngữ chỉ về toàn thể
những con người sinh sống trong một quốc gia, và tương đương với khái niệm dân tộc. Nhân
dân còn có khái niệm rộng hơn và được sử dụng trong chính trị, pháp lý, tư tưởng chính trị.
Trong lĩnh vực chính trị pháp lý, nhân dân còn tương đồng với thuật ngữ công dân là những
con người mang quốc tịch và được bảo hộ của một nhà nước nơi họ đang sinh sống và thông
thường là không bao gồm những người trong bộ máy cai trị.(Wikipedia tiếng Việt)
Trong khái niệm trên rõ ràng là khái niệm người dân được hiểu theo nghĩa rất rộng bao
gồm toàn bộ cư dân sinh sống trong một phạm vi lãnh thổ nhất định từ phạm vi một quốc gia
cho đến vùng lãnh thổ, tỉnh, huyện, xã, thôn xóm… Tuy nhiên, theo quan điểm tiếp cận có sự
tham gia trong xây dựng nông thôn mới hiện nay thì thuật ngữ người dân được hiểu là nhóm
người được hưởng lợi chính từ chính sách và quá trình thực hiện xây dựng chương trình nông
thôn mới ở địa phương.
Như vậy, trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới thì thuật ngữ người dân được hiểu
làm toàn bộ nhóm người sinh sống trong một phạm vi lãnh thổ nhất định và là nhóm hưởng
lợi chính của chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn của địa phương ấy.
c, Nông thôn mới

Khái niệm nông thôn mới (NTM) trước tiên phải là nông thôn chứ không phải là thị
tứ; thứ hai, là nông thôn mới chứ không phải nông thôn truyền thống. Nếu so sánh giữa nông
thôn mới và nông thôn truyền thống, thì nông thôn mới phải bao hàm cơ cấu và chức năng
mới.
Xây dựng NTM không có nghĩa là biến nông thôn trở thành thành thị. Nếu áp dụng
mô hình phát triển của thành thị vào xây dựng nông thôn sẽ làm mất những giá trị tự có và
không giữ vững, phát triển được bản sắc riêng của nông thôn.
Công nghiệp hóa, đô thị hóa; nông dân phi nông hóa là động lực cơ bản trong xây
dựng NTM. Xây dựng nông thôn mới XHCN phải lấy việc đẩy mạnh dịch chuyển lao động
nông thôn làm cơ sở, chứ không phải lấy việc cố định người nông dân làm mục tiêu. Đồng
thời nhà nước cần có các chính sách nhằm gia tăng sức hút của thành thị, xóa bỏ các chính
sách gây cản trở đến sự chuyển dịch lao động và ngành nghề sang khu vực thành thị, không
nên cố định các ngành nghề công nghiệp tại các khu vực nông thôn.
Khái niệm NTM mang đặc trưng của mỗi vùng nông thôn khác nhau. Nhìn chung, mô
hình NTM là mô hình cấp xã, thôn được phát triển toàn diện theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, dân chủ hóa, văn minh hóa. Sự hình dung chung của các nhà nghiên cứu về mô
hình nông thôn mới là những kiểu mẫu cộng đồng theo tiêu chí mới, tiếp thu những thành tựu
KHKT hiện đại mà vẫn giữ được nét đặc trưng, tinh hoa văn hóa của người Việt Nam.
Mô hình NTM được quy định bởi các tính chất: Đáp ứng yêu cầu phát triển; Có sự đổi mới về
tổ chức, vận hành và cảnh quan môi trường; Đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội; Tiến bộ hơn so với mô hình cũ; Chứa đựng các đặc điểm chung, có
thể phổ biến và vận dụng trên cả nước.
Xây dựng NTM là việc đổi mới tư duy, nâng cao năng lực của người dân, tạo động lực
giúp họ chủ động phát triển kinh tế, xã hội, góp phần thực hiện chính sách vì nông nghiệp,
nông dân, nông thôn, thay đổi cơ sở vật chất và diện mạo đời sống, văn hóa, qua đó thu hẹp
khoảng cách sống giữa nông thôn và thành thị. Đây là quá trình lâu dài và liên tục, là một
10
trong những nội dung trọng tâm cần lãnh đạo, chỉ đạo trong đường lối, chủ trương phát triển
đất nước và của các địa phương trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.
Mục tiêu xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; Cơ cấu kinh tế

và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp,
dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; Xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; Môi
trường sinh thái được bảo vệ; Nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng ở nông thôn; Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nông và đội ngũ trí
thức, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc, đảm bảo thực hiện thành công công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Như vậy, hiểu một cách chung
nhất của mục đích xây dựng mô hình nông thôn mới là hướng đến một nông thôn năng động,
có nền sản xuất nông nghiệp hiện đại, có kết cấu hạ tầng gần giống đô thị.
Do đó, có thể quan niệm: “Mô hình NTM là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo
thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông
thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng so với mô hình nông thôn cũ
ở tính tiên tiến về mọi mặt”.
Như vậy đánh giá của người dân về mô hình nông thôn mới là xem xét, nhìn nhận,
bình luận về mô hình nông thôn mới trên các góc độ về chính sách, quá trình triển khai, thực
hiện, kết quả đạt được, những tác động và tính bền vững của mô hình dưới góc nhìn từ phía
người dân
2.1.1.2 Nội dung đánh giá của người dân về mô hình nông thôn mới
a, Đánh giá về nội dung của chương trình xây dựng nông thôn mới
Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của chính
phủ nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục
tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn
hóa – xã hội – môi trường.
Chính sách phát triển nông thôn là tập hợp các chủ trương và hành động của chính phủ
nhằm tạo cho nông thôn phát triển bằng cách tác động vào việc cung cấp các yếu tố đầu vào
(đất đai, lao động, vốn, cơ sở hạ tầng), tác động tới giá đầu vào hay giá đầu ra trong nông
thôn, tác động về việc thay đổi tổ chức, trong đó thị trường đầu vào và cả đầu ra được thực
hiện, tác động vào chuyển giao công nghệ. (Wikipedia tiếng Việt)
Chính sách, chủ trương xây dựng nông thôn mới là một tập hợp các chính sách tổng
hợp trên tất cả mọi mặt từ kinh tế - văn hóa, xã hội và môi trường nhằm đẩy nhanh sự phát
triển của khu vực nông thôn một cách toàn diện, cải thiện đời sống của cư dân khu vực nông

thôn, giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn tiến tới thực hiện thắng
lợi chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Do đó, đánh giá của người dân nông thôn về chương trình xây dựng nông thôn mới
chính là thể hiện sự hiểu biết của người dân về nội dung, mục tiêu cơ bản nhất của chương
trình xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó nắm được ở mức độ nào về bộ tiêu chí của mô
hình nông thôn mới. Đồng thời đưa ra những bình luận, nhận xét về mặt được, không được,
mặt phù hợp, không phù hợp của chương trình và đưa ra những góp ý cần thiết nhằm cải thiện
và điều chỉnh những điểm chưa hợp lý, hạn chế ấy.
b, Đánh giá quá trình tổ chức thực hiện, xây dựng
Sự thành công hay thất bại cũng như mức độ thành công trong xây dựng nông thôn
mới phụ thuộc lớn vào quá trình triển khai thực hiện ở thực tế tại địa phương. Vì vậy, đánh giá
quá trình thực hiện ấy có vai trò vô cùng quan trọng, quyết định đến kết quả cũng như tính
bền vững, hiệu quả và tác động của mô mình nông thôn mới sau này. Đối với quá trình thực
hiện ấy bao gồm từ khâu thành lập ban quản lý xây dựng nông thôn mới đến các hoạt động
quy hoạch, tuyên truyền, huy động, quản lý và sử dụng nguồn lực, triển khai các hoạt động
11
trong chương trình nông thôn mới trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội và môi
trường đến cải thiện năng lực của hệ thống chính trị cơ sở…Do đó, việc xem xét đánh giá của
người dân về mô hình nông thôn mới chính là những nhận xét, bình luận đối với các phương
diện nêu trên đồng thời từ những nhận xét, xem xét ấy mà đưa ra những kiến nghị, đóng góp
nhằm điều chỉnh giúp quá trình ấy diễn ra một cách tốt nhất.
c, Đánh giá kết quả
Chương trình nông thôn mới xây dựng thành công mang lại nhiều kết quả to lớn trên
phương diện 19 tiêu chí ở các lĩnh vực quy hoạch; cơ sở hạ tầng; kinh tế; văn hóa- xã hội, môi
trường và hệ thống chính quyền ở cơ sở. Đánh giá kết quả của mô hình nông thôn mới chính
là đánh giá mức độ đạt được của các nhóm tiêu chí trên. Theo đó chính là mức độ phù hợp
của quy hoạch; hoàn thiện về hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn; mức độ cải thiện về điều kiện
kinh tế, các tổ chức, hình thức tổ chức sản xuất, thay đổi cơ cấu cây trồng, sự hiệu quả của các
tổ chức kinh tế trên địa bàn và mức độ cải thiện kinh tế hộ gia đình ; mức độ cải thiện về đời
sống sinh hoạt, đời sống văn hóa, xã hội hàng ngày của người dân, sự cải thiện về môi trường,

