Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

đánh giá tình hình xây dựng nông thôn mới và xây dựng thiết kế không gian khu trung tâm xã lạc đạo – huyện văn lâm – tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.33 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông thôn có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia. Việt Nam là nước nông nghiệp, dân số sống ở khu vực nông
thôn chiếm gần 75% dân số cả nước. Vì vậy, phát triển nông nghiệp, nông thôn có ý
nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã
rất quan tâm đến phát triển nông nghiệp nông thôn. Để triển khai Nghị quyết số 26 -
NQ/TW ngày 05/08/2008 của BCH Trung ương, với chủ trương đưa nông thôn tiến
kịp với thành thị, xây dựng mục tiêu hiện đại hóa nông thôn Việt Nam vào cuối năm
2020; Chính phủ, các bộ ngành, địa phương đã ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ
đạo thực hiện như sau: Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/04/2009 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành bộ tiêu trí quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Quyết
định số 800/QĐ-Ttg ngày 04/06/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020”; Thông
tư số 07/2010/TT-BNNPTNT ngày 08/02/2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn hướng dẫn quy hoạch phát triển sản xuất cấp xã theo Bộ tiêu chí quốc gia
về nông thôn mới; Thông tư số 09/2010/TT-BXD ngày 04/08/2010 của Bộ Xây dựng
về Quy định việc lập nhiệm vụ, đồ án quy hoạch về quy hoạch quản lý xây dựng xã
nông thôn mới;… với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 có 50% số xã đạt được mục
tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Như vậy quy hoạch nông thôn mới là
nhiệm vụ lớn đặt ra cho các cấp đảng uỷ, chính quyền và toán thể nhân dân. Quy
hoạch xây dựng nông thôn mới là 1 trong 11 nội dung của Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới, với mục tiêu đặt ra là đạt yêu cầu tiêu chí số 1
của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Trong đó có 2 nội dung chính là: (i) quy
hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá,
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; và (ii) quy hoạch phát triển hạ tâng
kinh tế - kỹ thuật – môi trường; phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu
dân cư hiện có trên địa bàn xã.
1
1
Nhằm triển khai quy hoạch phát triển nông thôn mới huyện Văn Lâm – Hưng


Yên đến năm 2020, xã Lạc Đạo là 1 trong 25 xã được triển khai công tác quy hoạch.
Với các mục tiêu: cụ thể hoá quy hoạch tppngr thể phát triển kinh tế xã hội của huyện
Văn Lâm nói riêng và của tỉnh Hưng Yên nói chung, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội gắn với quá trình hiện đại hoá nông thôn về sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, phát triển đô thị, dịch vụ; nâng cao, đầu tư xây dựng mới các công trình hạ
tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; phát triển các khu dân cư mới; cải tạo, chỉnh trang xóm
làng cũ, đảm bảo không gian cảnh quan; góp phần giữ gìn các bản sắc văn hoá; bảo
vệ môi trường sinh thái của địa phương; phục vụ công tác quản lý, kiểm soát phát
triển.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai và xây dựng đã gặp một số khó khăn, đó
là: (i) việc thu hồi đất để xây dựng các công trình gặp nhiều khó khăn do bị khống
chế bới chỉ tiêu phân khai quy hoạch dử dụng đất; (ii) người dân có đất bị thu hồi
không ủng hộ do giá bồi thường và hỗ trợ thấp; (iii) việc thực hiện các hạng mục
công trình đòi hỏi phải huy động một nguồn vốn rất lớn; (iv) một số tiêu chí trong Bộ
tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới không phù hợp với đặc thù của vùng; (v)một số
quy hoạch bị chồng chéo và mâu thuẫn giữa quy hoạch xây dựng nông thôn mới với
các loại hình quy hoạch khác; (vi) một số công trình bị lãng phí do khi quy hoạch mới
chỉ quan tâm đến nhu cầu của nhân dân trong xã và thực trạng của xã mà chưa có sự
quan tâm đến các xã lân cận.
Từ những lý do nêu trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tình
hình xây dựng nông thôn mới và xây dựng thiết kế không gian khu trung tâm xã
Lạc Đạo – huyện Văn Lâm – tỉnh Hưng Yên” nhằm tìm ra những tồn tại trong quá
trình thực hiện để từ đó đề xuất giải pháp phù hợp góp phần đảm bảo mục tiêu quốc
gia về xây dựng nông thôn mới sớm được thực hiện.
2 Mục đích nghiên cứu
- Dựa trên các tiêu chí Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, đánh giá thực
trạng công tác xây dựng nông thôn mới tại xã Lạc Đạo, huyên Văn Lâm, tỉnh Hưng
yên trong thời gian vừa qua nhằm khẳng định những thành tựu của địa phương, đồng
2
2

thời tìm ra những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển nông thôn mới của
xã.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy hoạch xây
dựng nông thôn mới.
3 Yêu cầu
- Đánh giá đầy đủ các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, thực trạng phát triển
nông thôn và đưa ra định hướng phát triển về không gian, mạng lưới điểm dân cư, về
hạ tầng kỹ thuật, hạ tần xã hội thôi các tiêu chí của quy hoạch nông thôn mới.
- Nắm vững các văn bản do Nhà nước và địa phương ban hành có liên quan tới
quy hoạch xây dựng nông thôn mới
- Thu thập điều tra các tài liệu, số liệu, văn bản và bản đồ có liên quan. Đảm
bảo tính trung thực, chính xác, phản ánh đứng hiện trạng.
- Tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan về bảo vệ các công trình kỹ thuật,
công trình quốc phòng, di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh và bảo vệ môi
trường.
- Phù hợp với quy hoạch tổng thế phát triển kinh tế - xã hội và các quy hoạch
ngành của địa phương đã được phê duyệt.
- Các giải pháp đưa ra phải xuất phát từ kết quả nghiên cứu của đề tài, phù hợp
với thực tiễn của địa phương.
4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
- Phương án quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã Lạc Đạo, huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2011 – 2020.
- Các văn bản pháp lý có liên quan đến xây dựng nông thôn mới.
- Tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới tại xã Lạc Đạo,
huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Số liệu hiện trạng về đất đai, kinh tế xã hội.
- Tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới được điều tra
đến tháng 6/2014.