ý thức bảo vệ môi trường, cải thiện cảnh quan và môi trường nông thôn; sự hoạt động hiệu
quả, uy tín của hệ thống chính quyền cơ sở, đảm bảo an toàn xã hội. Đánh giá của người dân
về kết quả xây dựng nông thôn mới chính là đứng từ phía người dân, góc nhìn từ người dân
và đánh giá cụ thể, thực tế của người dân trên địa bàn về các nội dung trên từ đó có được nhận
xét khách quan nhất về mức độ và chất lượng đạt được của mô hình nông thôn mới.
d, Đánh giá tác động của mô hình đến đời sống của người dân
Thực tế cho thấy, bất kỳ một chương trình, dự án phát triển nào khi thành công đều
mang lại những ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực cho người dân bản địa. Chương trình xây
dựng nông thôn mới cũng vậy, với tư cách là một chương trình phát triển tầm quốc gia và
được triển khai trên phạm vi rộng toàn quốc thì những tác động ấy là tất yếu. Bất kỳ địa
phương nào sau khi xây dựng thành công mô hình này đều phải đối mặt với những ảnh hưởng
to lớn cả tích cực và tiêu cực tới địa phương mình. Việc đánh giá những tác động này từ mô
hình nông thôn mới chính là đánh giá ở các khía cạnh tác động từ sự thay đổi về kinh tế, văn
hóa, xã hội… tới đời sống của người dân, từ người dân và do người dân nhận định so với
trước kia chỉ ra đâu là ảnh hưởng tích cực, đâu là ảnh hưởng tiêu cực và mức độ của những
ảnh hưởng ấy nhằm có phương án điều chỉnh lại cho phù hợp trong tương lai.
e, Đánh giá về tính bền vững
Mô hình nông thôn mới bản thân nó là một chương trình phát triển, ở mỗi địa phương
khác nhau có điều kiện và cách thực hiện khác nhau do đó ảnh hưởng đến tính bền vững đối
với những thành quả của mô hình. Sự bền vững của mô hình chính là ở sự đúng đắn hay
không đúng đắn từ nội dung đến cách làm cho tớ việc quản lý, sử dụng và duy trì lợi ích, tác
động tích cực từ những thành quả của mô hình và điều chỉnh, giảm thiểu những tác động tiêu
cực cũng như tiếp tục phát huy thành quả và cải tổ, điều chỉnh phương thức quản lý, đổi mới,
bồi bổ những thành quả ấy. Tính bền vững này cần phải được đánh giá đúng đắn từ cả góc
nhìn của nhà quản lý lẫn góc độ người dân nhằm đưa ra được những giải pháp phù hợp nhất,
hiệu quả nhất duy trì lợi ích lâu dài mà mô hình mang lại cho địa phương.
2.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về xây dựng nông thôn mới
2.2.1.1 Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc, từ một nước thuộc địa đến tận cuối thế kỷ XIX, đã đi lên từ vị trí giữa

những nước nghèo nhất thế giới nay trở thành nước có nền kinh tế lớn thứ 12 trên thế giới,
Hàn Quốc đã cho thấy sức mạnh và tiềm năng khổng lồ của mình. Nền tảng cơ bản cho sự
vươn mình nỗ lực đó chính là Saemaul Undong - mô hình phát triển làng mới mang đặc sắc
riêng Hàn Quốc.
12
Tháng 4/1970, Chính phủ Hàn Quốc phát động “ Phong trào nông thôn mới” với cách
thức hoạt động chủ yếu là “ Chính phủ là chủ đạo, cung cấp nguyên liệu, tài liệu. Hội nông
dân tổ chức cho nông dân thực thi cụ thể”. Tinh thần Seamaul Undong được xây dựng với ba
trụ cột “chuyên cần - tự giác - hợp tác”. Ba trụ cột đó là những giá trị xuyên suốt trong quá
trình phát triển nông thôn nói riêng và phát triển xã hội Hàn Quốc nói chung, được công nhận
đã góp công đưa GNP bình quân từ 85USD lên 20.000USD sau 30 năm phát triển. Tới nay,
thông qua phong trào NTM, Hàn Quốc đã phổ cập được hạ tầng cơ sở nông thôn khá đồng bộ
và hiện đại, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, nâng cao trình độ tổ chức của
nông dân, chấn hưng tinh thần quốc dân, cuộc sống của người nông dân cũng đạt đến mức
khá giả, nông thôn Hàn Quốc cũng đã bắt kịp tiến trình hiện đại hóa của đất nước, đồng thời
đưa thu nhập của Hàn Quốc đạt chỉ tiêu của một quốc gia phát triển. (Tintucxalo.vn. Phát
triển nông thôn - Từ điểm nhìn Hàn Quốc)
2.2.1.2 Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới của Thái Lan
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn chiếm
khoảng 80% dân số cả nước. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông nghiệp, Thái Lan
đã áp dụng một số chiến lược như: tăng cường vai trò của cá nhân và các tổ chức hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân
và tập thể bằng cách mở các lớp học và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông
nghiệp và nông thôn; tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề
nợ trong nông nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo hiểm rủi ro cho nông dân.
Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức cạnh tranh với các
hình thức, như tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy mạnh công tác tiếp thị; phân
bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học và hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn
tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi và kịp thời phục hồi những khu vực mà tài nguyên đã
bị suy thoái; giải quyết những mâu thuẫn có liên quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm, thủy

hải sản, đất đai, đa dạng sinh học, phân bổ đất canh tác.
Trong xây dựng kết cấu hạ tầng, Nhà nước có chiến lược xây dựng và phân bố hợp lý
các công trình thủy lợi lớn phục vụ nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu
hết đất canh tác trên toàn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng khác
trong sản xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn với việc xây dựng các trạm
thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước….
Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chính phủ Thái Lan đã tập trung vào
các nội dung sau: cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn, đồng thời
cũng xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ năng truyền thống, nội lực, tiềm năng trong
lĩnh vực sản xuất và tiếp thị song song với việc cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập
khẩu.
Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng nông nghiệp,
thủy, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông sản cho tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu, nhất là các nước công nghiệp phát triển.
Một số kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nêu trên cho thấy, những
ý tưởng sáng tạo, khâu đột phá và sự trợ giúp hiệu quả của nhà nước trên cơ sở phát huy tính
tự chủ, năng động, trách nhiệm của người dân để phát triển khu vực này, có ý nghĩa và vai trò
hết sức quan trọng đối với việc CNH - HĐH thành công nông nghiệp - tạo nền tảng thúc đẩy
quá trình CNH - HĐH đất nước.
2.2.1.2 Kinh nghiệm của Nhật Bản trong phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”
Oita là một tỉnh nằm ở phía Tây Nam Nhật Bản, cách Thủ đô Tokyo khoảng 500 km.
13
Cuối những năm 70, khi Nhật Bản đã cơ bản thực hiện xong công cuộc công nghiệp hóa đất
nước, các ngành công nghiệp đã được hình thành và phát triển ở khu vực thành phố tạo nên sự
thu hút mạnh mẽ về lao động từ các vùng nông thôn, trong đó có Oita. Thế hệ trẻ sau khi tốt
nghiệp các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề đều không muốn trở về vùng nông thôn nơi họ
đã được sinh ra và lớn lên mà muốn ở lại các thành phố và trung tâm công nghiệp. Điều này
đã dẫn đến tình trạng hoang tàn và giảm dân số nghiêm trọng ở vùng nông thôn nói chung và
Oita nói riêng – hầu như chỉ còn người già và con trẻ ở những khu vực này.
Đứng trước tình hình đó, ngay sau khi được bổ nhiệm làm người đứng đầu tỉnh Oita,

ngài Morihiko Hiramatsu đã đề xuất một loạt sáng kiến để khôi phục lại kinh tế của Oita,
trong đó có Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”
Hợp tác xã nông nghiệp Oyama được trưng bày riêng một khu vực gọi là “Konohana
Garten” và bán với hình thức đưa hàng đến giao hàng ngày cho hệ thống các siêu thị trên toàn
đất nước là một giải pháp thị trường mang tính sáng tạo cao. Chất lượng chính là yếu tố thành
công của phong trào, yếu tố này không chỉ thể hiện ở bản thân chất lượng của hàng hóa được
kết tinh ở công nghệ chế biến và bảo quản đã được giám định kỹ lưỡng bởi các cơ quan chức
năng cũng như bởi ý thức sản xuất hàng hóa chất lượng cao trong hành vi của người Nhật Bản
mà còn thể hiện rất rõ ở nghệ thuật bao bì, đóng gói, luôn bắt mắt và thuận tiện cho việc vận
chuyển, sử dụng của người tiêu dùng. Ngoài hệ thống cửa hàng tại các siêu thị, các sản phẩm
của Hợp tác xã nông nghiệp Oyama còn được bán ở hệ thống các trạm nghỉ dọc đường (tiếng
Nhật là: Michi-no-Eki).
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung ứng, Phong trào cũng đề
cao vai trò của việc nghiên cứu phát triển và đào tạo nguồn nhân lực. Vì đây chính là yếu tố
thúc đẩy sự phát triển một cách bền vững. Và một yếu tố khác khiến cho Phong trào OVOP
thành công tại Nhật Bản đến như vậy là vì Phong trào đã hình thành nên cho người sản xuất
tinh thần lao động với ý thức rất cao về sản phẩm của mình làm ra.
Năm 2003, thu nhập bình quân đầu người của người dân Oita đạt 22.800
USD/người/năm, cao gấp 2 lần so với thời điểm bắt đầu triển khai Phong trào. Giá trị sản
phẩm nông nghiệp bình quân đầu người cũng cao gấp đôi. Trong đó sản phẩm chanh Kabosu
của tỉnh này vươn lên chiếm 100% thị phần trong nước. Phong trào đã nhanh chóng lan ra
nhiều nước ở châu Á, châu Phi như: Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Tuynidi
Có 3 nguyên tắc cơ bản để phát triển Phong trào OVOP:
• Hành động địa phương nhưng tư duy toàn cầu
• Tự tin sáng tạo
• Phát triển nguồn nhân lực.
Mỗi địa phương, tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mình, lựa chọn ra những
sản phẩm độc đáo, mang đậm nét đặc trưng của địa phương để phát triển. Yếu tố thành công
chủ yếu của Phong trào OVOP là việc nhận biết những nguồn lực chưa được sử dụng tại địa
phương trước khi vận dụng nguồn lực một cách sáng tạo để cung cấp trên thị trường. Trong

Phong trào ở Oita, người ta có thể tìm ra những sản phẩm rất bình dị trong cuộc sống như
nấm Shitake và các sản phẩm từ sữa bò, hàng gỗ mỹ nghệ ở thị trấn Yufuin, cam, cá khô ở
làng Yonouzu, chè và măng tre ở làng Natkatsu…Trong 20 năm kể từ năm 1979-1999, Phong
trào "Mỗi làng một sản phẩm" đã tạo ra được 329 sản phẩm với tổng doanh thu là 141 tỷ
yên/năm (trên 1.1 tỷ USD hay 19.000 tỷ đồng Việt Nam).
 Tổng kết bài học kinh nghiệm trong phát triển nông thôn của các quốc gia
Phát triển nông nghiệp để xây dựng một nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay, từ
14
các góc cạnh khác nhau, đang là mối quan tâm chung của cả cộng đồng thế giới. Kinh nghiệm
của một số quốc gia trên thế giới về vấn đề này là bài học cho Việt Nam. Một số kinh nghiệm
trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nêu trên cho thấy, những ý tưởng sáng tạo, khâu đột
phá và sự trợ giúp hiệu quả của nhà nước trên cơ sở phát huy tính tự chủ, năng động, trách
nhiệm của người dân để phát triển khu vực này, có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối
với việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công nông nghiệp - tạo nền tảng thúc đẩy quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Từ kinh nghiệm trong PTNT ở các nước cho thấy: Dù đây là các quốc gia đi trước
trong vấn đề hiện đại hóa trong tiến trình hiện đại hóa, họ đều tương đối chú trọng vào công
cuộc xây dựng và phát triển nông thôn. Các cách làm này chủ yếu bao gồm: Kịp thời điều
chỉnh mối quan hệ giữa thành thị và nông thôn, quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp;
Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hiện đại; Cố gắng nâng cao thu nhập cho nông dân; Nâng
cao trình độ tổ chức cho người nông dân; Thúc đẩy đổi mới kỹ thuật, bồi dưỡng nông dân
theo mô hình mới.
Bất luận tiến trình đô thị hóa và công nghiệp hóa được thúc đẩy thế nào, các nước có
đa phần dân số làm nghề nông cũng buộc phải chấp nhận một thực tế: Vài chục năm, thậm chí
hàng trăm năm nữa, số dân tiếp tục dựa vào nông nghiệp để mưu sinh vẫn là số lớn. Bởi vậy,
PTNT không phải là một quy hoạch kinh tế ngắn hạn, mà là một quốc sách lâu dài.
2.2.2 Xây dựng nông thôn mới ở nước ta
2.2.2.1 Chính sách của Đảng và Nhà nước
Mô hình nông thôn mới không phải bây giờ chúng ta mới đặt ra. Có thể nói, phát triển
nông thôn Việt nam đã trải qua nhiều năm luôn gắn liền với giai đoạn phát triển của đất nước.