3
3
-
Chương 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quy hoạch xây dựng nông thôn mới
1.1.1 Cơ sở lý luận về quy hoạch xây dựng nông thôn mới
1.1.1.1.Khái niệm vùng nông thôn
Cho đến nay, chưa có một định nghĩa chuẩn xác được chấp nhận một cách rộng
rãi về nông thôn. Khi nói về nông thôn, thường thì người ta hay so sánh nông thôn
với thành thị. Có ý kiến cho rằng có thể dùng chỉ tiêu dân số, mật độ dân cư để phân
biệt nông thôn với thành thị. Có ý kiến đưa ra nên dùng chỉ tiêu trình độ kết cấu hạ
tầng, chỉ tiêu phát triển sản xuất hàng hoá, lại có ý kiến cho rằng nông thôn là vùng
mà ở đấy chủ yếu làm nông nghiệp. Tất cả những ý kiến trên đều đúng nhưng chưa
đầy đủ. Nếu dùng những chỉ tiêu riêng lẻ thì chỉ thể hiện được từng mặt của nông
thôn nhưng chưa thể bao trùm được khái niệm vùng nông thôn một cách đầy đủ.
Theo ý kiến phân tích của các nhà xã hội học và kinh tế học có thể đưa ra khái
niệm tổng quát về vùng nông thôn như sau: “Nông thôn là vùng khác với đô thị là ở đó
có một cộng đồng chủ yếu là nông dân, làm nghề chính là nông nghiệp; có mật độ dân
cư thấp hơn; có kết cấu hạ tầng kém phát triển hơn; có mức độ phúc lợi xã hội thua kém
hơn; có trình độ dân trí, trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa thấp hơn” (Vũ
Thị Bình và cs, 2006).
Tuy nhiên khái niệm trên cần được đặt trong điều kiện thời gian và không gian
nhất định của nông thôn mỗi nước, mỗi vùng.
1.1.1.2 Khái niệm phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn nhìn chung được diễn tả bao gồm các hành động và sáng
kiến được thực hiện để cải thiện mức sống khu vực ngoài đô thị, nông thôn, và các
làng bản xa xôi. Những cộng đồng này có thể được nhận diện bởi mật độ dân số thấp,
người dân sống trong các vùng không gian mở
4
4

Như vậy, phát triển nông thôn là hệ thống đảm bảo sự phát triển tổng hợp kinh
tế, xã hội, văn hóa và bảo vệ môi trường tại khu vực nông thôn nhằm vào việc cải
thiện mức sống, cả tinh thần và vật chất của dân cư nông thôn. Tùy theo góc độ xem
xét, phát triển nông thôn có thể được diễn giải theo những cách khác nhau. Góc độ
xem xét và diễn giải nội dung phát triển nông thôn tương ứng đồng thời phục vụ triển
khai thực hiện phát triển nông thôn theo các cách, mục tiêu khác nhau (Viện quy
hoạch và thiết kế nông nghiệp, 2010).
Theo lĩnh vực phát triển, phát triển nông thôn bao gồm các lĩnh vực phát triển
được xem xét riêng biệt, mặc dù trong thực tế, các lĩnh vực đó có mối liên hệ, tác
động qua lại lẫn nhau. Các lĩnh vực đó bao gồm: Quản lý các nguồn tài nguyên (tự
nhiên - đất đai, nguồn nước, thảm thực vật, con người, tổ chức, ); Phát triển kinh tế
(nông nghiệp, phi nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất hàng
hóa, chế biến, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển thị trường, ); Nghiên cứu và
chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật (giống cây trồng, vật nuôi, chế biến, bảo quản,
quản lý, ); Phát triển cơ sở hạ tầng (hệ thống đường giao thông, hệ thống công trình
thủy lợi, hệ thống điện, ); Văn hóa - xã hội (giáo dục, y tế, mức độ nghèo đói, );
Chính sách (đất đai, tín dụng, đầu tư, ); Phòng chống giảm nhẹ thiệt hại do thiên
tai,
Theo phạm vi lãnh thổ, phát triển nông thôn có thể được xem xét bao gồm phát
triển nông thôn cho cả nước, theo vùng, tỉnh, huyện, xã và cả thôn ấp. Nó còn có thể
được xem xét dưới góc độ quản lý hành chính Nhà nước, có cấp trung ương và cấp
địa phương, khi đó cấp địa phương có thể bao gồm các cấp khác nhau theo chiều từ
trên xuống là cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và cuối cùng là thôn ấp. Tham gia thực hiện
và hỗ trợ phát triển nông thôn, bên cạnh đó, có thể là hệ thống không chính thức gồm
các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau tại khu
vực nông thôn (Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, 2010).
Theo cách tiếp cận phát triển, phát triển nông thôn có thể bao gồm tiếp cận
phát triển thông thường từ trên xuống; Tiếp cận phát triển từ cộng đồng, từ người dân
đi lên và tiếp cận phát triển có kết hợp từ trên xuống với từ dưới đi lên. Mỗi cách tiếp
5

5
cận có thể có lợi thế riêng. Tuy vậy tiếp cận thông thường, tiếp cận từ trên xuống
đang bộc lộ nhiều nhược điểm, không còn tạo ra động lực cho phát triển nông thôn,
nhất là việc áp dụng tại cấp cơ sở địa phương. Tiếp cận từ dưới lên coi trọng vai trò
của cộng đồng, cho rằng cộng đồng khi được nâng cao năng lực, được trao quyền có
thể phát huy vai trò làm chủ, quản lý các nguồn lực từ huy động các nguồn lực trong
và ngoài cộng đồng phục vụ việc tổ chức thực hiện các hoạt động cơ bản, thiết yếu,
quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản tốt hơn (Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp,
2010)
Một khái niệm khác về phát triển nông thôn được đưa ra: “Phát triển nông thôn là
một quá trình thay đổi bền vững có chủ ý về xã hội, kinh tế, văn hóa và môi trường
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân địa phương”.
Để diễn đạt định nghĩa đầy đủ cần lưu ý đặc biệt những điểm sau:
- Quá trình: Phát triển nông thôn không phải là một công việc làm trong một
thời gian ngắn. Nó cần phải được theo đuổi trong một thời gian dài nhiều năm và có
chủ ý.
- Thay đổi: Phát triển nông thôn là sự thay đổi có chủ ý để làm cho mọi việc tốt
hơn lên.
- Các cụm từ: Xã hội, kinh tế, văn hóa, môi trường – chỉ ra phạm vi của chủ đề
phát triển và cần phải nhìn nó một cách toàn diện.
- Bền vững: Quá trình phát triển phải bền vững, sự phát triển của ngày hôm
nay không ảnh hưởng đến yêu cầu phát triển của ngày mai.
- Nâng cao đời sống của người dân địa phương: Một số chương trình phát triển
“địa phương” trước đây được khuyến khích do nhu cầu quốc gia, hơn là nhu cầu của bản
thân người dân địa phương. Nhu cầu quốc gia tất nhiên có thể đáp ứng thông qua phát
triển nông thôn và bất cứ sự đáp ứng thành công nào nhu cầu địa phương cũng sẽ đóng
góp cho sự phồn thịnh quốc gia (Vũ Thị Bình và cs, 2006).
1.1.1.3 Mối liên hệ giữa phát triển nông thôn, xây dựng nông thôn mới và chương trình
nông thôn mới
a. Vị trí và phạm vi của PTNT