Trong thời kì bao cấp vừa kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam, xây dựng Chủ nghĩa
xã hội ở niềm Bắc, ta cũng đã đầu tư xây dựng một số mô hình. Song do nguồn lực khó khăn
và tư duy bao cấp lúc bấy giờ nên hiệu quả mang lại rất hạn chế.
Trước những đòi hỏi của thực tiễn phát triển nông thôn, ban Kinh tế Trung ương cùng
với bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có văn bản số 185/KTTW-BNN ngày 7 tháng
5 năm 2001 về việc ban hành Đề cương đề án xây dựng mô hình phát triển nông thôn (cấp xã)
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác hóa và dân chủ hóa
Thực hiện Nghị quyết trung ương 7 (khóa X), Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Bộ
tiêu chí quốc gia nông thôn mới tại Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009. Tiếp
đó ban Bí thư TW Đảng có thông báo số 238-TB/TW tháng 4 năm 2009 về việc xây dựng thí
điểm mô hình nông thôn mới. Mục đích của việc làm thí điểm là xác định rõ hơn nội dung,
phạm vi, nguyên tắc, phương pháp, cách thức xây dựng nông thôn mới, quan hệ trách nhiệm
trong chỉ đạo xây dựng nông thôn mới của các cấp, các ngành; có được mô hình thực tế về
các xã nông thôn mới của thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa để nhân dân học tập làm
theo. Chương trình được thí điểm tại 11 xã thuộc 11 tỉnh đại diện cho các vùng kinh tế - văn
hóa của cả nước. Thời gian thí điểm trong 2 năm (từ 6/2009 – 6/2011) sau đó sẽ tổng kết và
bổ khuyết cho việc triển khai chương trình nông thôn mới.
Sau hơn 2 năm triển khai những kinh nghiệm rút ra tử chỉ đạo điểm đã giúp cho Chính
phủ quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010 – 2020 tại Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 4 tháng 6 năm 2010 và phát động phong
trào thi đua “Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới”.
2.2.2.2 Kinh nghiệm của một số địa phương.
• Xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình
15
Nói về kinh nghiệm trong quá trình triển khai xây dựng NTM ở Thái Bình, trước hết,
đội ngũ cán bộ phải thực sự có năng lực, tâm huyết với công việc, có sự đoàn kết nhất trí cao
từ xã đến thôn. Trong mọi phong trào, cán bộ luôn gương mẫu, tiên phong đi đầu, đúng với
tinh thần “cán bộ đi trước, làng nước theo sau” có như vậy mới tạo sự đồng thuận, nhất trí,
tin tưởng cao trong nhân dân. Tuyên truyền cũng là một trong những yếu tố tiên quyết làm
nên thành công trong xây dựng NTM ở địa phương. Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, vận

động: qua Đài truyền thanh xã, các panô, khẩu hiệu, các hội nghị… quy chế dân chủ ở cơ sở
được phát huy tối đa cùng với phương châm “công khai, dân biết, dân bàn, dân làm” nên tư
tưởng, nhận thức của người dân được nâng cao. Từ đó tạo ra sự đồng tình, hưởng ứng và tích
cực tham gia thực hiện các tiêu chí.
Bên cạnh chính sách, cơ chế hỗ trợ của trung ương và tỉnh, các xã triển khai xây dựng
nông thôn mới của Thái Bình đã dồn điền đổi thửa thành công, vận động nhân dân hiến đất
làm đường giao thông nông thôn, đóng góp tiền của, công sức, hiến kế xây dựng nông thôn
mới. Điều đó khẳng định sự đồng thuận cao của nhân dân khi thực hiện mục tiêu xây dựng
nông thôn mới là vì nông nghiệp- nông dân, nông thôn, làm cho kinh tế phát triển, nhân dân là
chủ thể, đời sống nông dân sung túc, bộ mặt nông thôn đổi mới, các giá trị văn hóa truyền
thống được bảo tồn và phát huy.
Với vai trò lãnh đạo, Đảng ủy các xã đã cụ thể hóa các mục tiêu trong tiến trình xây
dựng NTM bằng các nghị quyết chuyên đề, chọn ra các nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ mang
tính đột phá, ảnh hưởng đến lợi ích của toàn dân để lãnh đạo thực hiện. Với mỗi tiêu chí, đặc
biệt là các tiêu chí cần huy động nguồn kinh phí lớn, xã luôn xây dựng một định mức cụ thể,
thống nhất và công khai trong toàn xã, trong đó ưu tiên xã hội hóa trong việc kiến thiết các
công trình. Bên cạnh đó, xác định vai trò chủ thể của người dân trong tiến trình xây dựng
NTM, tỉnh Thái Bình luôn chủ động, khắc phục tâm lý trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ cấp trên.
Hàng năm, xây dựng quỹ NTM do xã quản lý việc sử dụng, việc khai thác nguồn thu giao cho
các thôn phụ trách, vừa tạo tính chủ động, vừa huy động tối đa nguồn thu. Trong quá trình
triển khai xây dựng, các xã cũng luôn chú trọng việc tuyên truyền, nêu gương các điển hình
tiên tiến có đóng góp với phong trào chung nhờ đó khích lệ, cổ vũ nhân dân hăng hái chung
tay xây dựng. Phát huy tối đa nội lực, tạo sự đồng thuận, tập hợp và huy động được sức dân,
thể hiện được vai trò cộng đồng là chủ thể cùng sự gương mẫu đi đầu của mỗi cán bộ, đảng
viên chính là chìa khóa thành công trong xây dựng NTM mà Thái Bình đã làm được.
• Xây dựng nông thôn mới ở xã Gia Phố, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh
Trong sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân xã Gia Phố đã đoàn kết, phấn đấu, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, gắn với tăng
cường quốc phòng - an ninh, xây dựng nông thôn ngày càng vững mạnh. Được sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh, Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện đã ra Nghị quyết

03-NQ/HU “Về lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng NTM giai đoạn 2012 - 2015”; UBND Huyện có
Kế hoạch số 175/KH-UB để tổ chức thực hiện; đồng thời, thành lập Ban Chỉ đạo, xác định
đơn vị điểm, phân khai nguồn kinh phí hỗ trợ các xã Nhằm phát huy lợi thế của địa phương
trong xây dựng NTM, Huyện ủy ra Nghị quyết chuyên đề về phát triển chăn nuôi; phê duyệt
danh mục hàng hóa sản phẩm chủ lực; ban hành các chính sách khuyến khích phát triển nông
nghiệp, nông thôn Huyện chỉ đạo việc thực hiện Chương trình mục tiêu xây dựng NTM trên
địa bàn phải được tiến hành đồng bộ, bền vững, công khai, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ;
khắc phục biểu hiện nóng vội, làm không đến nơi, đến chốn, gây thất thoát, lãng phí ngân
sách, tài sản của Nhà nước và nhân dân.
Xã đã làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
các lực lượng tham gia trong quá trình thực hiện chương trình. Nội dung tuyên truyền tập
trung làm rõ mục đích, ý nghĩa, yêu cầu đạt được của Chương trình mục tiêu Quốc gia xây
16
dựng NTM. Hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú, phù hợp với đặc điểm của từng
vùng; gắn tuyên truyền, giáo dục chung (thông qua Website của Huyện, hệ thống phát thanh,
truyền hình, sinh hoạt thôn, bản…) với tuyên truyền đến từng cơ quan, doanh nghiệp, hộ dân
trên địa bàn. Nhờ đó, nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền và các tầng lớp nhân
dân trong thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM được nâng lên; sự đồng
thuận xã hội được tăng cường; vai trò của Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ,
Hội Nông dân Huyện được phát huy.
Nhiều hộ nông dân đã tích cực tham gia xây dựng NTM bằng những việc làm cụ thể,
như: hiến kế, hiến đất, hiến vườn, tham gia lao công ích xây dựng các công trình giao thông,
thủy lợi, vệ sinh môi trường, xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư Với chức năng,
nhiệm vụ của mình, các phòng, ban của Huyện đã tham mưu đắc lực cho Huyện ủy, UBND
Huyện và tập trung chỉ đạo, hướng dẫn cơ sở phát huy nội lực, thực hiện tốt nội dung, chương
trình xây dựng NTM; từng bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; tăng cường đoàn kết nội bộ,
chung sức, chung lòng, phấn đấu vì sự giàu, đẹp của quê hương. Đồng thời, khắc phục nhận
thức cho rằng chương trình xây dựng NTM chỉ là “dự án” xây dựng cơ sở hạ tầng, do cấp trên
đầu tư kinh phí, nên có tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thiếu tính chủ động, sáng tạo trong tổ chức
thực hiện

2.3Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.3.1 Đặc điểm tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Xã Đa Tốn nằm ở phần đất phía Nam của huyện Gia Lâm, sau nhiều lần hợp nhất và
chia tách, tới năm 1966 thì được chính thức thành lập với tên là xã Đại Hưng sau này đổi tên
là xã Đa Tốn hiện nay. Xã Đa Tốn phía Bắc giáp Thị trấn Trâu Quỳ và Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội, phía Đông giáp Kiêu Kỵ, phía Tây giáp xã Đông Dư và Bát Tràng, phía Nam
giáp 2 xã Cửu Cao và Phụng Công (thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên).(Báo cáo tóm
tắt quy hoạch nông thôn mới xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm giai đoạn 2006- 2010)
b. Đặc điểm địa hình
Đặc điểm nổi bật của địa hình ở Đa Tốn là tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình so
với mặt nước biển khoảng 3.0 – 3.5 m. Độ dốc địa hình chính từ Đông Bắc xuống Tây Nam.
Khu vực Đông Bắc có độ cao lớn hơn (bình quân 3.5 – 3.8 m), khu vực Tây Nam cao trung
bình 3.0 – 3.5m; các khu dân cư cao trung bình 4.0 – 5.0 m.
Với đặc điểm địa hình của xã như trên cho phép xây dựng các khu sản xuất hàng hóa
tập trung quy mô thích hợp đối với nhiều loại cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp
và nuôi trồng thủy sản, trong địa bàn xã không có các sông, hồ tự nhiên lớn. Do đó, việc xây
dựng các công trình là rất thuận lợi.
c. Khí hậu, thủy văn
Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên khí hậu của xã Đa Tốn cũng chịu ảnh
hưởng bởi nền khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình của Việt Nam, đó là kiểu khí hậu có 2 mùa
rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 cho tới tháng 10, đặc trưng là nống ẩm, mưa nhiều và mùa đông
lạnh, đầu mùa khô hanh, cuối mùa ẩm ướt do mưa phùn kéo dài (từ tháng 11 tới tháng 4 năm
sau). Sự phân hóa theo mùa rõ rệt mang tính biến động mạnh mẽ và chịu ảnh hưởng của biển.
Sự phân hóa nhiệt độ liên quan đến phương vỹ tuyến và khoảng cách với biển, thể hiện rõ qua
sự ảnh hưởng của gió đất và gió biển. Trên phạm vi toàn toàn vùng đồng bằng sông Hồng,
hướng gió thổi từ đất liền và từ biển thường trùng với hướng gió mùa và hướng các thung
lũng rộng, nên gió biển thổi vào đất liền khá sâu, tạo nên sự đồng nhất tương đối về nhiệt độ
trên toàn vùng. Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm vào khoảng 23,6
0

C. Lạnh nhất vào
tháng 1 nhiệt độ thấp nhất là 8
0
C, những tháng nóng nhất trong năm tập trung vào tháng 6 – 7
với nhiệt độ 41 – 42
0
C.
17
Số ngày mưa trung bình trong năm khoảng 114 ngày, với lượng mưa trung bình năm
khoảng 1.245mm, độ ẩm không khí bình quan là 84,5%. Trong một năm khu vực Hà Nội
thường có hai mùa gió chính: Gió mùa Đông Nam và gió mùa Đông Bắc. Do chịu tác động
mạnh của gió mùa nên khí hậu Hà Nội, biến động thất thường trong mùa lạnh cũng có những
ngày nhiệt độ cao như mùa nóng, hoặc những ngày ẩm ướt chẳng khác gì mùa mưa.
Hằng năm khu vực chịu ảnh hưởng của khoảng 5 – 7 cơn bão. Bão mạnh nhất lên đến
cấp 9, cấp 10 làm đổ cây cối, nhà cửa và gây thiệt hại lơn cho mùa màng, bão thường trùng
với mùa nước sông Hồng lên cao đe dọa đến đời sống và sản xuất của nhân dân các vùng ven
sông cũng như làm trở ngại cho một số hoạt động của nhân dân toàn vùng.
Xã Đa Tốn chịu ảnh hưởng bởi chế độ thủy văn của các sông: sông Hồng lưu thượng
trung bình hằng năm là 2.710 m
3
/s mực nước lũ thường cao 9 – 12 m, sông Cầu Bây mực
nước cao 3 m, sông Bắc Hưng Hải độ cao mực nước sông là +1,97 m, mực nước lũ là +7,00
m.
Như vậy, khí hậu xã Đa Tốn nhìn chung là tương đối thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt là đối với sự sinh trưởng và phát triển cây ăn quả.
2.3.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.2.2.1 Đất đai
Đất đai của xã Đa Tốn chủ yếu là đất phù sa không được bồi hằng năm của hệ thống
sông Hồng. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nhẹ; đất ít chua, dinh dưỡng
trong đất tương đối khá, nghèo lân, giàu kali.

Với đặc điểm đất đai như trên cho phép trên địa bàn xã có thể phát triển nhiều loại cây
trồng (lúa nước, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày, rau, cây ăn quả) và có tiềm năng năng
suất cao phù hợp với sản xuất thâm canh trong sản xuất nông nghiệp.
Xã Đa Tốn tính tới năm 2013 có diện tích đất tự nhiên là 716,05 ha, trong đó đất phi
nông nghiệp là 294,51ha, đất nông nghiệp là 420,12 ha.
Qua bảng 2.1 ta thấy diện tích đất nông nghiệp giai đoạn 2011- 2013 ngày càng thu
hẹp dần. So với năm 2011 thì diện tích đất nông nghiệp năm 2013 giảm 1.88%, nguyên nhân
là do một phần diện tích đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp của vài năm trở lại đây đã bị
thu hồi, giải phóng mặt bằng giao cho ban quản lý đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng và
đường Hà Nội – Hưng Yên 35ha, thu hồi đất nông nghiệp chuyển sang đất giãn dân, tái định
cư 3,77ha.
Chỉ tiêu Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Diện
tích
(ha)
Cơ cấu
(%)
Diện
tích
(ha)
Cơ cấu
(%)
Diện
tích
(ha)
Tổng diện tích tự nhiên 716,05 100,00 716,05 100,00 716,05
I. Đất nông nghiệp 436,36 60,94 427,03 59,64 420,12
1. Đất trồng lúa 268,10 245,07 223,86
2. Đất trồng hoa màu 31,19 27,90 20,19
3. Cây ăn quả 129,45 146,50 168,45

18
4. Cây khác 0,20 0,20 0,20
5. Đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản 7,42 7,42 7,42
II. Đất phi nông nghiệp 276,44 38,61 287,01 40,08 294,51
1. Đất ở 77,68 78,46 80,55
2. Đất chuyên dùng 137,04 143,60 147,15
3. Đất công ích 8,15 8,20 8,39
4. Đất sông và đất mặt nước chuyên dùng 52,20 55,36 56,49
5. Đất phi nông nghiệp khác 1,37 1,39 1,42
III. Đất chưa sử dụng 3,25 0,45 2,01 0,28 1,37
IV. Một số chỉ tiêu bình quân
1. Đất nông nghiệp/hộ nông nghiệp 0,20 0,18 0,16
2. Đất nông nghiệp/lao động nông nghiệp 0,10 0,10 0,10
Bảng 2.1 Tình hình sử dụng đất đai xã Đa Tốn qua 3 năm (2011 – 2013)
19
2.3.2.2 Kết cấu hạ tầng
a) Hạ tầng ngành giáo dục
• Trường mần non: Toàn xã có 5 điểm trường tại 5 thôn với tổng diện tích 10.035 m
2
, bình quân
11,7 m
2
/cháu. Diện tích xây dựng 1.802 m
2
.
• Trường tiểu học có 3 dãy nhà 2 tầng đã được kiên cố hóa, 1 dãy nhà cấp 4 xuống cấp. Diện
tích khuôn viên: 12.016 m
2
bình quân 13,8 m
2