6
6
Như được phân tích ở trên, PTNT bao gồm các hoạt động đa ngành nhằm mục
tiêu cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn. Theo cách đánh giá
phục vụ các mục tiêu khác nhau, nội dung liên quan trong PTNT cũng thay đổi khác
nhau tương ứng. Tuy vậy nhìn chung, nội dung PTNT là rất rộng lớn, có thể bao gồm
các hoạt động đa ngành, liên quan đến nhiều cấp độ khác nhau diễn ra chủ yếu tại khu
vực nông thôn.
Như vậy tất cả các hoạt động nhằm đến mục tiêu cuối cùng, có tác động đến
việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của bộ phận dân cư, của các cộng đồng
nông thôn một cách bền vững, đều có thể coi là hoạt động, nội dung của PTNT.
b. Vị trí và phạm vi của xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới có thể tạm coi là một bộ phận, hợp phần của tổng thể
PTNT. Nếu căn cứ vào diễn giải ngôn từ, nông thôn mới sẽ khác biệt với nông thôn
hiện nay hoặc với nông thôn trước kia. Sự khác biệt đó hàm ý sự thay đổi theo hướng
tích cực của vùng nông thôn. Các thay đổi có thể về bộ mặt nông thôn thể hiện ra bên
ngoài nói chung, nhưng cũng có thể là các thay đổi về chất lượng, về tinh thần tạo ra
động lực thúc đẩy PTNT tại vùng phạm vi địa lý nhất định. Nếu PTNT là vấn đề phát
triển chung, có sự thống nhất tương đối và có thể chia sẻ giữa các nước khác nhau
trên thế giới, thì xây dựng nông thôn mới có tính chất đặc thù. Không nhiều nước sử
dụng và phát triển nội dung này thành công trong PTNT.
Xây dựng nông thôn mới tập trung vào tổ chức thực hiện các nội dung PTNT
tại cấp cơ sở. Việc quản lý và thực hiện trên cơ sở cấp quản lý chính quyền tiếp xúc
trực tiếp với cộng đồng dân cư. Nó có giới hạn về phạm vi địa lý với vùng diện tích
tương đối nhỏ, tương ứng với phạm vi sinh sống của mỗi cộng đồng dân cư nông
thôn. Xây dựng nông thôn mới là một quá trình liên tục, lâu dài. Các nội dung sẽ bao
trùm tất cả các hoạt động PTNT tại cấp cơ sở. Có nhiều bên với vai trò khác nhau sẽ
tham gia vào quá trình xây dựng nông thôn mới, đó là người dân, Nhà nước, các tổ
chức và cá nhân khác.
c. Vị trí và phạm vi của chương trình nông thôn mới

Xây dựng nông thôn mới là việc tập trung thực hiện các nội dung PTNT tại cấp
7
7
cơ sở. Trong đó có sự tham gia của nhiều bên liên quan khác nhau. Sự tham gia của
Nhà nước có vai trò rất quan trọng để có thể thúc đẩy PTNT cấp cơ sở ở vùng nông
thôn trên phạm vi cả nước, đưa đến một mặt bằng chung, nhất là có thể tạo ra động
lực cho sự phát triển mạnh mẽ về chất trong các giai đoạn tiếp theo.
Như vậy, chương trình nông thôn mới do Nhà nước khởi xướng và thiết kế
chương trình, trong đó có phần hỗ trợ quan trọng và phù hợp của Nhà nước nhắm đến
việc xây dựng nông thôn mới. Chương trình nông thôn mới thường có khung thời
gian trong giai đoạn 5-10 năm đầu của quá trình xây dựng nông thôn mới.
1.1.2 Cơ sở pháp lý về quy hoạch xây dựng nông thôn mới
- Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008, Hội nghị lần thứ 7 của
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X về “nông nghiệp, nông
dân, nông thôn”;
- Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP của Chính phủ ban hành chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW;
- Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới;
- Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2010 – 2020;
- Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày 13 tháng
4 năm 2011 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ
tài chính về việc Hướng dẫn một số nội dung thực hiện quyết định số 800/QĐ-TTG
ngày 4 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020;
- Thông tư liên tịch số 51/2013/TTLT- BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày
02/12/2013 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ
tài chính về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số

26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC;
8
8
- Thông tư liên tịch số: 13/2011/TTLT-BXD-BNNPTNT-BTN&MT ngày 28
tháng 10 năm 2011 của liên Bộ: Xây dựng, Nông nghiệp & PTNT, Tài nguyên và
Môi trường về việc quy định việc lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch xây dựng xã
nông thôn mới;
- Thông tư số 41/2013/TT-BNNPTNT ngày 04/10/2013 về Hướng dẫn thực
hiện Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới;
- Thông tư số 17/2010/TT-BXD ngày 30/09/2010 về việc hướng dẫn xác định
và quản lý chi phí quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thị;
- Thông tư số 09/2010/TT-BXD ngày 04/08/2010 về việc quy định việc lập
nhiệm vụ, đồ án quy hoạch và quản lý quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới;
- Thông tư số 31/2009/TT-BXD ngày 10/09/2009 của Bộ Xây dựng về Ban
hành Tiêu chuẩn quy hoạch xây dựng nông thôn mới;
- Thông tư số 32/2009/TT-BXD ngày 10/09/2009 của Bộ Xây dựng về Ban
hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây dựng nông thôn;
- Sổ tay hướng dẫn lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới của Bộ xây dựng
ban hành năm 2010
- Quyết định 193/QĐ-TTg ngày 02/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ Phê
duyệt chương trình rà soát quy hoạch xây dựng nông thôn mới
- QCVN 14: 2009/BXD, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia –Quy hoạch xây dựng
nông thôn Vietnam Building Code-Rural Residental Planning, ban hành theo thông tư
số 32/2009/TT-BXD ngày 10/9/2009; Tiêu chuẩn quy hoạch xây dựng nông thôn
được ban hành theo thông tư số 31/2009/TT-BXD ngày 10/9/2009;
- Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 hướng dẫn thực hiện bộ
tiêu chí quốc gia về nông thôn mới;
- Quyết định số 2933/BGTVT-KHĐT ngày 11/5/2009 của Bộ Giao thông vận tải
hướng dẫn tiêu chí nông thôn mới trong lĩnh vực giao thông nông thôn;
9

9
- Quyết định số 03/2008/QĐ-BXD ngày 31/3/2008 của Bộ Xây dựng về việc
quy định nội thuyết minh, nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng; số 15/2008/QĐ-
BXD về việc ban hành định mức chi phí quy hoạch xây dựng
- Công văn số 1416/BNN-KTHT, ngày 27/05/2009 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn về việc hướng dẫn lập Đề án thí điểm xây dựng nông thôn mới
cấp xã;
- Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện Văn Lâm lần thứ 9;
- Quyết định số 208/2010/QĐ-Ttg ngày 13/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ
về việc Phê duyệt định hướng quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên;
- Quyết định số 24/2005/QĐ-UBND ngày 23/08/2005 của UBND tỉnh Hưng
Yên về việc Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Văn Lâm
giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020;
- Căn cứ Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Văn Lâm đến
năm 2020 và định hướng đến năm 2030;
- Căn cứ Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu
(2011-2015) huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên;
- Căn cứ Quy hoạch tổng thể phát triển thuỷ lợi huyện Văn Lâm giai đoạn
2010-2020 và định hướng đến năm 2030;
- Căn cứ đề án phát triển giao thông huyện Văn Lâm giai đoạn 2010-2020;
- Căn cứ văn bản số 1141/UBND-QLDL ngày 29/03/2011 về việc triển khai lập
quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quy hoạch chi tiết 1/2000 xã Lạc Đạo, huyện
Văn Lâm;
- Căn cứ quyết định số 2798/QĐ-UBND ngày 04/04/2011 về việc thành lập
Ban quản lý dự án Quy hoạch xây dựng nông thôn mới huyện Văn Lâm;
- Căn cứ báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2010 UBND
xã Lạc Đạo;
- Căn cứ các văn bản tài liệu về dân số đất đai xã Lạc Đạo;
- Các tiêu chuẩn quy phạm có liên quan.