/học sinh. Diện tích xây dựng: 3.126 m
2
. Tổng
số 873 em.
• Trường trung học cơ sở có 2 dãy nhà tầng được kiên cố hóa. Diện tích khuôn viên: 22.039 m
2
bình quân 31,8 m
2
/học sinh. Diện tích xây dựng: 1.350 m
2
.
b) Hạ tầng ngành văn hóa – thể thao
Xã Đa Tốn hiện chưa có nhà văn hóa, các hoạt động vẫn diễn ra trong hội trường trung
tâm xã.
Sân thể thao của xã có diện tích 19.958,8 m
2
. Hiện trạng sân đất chưa được đầu tư cơ
sở vật chất để tổ chức các hoạt động thể thao phổ biến hiện nay.
Nhà văn hóa thôn: Hiện nay các thôn Đào Xuyên, Thuận Tốn, Khoan Tế, Ngọc Động đều
có nhà văn hóa thôn khuôn viên 500 m
2
, diện tích xây dựng 80 – 120 m
2
; riêng thôn Lê Xá nhà
văn hóa có khuôn viên 236 m
2
, diện tích xây dựng 70 m
2
.
Khu thể thao các thôn hiện trạng ngoài thôn Thuận Tốn có sân thể thao riêng còn các

thôn còn lại sân thể thao vẫn gắn liền với khuôn viên nhà văn hóa.
c) Hạ tầng thông tin liên lạc
- Bưu điện văn hóa: Hiện trạng xây dựng bao gồm 1 nhà bán kiên cố 1 tầng, diện tích xây dựng 42
m
2
, chất lượng xây dựng tốt, diện tích khuôn viên 200 m
2
.
- Điểm truy cập Internet: Tổng số có 22 điểm truy cập Internet, 100% các thôn đã có điểm truy
cập Internet trong đó 21 điểm tại các thôn và 1 điểm ở gần bưu điện văn hóa xã.
d) Hạ tầng y tế
Diện tích khuôn viên: 2.123 m
2
, diện tích xây dựng gồm 15 phòng với 12 giường
bệnh, hiện trạng một số phòng đã bị xuống cấp, thiết bị y tế còn thiếu.
Nhân lực: cán bộ trạm y tế có 7 người gồm 1 y sỹ, 5 y tá và 1 dược tá. Ngoài ra trong
xã còn có 8 cơ sở y tế tư nhân và chữa bệnh với 8 người hành nghề được cấp giấy phép.
Số người tham gia bảo hiểm y tế: 22,2%.
e) Hệ thống giao thông
Ngoài tuyến đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng và tuyến đường Hà Nội – Hưng Yên
đang thi công qua địa bàn xã. Đa Tốn hiện có:
- 5 tuyến đường trục xã, liên xã với tổng chiều dài 5 km đã trải nhựa hoặc bê tông hóa 100%;
- 11 tuyến đường trục thôn, liên thôn với tổng chiều dài 5,7 km đã bê tông hóa 3 tuyến dài 1,51
km (29,2%);
- 243 tuyến đường ngõ xóm với tổng chiều dài 27,75 km đã cứng hóa được 22,64 km (74,46%);
- 39 tuyến đường trục chính nội đồng với tổng chiều dài 23,15 km chỉ có 0,52 km được cứng
hóa còn lại là đường đất.
Nhìn chung mật độ đường giao thông của xã tương đối khá, với mật độ 8.6 km đường các
loại/km
2

. Tuyến đường trục thôn thiếu khoảng 730 m rãnh thoát nước, tuyến đường ngõ xóm hiện
tại có đến 38,24% số tuyến không có rãnh thoát nước.
f) Hệ thống thủy lợi
Diện tích cần tưới trên địa bàn xã hiện tại trên 403 ha.
Có 5 trạm bơm với tổng công suất 72.500 m
3
/h, trong đó 4 trạm bơm công suất 14.500
m3/h hiện đang hoạt động tốt. Riêng trạm bơm Lê Xá đã xuống cấp và ở vị trí không thuận
lợi.
Hệ thống kênh mương tổng số 48 tuyến, dài 25.780 m. Trong đó có 8.490 m kênh đã
được cứng hóa, chủ yếu là tuyến kênh chính đầu mối. Toàn bộ số kênh mương cấp 3 do xã quản
20
lý hiện hay chưa được cứng hóa có tổng chiều dài 17.290 m.
g) Hệ thống điện nông thôn
Toàn xã hiện tại có 10 trạm biến áp công suất 3.150 kVA.
Đường dây trung thế tổng chiều dài 5 km.
Đường dây hạ thế chính có tổng chiều dài 31.98 km, trong đó loại dây sử dụng chủ
yếu là AV35, AV50, AV70, AV95. Tỷ lệ hộ dùng điện đạt 100%.
h) Hệ thống cấp nước sinh hoạt
Nguồn nước sử dụng vẫn là nước giếng đào và nước giếng khoan có bể lọc, toàn xã có
2.674 giếng có bể lọc. 90% số hộ gia đình dùng thêm nguồn nước mưa cho ăn uống và sinh
hoạt. Dung tích bề chứa nước mưa từ 2 – 3 m
3
. Số hộ dùng nước hợp vệ sinh chiếm 95%.
i) Chợ, trung tâm thương mại, dịch vụ
Hiện xã có 1 điểm chợ truyền thống là chợ Bún, diện tích 4.477,5 m
2
, hiện chợ có 48
ki-ốt. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu yếu trong chợ đã xuống cấp và còn thiếu một số
công trình phụ trợ như: Chưa có chỗ tập kết rác thải, công trình vệ sinh, bãi để xe…

j) Nhà ở dân cư nông thôn
Khu dân cư nông thôn ở Đa Tốn mang đặc trưng của làng xã vùng đồng bằng Sông
Hồng. Diện tích khuôn viên đất ở bình quân mỗi hộ 290 m
2
/hộ, Ngọc Động là thôn có khuôn
viên rộng nhất, bình quân 350 m
2
/hộ và Thuận Tốn là thôn có khuôn viên nhỏ nhất, bình quân
270 m
2
/hộ.
Toàn xã có 2.425 ngôi nhà. Trong đó, 1.047 nhà cao tầng, chiếm 43,4%, còn lại 56,6%
là nhà một tầng, gồm 448 nhà mái bằng, 860 nhà cấp 4 và 69 nhà chưa đạt chuẩn. Mật độ xây
dựng 40%.
k) Các công trình tôn giáo tín ngưỡng
Xã Đa Tốn có diện tích đất tôn giáo, tín ngưỡng là 6,21 ha. Ở cả 5 thôn đều có chùa,
riêng Thuận Tốn có 3 chùa (chùa Linh Ứng, chùa Giấy, chùa Sùng Phúc). Có 6 đình ở 5 thôn
và 2 miếu ở thôn Thuận Tốn và Khoan Tế, 1 nghè Lê Xá.
Hiện trạng nhiều hạng mục công trình đã bị xuống cấp cần trùng tu để bảo tồn được
những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp.
Đài tưởng niệm liệt sỹ đã được xây dựng khang trang, diện tích khoảng 2007m
2
.
2.3.2.3 Dân số, lao động, việc làm và đời sống dân cư
• Dân số, lao động và việc làm
Bảng 3.2 ta thấy năm 2012 toàn xã Đa Tốn có 3.368 hộ với 12.733 nhân khẩu trong đó
đã có 86,3% số hộ đã đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa. Công tác giáo dục đào tạo, đời sống
của người dân luôn được các cấp các ngành chính quyền địa phương quan tâm, chú trọng.
Năm 2011, tỷ lệ số lao động nông nghiệp trên hộ là 1,55, tỷ lệ loa đông phi nông
nghiệp trên hộ là 0,93 nhưng tới năm 2013 tỷ lệ lao động nông nghiệp trên hộ giảm còn