10
10
1.2 Cơ sở thực tiễn về quy hoạch xây dựng nông thôn mới
1.2.1 Tình hình quy hoạch phát triển nông thôn trên thế giới
Phát triển nông nghiệp để xây dựng một nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay,
từ các góc cạnh khác nhau, đang là mối quan tâm chung của cả cộng đồng thế giới. Kinh
nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về vấn đề này là bài học cho Việt Nam.
a. Mỹ: phát triển ngành “kinh doanh nông nghiệp”
Mỹ là nước có điều kiện tự nhiên cực kỳ thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Vùng
Trung Tây của nước này có đất đai màu mỡ nhất thế giới. Lượng mưa vừa đủ cho hầu
hết các vùng của đất nước; nước sông và nước ngầm cho phép tưới rộng khắp cho những
nơi thiếu mưa.
Bên cạnh đó, các khoản vốn đầu tư lớn và việc tăng cường sử dụng lao động có trình độ
cao cũng góp phần vào thành công của ngành nông nghiệp Mỹ. Điều kiện làm việc của
người nông dân làm việc trên cánh đồng rất thuận lợi: máy kéo với các ca bin lắp điều
hòa nhiệt độ, gắn kèm theo những máy cày, máy xới và máy gặt có tốc độ nhanh và đắt
tiền. Công nghệ sinh học giúp phát triển những loại giống chống được bệnh và chịu hạn.
Phân hóa học và thuốc trừ sâu được sử dụng phổ biến, thậm chí, theo các nhà môi
trường, quá phổ biến. Công nghệ vũ trụ được sử dụng để giúp tìm ra những nơi tốt nhất
cho việc gieo trồng và thâm canh mùa màng. Định kỳ, các nhà nghiên cứu lại giới thiệu
các sản phẩm thực phẩm mới và những phương pháp mới phục vụ việc nuôi trồng thủy,
hải sản, chẳng hạn như tạo các hồ nhân tạo để nuôi cá.
Ngành nông nghiệp Mỹ đã phát triển thành một ngành “kinh doanh nông nghiệp”, một
khái niệm được đặt ra để phản ánh bản chất tập đoàn lớn của nhiều doanh nghiệp nông
nghiệp trong nền kinh tế Mỹ hiện đại. Kinh doanh nông nghiệp bao gồm rất nhiều doanh
nghiệp nông nghiệp và các cơ cấu trang trại đa dạng, từ các doanh nghiệp nhỏ một hộ
gia đình cho đến các tổ hợp rất lớn hoặc các công ty đa quốc gia sở hữu những vùng đất
đai lớn hoặc sản xuất hàng hóa và nguyên vật liệu cho nông dân sử dụng. Cũng giống
như một doanh nghiệp công nghiệp tìm cách nâng cao lợi nhuận bằng việc tạo ra quy mô
lớn hơn và hiệu quả hơn, nhiều nông trại Mỹ cũng ngày càng có quy mô lớn hơn và

củng cố hoạt động của mình sao cho linh hoạt hơn.
11
11
Sự ra đời ngành kinh doanh nông nghiệp vào cuối thế kỷ XX đã tạo ra ít trang trại hơn,
nhưng quy mô các trang trại thì lớn hơn nhiều. Đôi khi được sở hữu bởi những cổ đông
vắng mặt, các trang trại mang tính tập đoàn này sử dụng nhiều máy móc hơn và ít bàn
tay của nông dân hơn. Vào năm 1940, Mỹ có 6 triệu trang trại và trung bình mỗi trang
trại có diện tích khoảng 67 ha, đến cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, số trang trại chỉ còn
2,2 triệu nhưng trung bình mỗi trang trại có diện tích 190 ha. Cũng chính trong khoảng
giai đoạn này, số lao động nông nghiệp giảm rất mạnh - từ 12,5 triệu người năm 1930
xuống còn 1,2 triệu người vào cuối thập niên 90 của thế kỷ trước - dù cho dân số của Mỹ
tăng hơn gấp đôi. Và gần 60% trong số nông dân còn lại đó đến cuối thế kỷ này chỉ làm
việc một phần thời gian trên trang trại; thời gian còn lại họ làm những việc khác không
thuộc trang trại để bù đắp thêm thu nhập cho mình.
Hiện nay, trong cuộc sống hiện đại ồn ào, đầy sức ép, người Mỹ ở vùng đô thị hay ven
đô hướng về những ngôi nhà thô sơ, ngăn nắp và những cánh đồng, phong cảnh miền
quê truyền thống, yên tĩnh. Tuy nhiên, để duy trì “trang trại gia đình” và phong cảnh
làng quê đó thực sự là một thách thức (Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, 2010).
b. Nhật Bản: Mỗi làng một sản phẩm
Phong trào mỗi làng một sản phẩm (viết tắt OVOP: One village one product)
được một nhóm nông dân ở thị trấn Oyama, quận Oita, Nhật Bản khởi xướng từ
những năm 60 thế kỷ trước. “Hãy trồng mận và hạt dẻ rồi đi nghỉ ở Hawaii” là khẩu
hiệu thôi thúc người dân Oita hành động. Sau mấy năm chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
thay đổi sản phẩm đã tạo nên sự thành công lớn của Hợp tác xã Oyama.
Là một tỉnh nằm ở phía Tây Nam Nhật Bản, Oita cách Thủ đô Tokyo khoảng
500 km. Cuối những năm 70, khi Nhật Bản đã cơ bản thực hiện xong công cuộc công
nghiệp hóa đất nước, các ngành công nghiệp đã được hình thành và phát triển ở khu
vực thành phố tạo nên sự thu hút mạnh mẽ về lao động từ các vùng nông thôn, trong
đó có Oita. Thế hệ trẻ sau khi tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề đều
không muốn trở về vùng nông thôn nơi họ đã được sinh ra và lớn lên mà muốn ở lại