1,31%, tỷ lệ lao đông phi nông nghiệp trên hộ tăng lên 0,95. Chứng tỏ cơ cầu lao động của xã
đang dần có xu hướng tăng về số lượng lao động phi nông nghiệp và giảm dần số lương lao
động nông nghiệp.
Tốc độ tăng bình quân tổng số hộ toàn xã là 110,42% tốc độ tăng các hộ sản xuất
nông nghiệp bình quân là 109,42%. Hộ sản xuất cây ăn quả năm 2012 chiếm 28,86% tổng số
hộ trong toàn xã và chiếm 36,90% số hộ sản xuất nông nghiệp. Như vậy hằng năm số hộ sản
xuất có nông nghiệp tăng nhưng mức tăng nhỏ hơn mức tăng số hộ trong xã.
Bảng 2.2 Tình hình dân số và lao động xã Đa Tốn qua 3 năm (2011 - 2013)
Chỉ tiêu Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
21
Số
lượng
Cơ cấu
(%)
Số
lượng
Cơ cấu
(%)
Số
lượng
Cơ cấu
(%)
I. Tổng số hộ 2.763 100 3.014 100 3.368 100
1. Hộ nông nghiệp 2.192 79,33 2.387 79,20 2.634 78,21
1.1 Hộ trồng cây ăn quả 916 948 972
1.2 Hộ sản xuất loại hình khác 1.276 1.439 1.662
2. Hộ phi nông nghiệp 571 20,67 627 20,80 734 21,79
II. Tổng nhân khẩu 12.047 112.321 12.733
III. Tổng số lao động 6.846 100 7.169 100,00 7.587 100
1. Lao động nông nghiệp 4.281 62,53 4.313 60,16 4.398 57,96

2. Lao động phi nông nghiệp 2.565 37,47 2.856 39,84 3.189 42,04
IV. Một số chỉ tiêu bình quân
1. Khẩu/hộ 4,36 4,09 3,78
2. Lao động/hộ 2,48 2,39 2,25
3. Lao động nông nghiệp/hộ 1,55 1,43 1,31
4. Lao động phi nông nghiệp/hộ 0,93 0,95 0,95
(Nguồn: Ủy ban nhân dân Đa Tốn)
22
• Đời sống dân cư
Với những kết quả đạt được về tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển của từng ngành
kinh tế và chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Đa Tốn đã làm cho thu nhập và mức sống của người
dân trên địa bàn xã ngày càng được cải thiện, cụ thể như sau:
- Giá trị sản xuất bình quân trên đầu người năm 2013 của xã đạt 13,68 triệu đồng/người, tăng
6,7 triệu đồng so với năm 2005.
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, năm 2013 toàn xã có 48 hộ nghèo, chiếm 1,42% số hộ của xã.
- Bình quân thu nhập của xã đạt 26 triệu đồng/người/năm.
- Bình quân lương thực có hạt 328 kg/người/năm.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện đạt 100% và 95% số hộ có giếng nước hợp vệ sinh phục vụ sinh hoạt,
song chưa đạt tiêu chuẩn nước sạch
- Tỷ lệ nhà kiên cố (tường xây, mái bê tông hoặc lợp ngói) chiếm 61,9%, nhà bán kiên cố
35,61%
2.3.2.4 Thực trạng phát triển kinh tế
• Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Năm 2012 và 2013, kinh tế có tốc độ tăng trưởng khá đạt 12%, cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo hướng “CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn”, tỷ trọng ngành nông, lâm,
thủy sản đạt 20,5%, thương mại dịch vụ đạt 35%, tiểu thủ công nghiệp – xây dựng cơ bản đạt
44,5%.
Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, tỷ trọng lao động nông nghiệp từ năm 2005 đến
nay vẫn chiếm khoảng 57% tổng số lao động của xã.
Giá trị sản xuất bình quân đầu người năm 2013 đạt khoảng 14 triệu đồng, tăng 6,7

triệu đồng/người so với năm 2005.
• Thực trạng phát triển một số ngành kinh tế
- Về sản xuất nông nghiệp:
Với tổng diện tích gieo trồng năm 2013 (2 vụ) là 843 ha, trong đó các loại cây trồng
chính như: cây lúa với diện tích 623ha, gieo xạ 287 ha, năng suất bình quân 2 cụ như sau: lúa
xuân 62,57 tạ/ha giảm 3,63 tạ/ha so với vụ xuân năm 2012; lúa mùa 51,06 tạ/ha giảm 6.2 tạ/ha
so với vụ mùa năm 2012, diện tích trồng ngô thương phẩm là 15 ha, đậu tương 5 ha năng suất
20 tạ/ha, lạc xuân 1 ha năng suất 15 tạ/ha, rau màu và các loại cây trông khác 40 ha, vườn tập
trung, chuyển đổi trồng cây ăn quả tổng diện tích là 81 ha.
Năng suất lúa một vài năm gần đây khá thấp do diện tích lúa bị chuột phá hoại nặng và
ảnh hưởng của thời tiết, sâu bệnh nên nhiều hộ dân đã chuyển đổi sang trồng các loại cây ăn
quả đặc sản như ổi Đông Dư, rau sạch…
- Về chăn nuôi:
Hiện nay trên địa bàn xã có 27.640 con gia súc gia cầm; đàn trâu bò có 69 con, đàn
lợn có 1555 con, lợn thịt có 1490 con, đàn gia cầm có 29.600 con, đàn chó có 1.450 con. Năm
2013 UBND xã đã chỉ đạo Ban Thú y thường xuyên kiểm tra, giám sát công tác phòng chống
dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn nên hoạt động chăn nuôi của các hộ dân vẫn
được duy trì và phát triển, không có dịch bệnh xảy ra. Tổ chức tiêm phòng vac – xin cúm gia
cầm đạt 95%, lở mồm long móng 90%, tiêm phòng vac - xin dịch tả ở lợn đạt 98%, vac - xin
tụ huyết trùng trâu, bò đạt 85%, tiêm vac – xin phòng bệnh dại ở chó mèo đạt 95%.
- Dịch vụ thương mại và tiểu thủ công nghiệp:
Trong thời gian qua trên địa bàn xã có tốc độ phát triển thương mại và tiểu thủ công
nghiệp nhanh, hoạt động thương mại, dịch vụ đã được người dân chú trọng, hiện nay trên toàn
xã đã có trên 450 hộ buôn bán hàng tạp hóa, lương thực thực phẩm, may da, may khâu, làm
nghề xay sát, chế biến thức ăn gia súc, gia cầm, một số hộ gia đình có phương tiện oto làm
dịch vụ du lịch, vận tải…
Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp tổ chức tốt nghiệm vụ cung cấp một số khâu dịch vụ đảm
23
bảo phục vụ xã viên sản xuất, kinh doanh.
Hội Nông dân, hội Phụ nữ, hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên tiếp vốn ngân hàng

chính sách về cho hội viên vay để phát triển kinh tế hộ gia đình cho trên 256 lượt người vay
vốn, với tổng số tiền vay là 6,1 tỷ đồng. Quỹ tín dụng Nhân dân đã phát huy hết khả năng vận
động vốn nhàn dỗi trong dân gửi vào Quỹ với số tiền trên 68,7 tỷ đồng và cho nhân dân vay
64,4 tỷ để sản xuất phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao đời sống của nhân dân.
2.3.3 Những thuận lợi, khó khăn trong xây dựng nông thôn mới
2.3.3.1 Thuận lợi
Đa Tốn có lợi thế về thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, đặc biệt là các loại nông
sản an toàn, nông sản sạch và các loại nông sản có giá trị kinh tê cao như cây ăn quả đặc sản,
hoa, cây cảnh. Một số mặt hàng nông sản mà thị trường đang có nhu cầu rất cao như: rau
xanh, quả tươi, thịt, trứng, hoa quả và cây cảnh. Tuy nhiên các loại sản phẩm sạch, nông sản
cao cấp và nông sản qua chế biến mới là các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của người tiêu
dùng. Do đó, trong quá trình xây dựng NTM, các cấp lãnh đạo xã đã có những phương án tiếp
cận với thị trường tiềm năng này và đã tổ chức quy hoạch phát triển các vùng sản xuất rau an
toàn, cây ăn quả, hoa cây cảnh và các vùng chăn nuôi tập trung.
Là một xã có vị trí địa lý thuận lợi, có lợi thế trong việc tiếp nhận là ứng dụng tiến bộ
khoa học – kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất. Đặc biệt, khi 2 tuyến giao thông huyết
mạch chạy qua Đa Tốn (tuyến đường bộ cao tốc Hà Nội – Hải Phòng và tuyến Hà Nội – Hưng
Yên) khi đưa vào khai thác sử dụng sẽ là cơ hội rất tốt và tạo ra diện mạo mới cho sự phát
triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã Đa Tốn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng ngành công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Đa Tốn có lực lượng lao động dồi dào, người dân cần cù, chịu khó, ham học hỏi và
mạnh dạn tiếp thu, ứng dụng khoa học – kỹ thuật và công nghệ mới. Địa phương lại có lợi thế
về tiếp thu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào nông nghiệp do gần
trường đại học Nông nghiệp Hà Nội là cơ sở nghiên cứu, đào tạo hàng đầu về khoa học kỹ
thuật trong nông nghiệp của nước ta.
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của xã đang được đầu tư xây dựng và hoàn thiện dần góp
phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Những năm gần đây, các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng của Đa
Tốn đang từng bước phát triển. Trên địa bàn xã có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển các ngành tiểu thủ công nghiệp như: cơ khí sửa chữa, sản xuất đồ gỗ thủ công mỹ nghệ,

sản xuất hàng sắt, sản xuất nhôm kính và nhiều nghề thủ công mỹ nghệ khác. Đây là tiền đề
quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong thời kì đẩy mạnh
CNH – HĐH nhất là khi 2 tuyến giao thông huyết mạch chạy qua Đa Tốn được đưa vào sử
dụng và khai thác sẽ tạo nhiều thuận lợi hơn cho xã.
Đa Tốn là xã có tiềm năng lớn về phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch do có điều
kiện thuận lợi về giao thông. Mặt khác, trên địa bàn xã có nhiều di tích lịch sử văn hóa được
xếp hạng, có tiềm năng cho việc phát triển du lịch tâm linh. Ngoài ra, điều kiện tự nhiên của
xã rất có tiềm năng cho việc phát triển du lịch sinh thái như: ẩm thực, nghỉ dưỡng, giải trí…
Bên cạnh đó, Đa Tốn có hệ thống chính trị vững mạnh, đội ngũ cán bộ địa phương
đoàn kết, nhiệt tình, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế và quản lý xã hội tốt. Đây là
yếu tố cơ bản nhưng rất cần thiết cho việc tổ chức, chỉ đạo và huy động nhân dân tham gia
vào các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là Chương trình mục tiêu Quốc gia về
xây dựng NTM của xã.
2.3.3.2 Khó khăn
Đa Tốn là xã có diện tích đất nhỏ nhưng dân số lại cao, bình quân diện tích ruộng đất
trên đầu người thấp và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quá trình đô thị hóa, bên cạnh đó, trong
24
thời gian gần đây, dịch chuột hoành hành phá hoại mùa màng khiến rất nhiều hộ dân phải bỏ
ruộng và chuyển sang các phương thức sản xuất khác. Vì thế, đất nông nghiệp của xã có xu
hướng giảm nhanh trong thời gian vừa qua và cả thời gian tới, điều đó tác động rất lớn đến
sinh kế của một bộ phận không nhỏ người dân trong xã.
Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn quá cao trong khi đất đai dành cho sản xuất
nông nghiệp lại đang biến động theo xu hướng giảm nhanh. Lao động trẻ có xu hướng thoát ly
nông nghiệp ngày càng nhiều gây nên tình trạng “già hóa và nữ hóa” lao động nông nghiệp của
xã. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động chưa cao đa số là chưa qua đào tạo là yếu tổ cản
trở đáng kể đến việc chuyển giao và ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công nghệ mới
trong sản xuất nông nghiệp.
Tình hình kinh tế của xã Đa Tốn trong những năm qua đạt tốc độ tăng trưởng cao
nhưng vẫn còn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch nên chưa thực sự bền vững.
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của xã đang được đầu tư xây dựng và hoàn thiện dần

song vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển mới trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô
thị hóa diễn ra với tốc độ rất nhanh và ảnh hưởng của lộ trình hội nhập quốc tế.
2.4 Đánh giá của người dân về chương trình nông thôn mới ở xã Đa Tốn, Gia Lâm, Hà
Nội
2.4.1 Khái quát quá trình xây dựng nông thôn mới tại xã Đa Tốn
Đa Tốn là một trong 15 xã được UBND thành phố Hà Nội chọn làm thí điểm xây
dựng NTM theo Quyết định số 1719/QĐ-UBND ngày 15/4/2010. Ngay sau khi được chọn
làm điểm, UBND huyện Gia Lâm đã chỉ đạo các phòng, ban, ngành liên quan phối hợp với tổ
công tác của BCĐ Thành phố ban hành Quyết định phê duyệt đề án xây dựng NTM của xã Đa
Tốn. Tại thời điểm phê duyệt, xã Đa Tốn cóa 7 tiêu chí đạt, 4 tiêu chí cơ bản đạt và 8 tiêu chí
chưa đạt. Tháng 7/2012, UBND huyện Gia Lâm đã phê duyệt quy hoạch NTM của xã Đa Tốn
tại Quyết định số 1871/QĐ-UBND ngày 02/07/2012.
Đảng bộ Chính quyền xã Đa Tốn xác định nhiệm vụ xây dựng NTM là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm nên đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc
và quyết liệt. Các ban, ngành, đoàn thể, bộ phận chuyên môn đã phối hợp chặt chẽ để thực
hiện nhiệm vụ đã đề ra. Đảng ủy, UBND xã đa ban hành các quyết định thành lập ban chỉ đạo,
ban quản lý dự án của xã, ban phát triển xây dựng NTM ở thôn, đồng thời tiến hành họp quán
triệt các văn bản chỉ đạo của TW, Thành phố, huyện và xã về xây dựng NTM, phân công
nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong ban và đề ra kế hoạch, mục tiêu cho từng tháng,
quý, định kỳ các thành viên họp giao ban báo cáo tiến độ thực hiện. Các ban ngành, đoàn thể
từ xã xuống thôn đã tập trung tăng cường công tác tuyên truyền tại các hội nghị, trên hệ thộng
truyền thanh của xã; triển khai in phun 2 cụm pano cỡ lớn với diện tích 50 m
2
, 35 tấm pano
loại nhỏ (0.8 x 1.2 m) và 40 khẩu hiệu chiến lược về tuyên truyền công tác xây dựng NTM;
hằng năm tổ chức các hội nghị chuyên đề và hội nghị tiếp xúc cử tri để triển khai, tuyên
truyền sâu rộng đến toàn thể nhân dân trong xã, tổ chức nhiều hội nghị tọa đàm, giao lưu biểu
diễn văn hóa nghệ thuật, TDTT để nhân dân hiểu hết nội dung và ý nghĩa của Chương trình
xây dựng NTM, nâng cao vai trò và trách nhiệm của mình và cùng tham gia với Đảng, Chính
quyền chung sức xây dựng NTM.

Sau 3 năm thực hiện Chương trình xây dựng NTM, xã Đa Tốn đã hoàn thành đạt
19/19 tiêu chí xây dựng NTM. Trong báo cáo “Kết quả thực hiện các chỉ tiêu xây dựng NTM
của xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm giai đoạn 2010 - 2013”, BCĐ Chương trình xây dựng NTM
của xã đã báo cáo các kết quả triển khai, tổ chức và thực hiện Chương trình, trong đó đề cập
đến kết quả thực hiện cụ thể 19 tiêu chí xây dựng NTM. Qua đó, BCĐ nhận định: “Qua 3
năm thực hiện hoàn thành đề án xây dựng mô hình NTM, diện mạo nông thôn xã Đa Tốn đã
có nhiều thay đổi, nhân dân phấn khởi và tin tưởng vảo sự lãnh đạo của Đảng và Chính
quyền địa phương. Cơ sở hạ tầng đã được đầu tư, nâng cấp, sản xuất nông nghiệp đã có
25

×