các thành phố và trung tâm công nghiệp. Điều này đã dẫn đến tình trạng hoang tàn và
giảm dân số nghiêm trọng ở vùng nông thôn nói chung và Oita nói riêng – hầu như
12
12
chỉ còn người già và con trẻ ở những khu vực này. Đứng trước tình hình đó, ngay sau
khi được bổ nhiệm làm người đứng đầu tỉnh Oita, ngài Morihiko Hiramatsu đã đề
xuất một loạt sáng kiến để khôi phục lại kinh tế của Oita, trong đó có Phong
trào “Mỗi làng một sản phẩm”.
Hợp tác xã nông nghiệp Oyama được trưng bày riêng một khu vực gọi là
“Konohana Garten” và bán với hình thức đưa hàng đến giao hàng ngày cho hệ thống
các siêu thị trên toàn đất nước là một giải pháp thị trường mang tính sáng tạo cao.
Chất lượng chính là yếu tố thành công của phong trào, yếu tố này không chỉ thể hiện
ở bản thân chất lượng của hàng hóa được kết tinh ở công nghệ chế biến và bảo quản
đã được giám định kỹ lưỡng bởi các cơ quan chức năng cũng như bởi ý thức sản xuất
hàng hóa chất lượng cao trong hành vi của người Nhật Bản mà còn thể hiện rất rõ ở
nghệ thuật bao bì, đóng gói, luôn bắt mắt và thuận tiện cho việc vận chuyển, sử dụng
của người tiêu dùng. Ngoài hệ thống cửa hàng tại các siêu thị, các sản phẩm của Hợp
tác xã nông nghiệp Oyama còn được bán ở hệ thống các trạm nghỉ dọc đường.
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung ứng, Phong trào
cũng đề cao vai trò của việc nghiên cứu phát triển và đào tạo nguồn nhân lực. Vì đây
chính là yếu tố thúc đẩy sự phát triển một cách bền vững. Và một yếu tố khác khiến
cho Phong trào OVOP thành công tại Nhật Bản đến như vậy là vì Phong trào đã hình
thành nên cho người sản xuất tinh thần lao động với ý thức rất cao về sản phẩm của
mình làm ra.
Năm 2003, thu nhập bình quân đầu người của người dân Oita đạt 22.800
USD/người/năm, cao gấp 2 lần so với thời điểm bắt đầu triển khai Phong trào. Giá trị
sản phẩm nông nghiệp bình quân đầu người cũng cao gấp đôi. Trong đó sản phẩm
chanh Kabosu của tỉnh này vươn lên chiếm 100% thị phần trong nước. Phong trào đã
nhanh chóng lan ra nhiều nước ở châu Á, châu Phi như: Trung Quốc, Thái Lan, Ấn
Độ, Tuynidi.

Có 3 nguyên tắc cơ bản để phát triển Phong trào OVOP: Hành động địa
phương nhưng tư duy toàn cầu; tự tin sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực. Mỗi địa
phương, tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mình, lựa chọn ra những sản
13
13
phẩm độc đáo, mang đậm nét đặc trưng của địa phương để phát triển. Yếu tố thành
công chủ yếu của Phong trào OVOP là việc nhận biết những nguồn lực chưa được sử
dụng tại địa phương trước khi vận dụng nguồn lực một cách sáng tạo để cung cấp
trên thị trường. Trong Phong trào ở Oita, người ta có thể tìm ra những sản phẩm rất
bình dị trong cuộc sống như nấm Shitake và các sản phẩm từ sữa bò, hàng gỗ mỹ
nghệ ở thị trấn Yufuin, cam, cá khô ở làng Yonouzu, chè và măng tre ở làng
Natkatsu…Trong 20 năm kể từ năm 1979-1999, Phong trào "Mỗi làng một sản
phẩm" đã tạo ra được 329 sản phẩm với tổng doanh thu là 141 tỷ yên/năm (trên 1.1 tỷ
USD hay 19.000 tỷ đồng Việt Nam) (Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, 2010).
c. Trung Quốc: Xây dựng nông thôn mới từ 3 chương trình phát triển nông nghiệp,
nông thôn
Trung Quốc là nước có diện tích rộng lớn với dân số đông và được coi là cái
nôi của nền nông nghiệp thế giới. Từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Trung
Quốc đã chọn hướng phát triển nông thôn bằng cách phát huy những công xưởng
nông thôn thừa kế được của những công xã nhân dân trước đây, thay đổi sở hữu và
phương thức quản lý để phát triển mô hình “công nghiệp hưng trấn”. Các lĩnh vực
như chế biến nông lâm sản, hàng công nghiệp nhẹ, máy móc nông cụ phục vụ sản
xuất nông nghiệp đang ngày càng được đẩy mạnh.
Nguyên tắc của Trung Quốc là quy hoạch đi trước, định ra các biện pháp
thích hợp cho từng nơi, đột phá trọng điểm, làm mẫu đường. Chính phủ hỗ trợ,
nông dân xây dựng. Với mục tiêu “ly nông bất ly hương” Trung Quốc đã thực hiện
đồng thời 3 chương trình phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Chương trình đốm lửa: Điểm khác biệt của chương trình này là trang bị cho
hàng triệu nông dân các tư tưởng, tiến bộ khoa học, bồi dưỡng nhân tài đốm lửa, nâng
cao tố chất nông dân. Sau 15 năm thực hiện, chương trình đã bồi dưỡng được 60 triệu

thanh niên nông thôn thành một đội ngũ cán bộ khoa học cốt cán, tạo ra một động
lực tiềm năng thúc đẩy nông thôn phát triển theo kịp với thành thị.
- Chương trình được mùa: chương trình này giúp đại bộ phận nông dân áp
dụng khoa học tiên tiến, phương thức quản lý hiện đại để phát triển nông nghiệp,
14
14
nông thôn. Trong 15 năm sản lượng lương thực của Trung Quốc đã tăng lên 3 lần so
với những năm đầu 70. Mục tiêu phát triển nông nghiệp là sản xuất các nông sản
chuyện dụng, phát triển chất lượng và tăng cường chế biến nông sản phẩm.
- Chương trình giúp đỡ vùng nghèo: mục tiêu là nâng cao mức sống của các
vùng nghèo, vùng miền núi, dân tộc ít người; mở rộng ứng dụng thành tựu khoa học
tiên tiến, phổ cập tri thức khoa học công nghệ và bồi dưỡng cán bộ khoa học cốt cán
cho nông thôn xa xôi, tăng sản lượng lương thực và thu nhập của nông dân. Sau khi
thực hiện chương trình, ở những vùng này, số dân nghèo giảm từ 1,6 triệu người
xuống còn 5 vạn người, diện nghèo khó giảm từ 47% xuống còn 1,5%
Tại hội nghị toàn thể Trung Ương lần thứ 5 khóa XVI của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, năm 2005, lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra quy hoạch “Xây dựng nông
thôn mới xã hội chủ nghĩa”. Đây là kế hoạch xây dựng mới đã được Trung Quốc đưa
vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm lần thứ XI (2006-2010). Mục tiêu của
quy hoạch là: “sản xuất phát triển, cuộc sống dư dật, làng quê văn minh, thôn xã sạch
sẽ, quản lý dân chủ”. Xây dựng nông thôn mới Trung Quốc tạo nên một hình ảnh mới
đầy ấn tượng về một “nông thôn Trung Quốc” đầy vẻ đẹp tráng lệ. Tuy vậy, dù với rất
nhiều cố gắng, phát triển nông thôn cấp cơ sở và nông thôn mới tại Trung Quốc cũng
chưa đạt được các mục tiêu đề ra để thúc đẩy phát triển khu vực nông thôn. Mô hình
nông thôn mới của Trung Quốc chưa được coi là thành công khi hiện nay, khoảng
cách giữa khu vực thành thị và nông thôn vẫn đang ngày càng rộng ra. Còn tồn tại
nhiều vấn đề trong khu vực nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc (Viện quy hoạch và
thiết kế nông nghiệp, 2010).
d. Thái Lan: Sự trợ giúp mạnh mẽ của nhà nước
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn

chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông
nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò của cá nhân
và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào học tập,
nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và các hoạt
15
15
động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; tăng cường công tác bảo
hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp; giảm nguy cơ
rủi ro và thiết lập hệ thống bảo hiểm rủi ro cho nông dân.
Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức cạnh tranh
với các hình thức, như tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy mạnh công
tác tiếp thị; phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học và hợp lý, từ
đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi và kịp thời phục hồi
những khu vực mà tài nguyên đã bị suy thoái; giải quyết những mâu thuẫn có liên
quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm, thủy hải sản, đất đai, đa dạng sinh học, phân
bổ đất canh tác. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng, Nhà nước đã có chiến lược trong
xây dựng và phân bố hợp lý các công trình thủy lợi lớn phục vụ cho nông nghiệp. Hệ
thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên toàn quốc, góp phần
nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng khác trong sản xuất nông nghiệp.
Chương trình điện khí hóa nông thôn với việc xây dựng các trạm thủy điện vừa và
nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước….
Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chính phủ Thái Lan đã tập trung
vào các nội dung sau: Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công nghiệp nông
thôn, đồng thời cũng xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ năng truyền thống,
nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và tiếp thị song song với việc cân đối nhu
cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng nông
nghiệp, thủy, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến
nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất là các nước công nghiệp phát
triển (Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, 2010).

1.2.2 Tình hình quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam và tỉnh Điện Biên
1.2.2.1. Tình hình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Sau 03 năm triển khai Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, hầu hết
các tỉnh đã tích cực triển khai và đạt được nhiều kết quả tốt, thể hiện ở những mặt
sau:
16
16
1. Về bộ máy tổ chức triển khai: Đã hình thành bộ máy chỉ đạo và tổ chức thực
hiện Chương trình từ Trung ương đến các xã. Tuy nhiên, vấn đề nổi lên hiện nay là
10/63 tỉnh, thành phố (Yên Bái, Tp. Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Lâm Đồng, Bà Rịa-
Vũng Tàu, Bình Dương, Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ) còn tồn tại hình thức tổ giúp việc
Ban Chỉ đạo tỉnh. Bộ máy giúp việc Ban Chỉ đạo cấp huyện chủ yếu là cán bộ kiêm
nhiệm của phòng kinh tế hoặc phòng hạ tầng cấp huyện nên công tác tham mưu cho Ban
Chỉ đạo còn hạn chế.
Bên cạnh đó, một số Bộ ngành như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ
Công An, Bộ Y tế… đã thành lập Ban Chỉ đạo và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng
thành viên để chỉ đạo thực hiện chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới theo
nhiệm vụ đã được Thủ tướng phân công tại Quyết định số 800/QĐ-TTg. Tuy nhiên, hoạt
động của Ban Chỉ đạo của các Bộ còn hạn chế, chưa rõ nét và cơ chế báo cáo kết quả
thực hiện còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu gây khó khăn cho việc tổng hợp, báo
cáo triển khai của đơn vị thường trực BCĐ.
2. Công tác chỉ đạo, điều hành: Trong 3 năm qua Thường trực Ban Chỉ đạo và
các Thành viên đã giành thời gian đi kiểm tra ở các địa phương được phân công, tổ
chức thành công hội nghị sơ kết 3 năm triển khai tại 2 vùng. Đã hoàn thành cơ bản hệ
thống các văn bản hướng dẫn triển khai chương trình; một số Ban Chỉ đạo các tỉnh,
thành phố Thái Bình, Vĩnh Phúc, Tp.Hà Nội, Ninh Bình, Hà Tĩnh và An Giang…đã vào
cuộc tích cực và đã tạo ra chuyển biến sâu rộng ở địa phương; Các đoàn thể chính trị - xã
hội đã tham gia tích cực hơn và đã có những kết quả ban đầu. Tuy vậy, tổ chức bộ
máy giúp việc Ban Chỉ đạo còn chưa thống nhất, chưa coi trọng chất lượng; hoạt
động của một số Ban Chỉ đạo còn hạn chế như ở Cao Bằng, Sơn La, Yên Bái, Lạng

Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hải Dương, Nghệ An, Quảng Ngãi, Ninh Thuận, Bình
Thuận, Tây Ninh, Phú Yên…
3. Về công tác đào tạo, tập huấn: Công tác tập huấn cho cán bộ triển khai chương
trình đã được các cấp, ngành coi trọng. Đến nay đã ban hành được khung chương trình
và bộ tài liệu đào tạo tập huấn cho cán bộ. Trong 3 năm qua, các địa phương đã phối hợp
17
17
với Văn phòng điều phối Trung ương và các đơn vị liên quan xây dựng kế hoạch, tổ
chức được 700 lớp tập huấn cho hơn 50 ngàn lượt cán bộ cấp huyện, xã và đã hình thành
được đội ngũ tiểu giáo viên ở các tỉnh, thành phố. Ngoài ra, một số đơn vị trong và ngoài
Bộ như Ban Dân vận, Đoàn Thanh niên Bộ, Công đoàn ngành, Văn phòng Đảng uỷ
Bộ… tổ chức được 12 lớp tập huấn về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về
xây dựng nông thôn mới cho các cán bộ chủ chốt làm nòng cốt cho việc tổ chức tập
huấn chuyên sâu ở cơ sở.
4. Về công tác quy hoạch: So với mục tiêu, mức đạt chung về tỷ lệ các xã xong
quy hoạch nông thôn mới chung cả nước mới đạt 68%, trong đó cao nhất là Bắc Trung
Bộ đạt 88%; Đồng bằng sông Hồng đạt 79%; Đồng bằng sông Cửu Long đạt 67%, Tây
Nguyên đạt 61%, Miền núi phía Bắc đạt 54%; Đông Nam Bộ đạt 41%; Nam Trung Bộ
đạt 28%. Vùng miền núi phía Bắc chưa triển khai công tác quy hoạch (Cao Bằng - 63
xã; Sơn La - 28 xã; Bắc Giang - 16 xã và Lai Châu - 4 xã). Đồng thời, chất lượng công
tác quy hoạch chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt là quy hoạch nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn xã thiếu tính kết nối vùng, nội dung còn dàn trải,
chưa dựa vào thế mạnh của địa phương.
5. Về lập đề án xây dựng nông thôn mới cấp xã: So với mục tiêu, đến nay mới
có 4.017/9084 xã (chiếm 44% số xã) đã phê duyệt xong đề án. Trong đó cao nhất là
Đồng bằng sông Hồng đạt tỷ lệ 52%; thấp nhất là Đồng bằng sông Cửu Long 10% và
Đông Nam bộ là 6%. Ngoài ra đề án chưa bám sát quy hoạch của xã, nặng về tính
toán đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chưa chú trọng tới sản xuất, môi trường, văn
hoá , giải pháp thực hiện còn thiếu tính thực tiễn.
6. Về kết quả xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cấp xã: Trong 3 năm qua các

địa phương đã đạt được những kết quả sau:
- Về giao thông nông thôn: Trong thời gian qua, kiên cố hóa đường giao thông
nông thôn đã trở thành phong trào rộng khắp ở các địa phương và các vùng trong cả
nước nên đã và đang triển khai được gần 5.000 công trình, với khoảng 64.000 km. Trong
điều kiện nguồn lực hạn chế, nhiều địa phương đã có những chính sách hỗ trợ phù hợp
18
18
nên đã huy động được nhiều hơn sự tham gia của người dân và cộng đồng, dần hình
thành phong trào về kiên cố hoá đường giao thông nông thôn…
- Về thủy lợi: Thời gian qua các địa phương đã cải tạo và nâng cấp được gần
1000 công trình, trong đó đã kiên cố hóa, nạo vét được 7.000 km kênh mương, xây
dựng tu bổ sửa chữa, nâng cấp được hàng ngàn công trình thủy lợi gồm bờ bao, cống,
trạm bơm phục vụ tưới tiêu.
- Công trình nước sạch, vệ sinh môi trường và công trình công cộng: Thực hiện
chương trình MTQG nước sạch và vệ sinh môi trường, các địa phương đã xây dựng,
nâng cấp được hơn 1.000 công trình nước sạch tập trung, 500 bãi thu gom rác thải,
1200 cống rãnh thoát nước thải vệ sinh. Ngoài ra, các địa phương đã sửa chữa, nâng
cấp 480 trường học các cấp; xây dựng, nâng cấp 39 trụ sở xã; xây dựng 516 nhà văn
hóa thôn, xã; xây dựng 50 trạm y tế xã; xây dựng 120 công trình điện; xây dựng 28
chợ và hàng trăm công trình khác được xây dựng hoàn thành đưa vào sử dụng.
Theo kết quả đánh giá của các địa phương số xã đạt nhóm các tiêu chí này chiếm
khoảng 20% số xã của các tỉnh, trong đó tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông
Hồng, Miền núi phía Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long…. Tuy nhiên, công tác xây
dựng hạ tầng đang bộc lộ một số hạn chế như nguồn lực đầu tư cho xây dựng hạ tầng
nông thôn mới vẫn chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, mức huy động từ các nguồn
khác còn thấp; Chưa chú trọng đến các công trình y tế, văn hoá, vệ sinh môi trường
nông thôn…; Việc tuyên truyền, vận động sự tham gia, đóng góp của người dân còn
hạn chế. Thiếu quản lý, duy tu và bảo dưỡng các công trình hạ tầng sau khi đưa vào
sử dụng.
7. Về phát triển sản xuất: Tính đến nay, các địa phương trong cả nước đã hỗ trợ

trên 1.200 tỷ đồng để thực hiện hơn 5.000 mô hình sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả
sản xuất từ 15-20%. Một số phong trào nổi bật về phát triển sản xuất là việc dồn điền,
đổi thửa gắn với quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa; xây dựng “cánh đồng mẫu lớn”,
“cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp”. Một số tỉnh đã có chính sách hỗ trợ nông dân phát
triển cơ giới hoá (như Thái Bình); dựa vào lợi thế, tập trung phát triển cây trồng, vật nuôi
theo lợi thế hoặc có chính sách hỗ trợ lãi suất cho nông dân, doanh nghiệp xây dựng các
khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Điển hình là Tp.Hồ Chí Minh. Tuy
19
19
nhiên, công tác quy hoạch phát triển sản xuất cấp xã chưa gắn kết với quy hoạch vùng
nên cơ cấu sản xuất ở nhiều xã còn mang nặng tính tự phát. Liên kết sản xuất giữa nông
dân - doanh nghiệp và nhà khoa học; công tác tập huấn, đào tạo nông dân còn hạn chế.
8. Nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới
a. Ngân sách Trung ương trong 3 năm qua đã hỗ trợ cho 59 tỉnh là 3.265,8 tỷ đồng.
b. Ngân sách địa phương: Tính đến tháng 6/2013 đã có 55/63 tỉnh, thành phố bố trí
ngân sách địa phương cho Chương trình xây dựng nông thôn mới với tổng kinh phí là
14.080 tỷ đồng. Trong đó các tỉnh, thành phố tự túc ngân sách chiếm khoảng 71% (cao
nhất là Thành phố Hồ Chí Minh – 2.162 tỷ, Vĩnh Phúc – 1.948 tỷ; Hà Nội - 1.923 tỷ).
Đánh giá chung, sau 03 năm triển khai Chương trình MTQG xây dựng nông
thôn mới, hầu hết các tỉnh đã tích cực triển khai và đạt được nhiều kết quả tốt, thể
hiện ở những mặt sau:
(i). Đã làm chuyển biến, nâng cao một bước nhận thức trong các cấp ủy Đảng,
chính quyền, đoàn thể chính trị và người dân về Chương trình MTQG xây dựng nông
thôn mới.
(ii). Hình thành bộ máy tổ chức chỉ đạo, thực hiện chương trình ở các cấp từ Trung
ương đến các xã, thôn.
(iii). Đã tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quy hoạch và lập đề án xây dựng
nông thôn mới ở cấp xã.
(iv). Nhiều địa phương đã chủ động xây dựng cơ chế, chính sách làm cơ sở thực
hiện từng tiêu chí ở địa phương. Nhiều cơ chế, chính sách là những cách làm sáng tạo,

có hiệu quả.
(v). Đã xây dựng được một số các xã cơ bản đạt nông thôn mới theo 19 tiêu chí.
Theo tổng hợp báo cáo của các địa phương, ngoài 11 xã điểm do Ban Bí thư chỉ đạo đã
đạt từ 15 đến 18 tiêu chí, còn có thêm 32 xã đạt từ 16-18 tiêu chí, cụ thể: Hà Nội (8
xã), Bắc Giang (2 xã), Quảng Ninh (10 xã), Lào Cai (1 xã), Yên Bái (1 xã); Bắc Ninh
(5 xã), Hưng Yên (1 xã), Hải Phòng (3 xã). Trong đó có 9 xã đạt 18 tiêu chí (chưa đạt
tiêu chí cơ cấu lao động); Đã có 950 xã (đa số thuộc các tỉnh vùng đồng bằng sông
Hồng, vùng Bắc Trung Bộ) đạt từ 10 tiêu chí trở lên.
20
20
(vi). Công tác tổ chức, triển khai thực hiện phong trào thi đua ‘‘Cả nước chung
sức xây dựng nông thôn mới’’ được thực hiện khẩn trương, đồng bộ, nghiêm túc, kịp
thời với nhiều biện pháp, nội dung phù hợp, sát với thực tế và đáp ứng được nguyện
vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Phong trào đã có được những kết quả bước
đầu, theo đúng lộ trình vạch ra và thực sự đi vào đời sống, được các cấp, các ngành
hưởng ứng và người dân nhiệt tình ủng hộ, tích cực tham gia. Thông qua việc triển
khai thực hiện phong trào thi đua‘‘Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới’’ đã
có tác dụng tích cực trong thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn cả
nước và ở mỗi ngành, lĩnh vực, địa phương.
Tuy nhiên, sau 3 năm triển khai chương trình cho thấy đang nổi lên một số vấn
đề gồm: (i). Một số cơ chế, chính sách còn vướng mắc như: sửa tiêu chí nông thôn
mới; cơ chế huy động và lồng ghép các nguồn lực; Cơ chế quản lý đầu tư, giải ngân
và thanh quyết toán (ii). Các địa phương chưa chú trọng đến các hoạt động về xây
dựng thiết chế văn hoá, giữ gìn nét đẹp văn hoá truyền thống ở nông thôn; việc xử lý
rác thải, nước thải còn chưa được quan tâm, an ninh trật tự ở nông thôn ở nhiều nơi
còn chưa tốt; (iii). Một số địa phương còn chạy đua theo phong trào nên thiếu bền
vững, hiệu quả thực hiện chưa cao (Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG
xây dựng nông thôn mới, 2013 )
21
21

Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề về quản lý sử dụng đất, phát triển kinh tế - xã hội
liên quan đến xây dựng nông thôn mới xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
2.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Thực trạng xây dựng nông thôn mới xã Lạc Đạo, huyện
Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên năm 2014
+ Công tác quy hoạch
+ Cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật
+ Thực trạng kinh tế và tổ chức sản xuất
+ Văn hoá xã hội và môi trường
+ Hệ thống chính trị và an ninh trật tự
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn xã Lạc Đạo, huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên.
- Tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới của xã Lạc Đạo,
huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên đến tháng 08/2014.
2.3 Nội dung nghiên cứu
2.3.1 Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng Yên
- Điều kiện tự nhiên: Xác định vị trí địa lý, địa hình vùng nghiên cứu, xem xét các
điều kiện khí hậu, chế độ thuỷ văn, tài nguyên nhân văn, thực trạng cảnh quan và môi
trường.
- Thực trạng phát triển kinh tế, xã hội: Nghiên cứu các đặc điểm về dân số, lao
động, cơ sở hạ tầng, thực trạng phát triển đô thị và khu dân cư nông thôn.
- Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, cảnh quan môi trường
2.3.2 Đánh giá tình hình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã Lạc Đạo, huyện
22
22
Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

2.3.2.1 Tóm tắt phương án xây dựng nông thôn mới xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng Yên đến năm 2020
- Quy hoạch sản xuất;
- Quy hoạch tổ chức mạng lưới điểm dân cư;
- Quy hoạch hệ thống trung tâm, công trình công cộng;
- Quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật;
- Quy hoạch khu trung tâm xã;
- Quy hoạch sử dụng đất.
2.3.2.2 Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã Lạc Đạo,
huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình nông thôn mới.
- Tình hình thực hiện xây dựng nông thôn mới của xã.
- Tổng nguồn vốn thực hiện.
2.3.2.3 Tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã Lạc Đạo trong giai
đoạn tới
- Thực hiện các tiêu chí chưa đạt.
- Giữ vững và phát triển các tiêu chí đã đạt.
2.3.2.4 Giải pháp thực hiện
- Giải pháp tuyên truyền;
- Giải pháp vốn đầu tư;
- Giải pháp về khoa học công nghệ và môi trường;
- Giải pháp về nguồn nhân lực.
2.3.2.5 Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn xã
- Giải pháp thực hiện quy hoạch;
- Giải pháp về phát triển sản xuất;
- Giải pháp về tổ chức sản xuất;
- Giải pháp củng cố nâng cao chất lượng, vai trò của các tổ chức trong hệ thống
23
23

chính trị;
- Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực;
- Giải pháp về chính sách;
- Giải pháp huy động nguồn nhân lực.
2.4 Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu, tài liệu
Phương pháp này sử dụng trong điều tra, thu thập các số liệu, tài liệu, thông tin cần thiết
phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
a) Điều tra thu thập số liệu thứ cấp
- Thu thập các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về nội dung nghiên
cứu và các văn bản có liên quan đến quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Các sách
giáo trình tài liệu sách báo và các báo cáo liên quan đến xây dựng nông thôn mới.
- Thu thập số liệu thống kê về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, tình hình sử
dụng và biến động đất đai, biến động đất nông nghiệp và phát triển khu dân cư
mới. Tình hình công tác quy hoạch nông thôn mới trên toàn xã.
- Thu thập tài liệu để xây dựng cơ sở dữ liệu không gian: Bản đồ hiện trạng
tổng hợp năm 2013 xã Lạc Đạo.
b) Điều tra thu thập số liệu sơ cấp
- Công tác quy hoạch xây dựng nông thôn mới tại xã Lạc Đạo.
- Điều tra, khảo sát và đánh giá các số liệu có liên quan đến việc thực hiện
công tác xây dụng nông thôn mới: Phỏng vấn những đối tượng có liên quan, khảo sát
thực địa
2.4.2 Phương pháp xử lý số liệu
- Chủ yếu xử lý số liệu trên máy vi tính qua phần mềm Exel 2013 để tính các chỉ tiêu
trên bảng số liệu nêu trong nội dung báo cáo: Bảng kết quả điều tra đánh giá thực trạng
nông thôn mới theo 19 tiêu chí của xã Lạc Đạo; Bảng cơ cấu tổng giá trị sản xuất theo
ngành kinh tế.
- Số liệu bản đồ được xử lý bằng phần mềm Microstation.
2.4.3 Phương pháp thống kê, phân tích
24

24
- Tổng hợp hệ thống hoá các tài liệu nghiên cứu, phân tích tài liệu qua phân tích mức
độ của hiện tượng, phân tích tình hình biến động và mối liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa
các hiện tượng.
- Phương pháp này áp dụng trong việc phân tích, đánh giá số liệu thể hiện trên bảng
qua quá trình xử lý số liệu trên Exel để đưa ra những nhận xét, đánh giá.
2.4.4 Phương pháp so sánh
Phương pháp này dùng để so sánh tính phù hợp của các tiêu chí nông thôn mới
của Trung ương, của tỉnh Hưng Yên với xã Lạc Đạo để từ đó có những đề xuất những
tiêu chí nông thôn mới phù hợp với địa bàn huyện.
Phương pháp này thực hiện thông qua phân tích các kinh nghiệm, bài học của
các mô hình, chương trình phát triển nông thôn cấp cơ sở của các nước và của Việt
Nam để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng nông thôn mới
của xã Lạc Đạo.
2.4.5 Phương pháp minh họa bản đồ
Một trong các hình thức trình bày là sử dụng phương pháp minh hoạ trên bản
đồ. Các đối tượng được biểu diễn trên Bản đồ hiện trạng tổng hợp năm 2013 xã Lạc
Đạo và Bản đồ định hướng quy hoạch phát triển không gian xã nông thôn mới xã Lạc
Đạo, thể hiện cụ thể các yếu tố về vị trí phân bố, diện tích…Phương pháp minh hoạ
bằng bản đồ có sử dụng các phần mềm chuyên dụng làm bản đồ Microstation và một
số ứng dụng khác có liên quan.
Các số liệu sau khi thu thập, điều tra được tiến hành xử lý, tổng hợp, phân tích
một cách chính xác. Sử dụng các phần mềm máy tính (Excell…).
2.4.6. Phương pháp dự báo
Trên cơ sở nghiên cứu các quy luật biến động sản lượng cây trồng, số lượng
gia súc gia cầm và căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế - xã hội của xã trong
tương lai để lập bảng dự báo sản lượng cây trồng và số lượng gia súc gia cầm của xã
trong tương lai.
25
25

×