Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.26 KB, 15 trang )

Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã được đặt ra từ rất lâu và được sự
quan tâm đặc biệt của nhiều nhà giáo dục, nhất là của các thầy giáo, cô giáo. Nhưng
việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học trong dạy học không phải là việc dễ dàng
thực hiện và đạt được hiệu quả ngay từ đầu. Trước đây, chúng ta dạy học vẫn theo
phương pháp truyền thống với quan niệm : học là quá trình tiếp thụ và lĩnh hội qua đó
hình thành kiến thức, kỹ năng, tư tưởng tình cảm. Giáo viên ln là người truyền thụ
tồn bộ những kiến thức, những hiểu biết của mình về một vấn đề nào đó; cịn học sinh
là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của giáo viên. Chính vì vậy mà phương pháp
đó dẫn đến chỗ học sinh là người thụ động và qúa trình nhận thức mang tính chất áp
đặt, một chiều. Học sinh học để đối phó với thi cử và sau khi thi xong những điều đã
học thường bị bỏ quên hoặc ít dùng đến. Hiện nay, phương pháp dạy học truyền thống
khơng cịn thích hợp với mục tiêu giáo dục - đào tạo, hơn thế việc đổi mới chương
trình sách giáo khoa càng cần phải đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy
học. Bởi chỉ có đổi mới cơ bản phương pháp dạy học chúng ta mới có thể tạo được sự
đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng
tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng
tới nền kinh tế tri thức.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết
Trung ương 4 khóa VII(1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII(1996),được thể chế
hóa trong luật giáo dục (2005). Điều 28.2 trong Luật giáo dục đã ghi : “ Phương pháp
giáo dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học
sinh;phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,
rền luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui hứng thú học tập cho học sinh “ . Có thể nói cốt lõi của việc đối mới dạy học
là hướng tới hoạt động học tập chủ động; chống lại thói quen học tập thụ động.
Tuy nhiên, đối với mỗi môn học trong nhà trường tùy theo đặc trưng bộ môn mà
vận dụng việc đổi mới phương pháp sao cho thích hợp, linh hoạt để đạt mục tiêu cần
đạt . Đối với môn Ngữ văn, việc vận dụng phương pháp dạy học mới vẫn còn hạn chế .


Giáo viên chỉ say mê khám phá văn bản và khổ cơng tìm tịi cách thức lên lớp sao cho
hấp dẫn mà khơng chú ý học sinh học bài đó như thế nào ? Mục đích của giờ dạy học
văn theo quan điểm, phương pháp mới không phải người giáo viên là người truyền thụ
lời giảng của mình một cách chủ quan mà mục đích cao nhất là làm sao để chủ thể học
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 1

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên chủ động khám phá, tiếp nhận tác phẩm và đồng
thời bộc lộ được tình cảm bản thân.
Trong q trình giảng dạy văn học, có nhiều phương pháp dạy học tích cực được áp
dụng và mỗi phương pháp đều được thử thách qua thời gian. Chẳng hạn phương pháp
thuyết trình; phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề ; phương pháp dạy
học hợp tác trong nhóm nhỏ; dạy học theo dự án ... Kết quả của mỗi phương pháp đều
có những ưu điểm, nhược điểm riêng. Một trong những phương pháp dạy học tích cực
đưa lại kết quả cao trong học tập, phát huy được tính chủ thể của học sinh là phương
pháp vấn đáp.
Trong phạm vi bài tập nghiên cứu khoa học này, tơi đi sâu tìm hiểu phương pháp
dạy học vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn ở khối trung học phổ thông. Tôi đã
quyết định chọn đề tài này để trước hết là bản thân có điều kiện khái quát nâng cao
chuyên môn sau thời gian nghiên cứu áp dụng và qua đây mong được chia sẻ với đồng
nghiệp cùng quan tâm để góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn và đổi mới
phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong phạm vi nhà trường THPT.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
- Dựa trên một số lí luận cơ bản về triết học, về tâm lí học, về việc đổi mới phương
pháp dạy học văn ... để đề ra một số biện pháp trong phương pháp dạy học vấn đáp .
- Nhằm mục đích nâng cao chất lượng của giờ học, phát huy tính tích cực, tự giác chủ
động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận

dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn cho học sinh bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một
vấn đề, gây hứng thú học tập cho học sinh
III. THỜI GIAN, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
- Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 09 năm 2008 đến tháng 09 năm 2010
- Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp vấn đáp trong việc dạy học môn Ngữ Văn.
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh khối : 10, 11, 12
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi đề xuất một số nhiệm vụ của đề tài:
+ Xác định cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của dạy học vấn đáp (đàm thoại) .
+ Đề xuất một số biện pháp dạy học vấn đáp trong môn Ngữ Văn.
+ Thực hiện một số công việc trong phương pháp vấn đáp.
+ Thiết kế một bài dạy vận dụng phương pháp vấn đáp
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 2

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp. Dưới đây là những phương pháp
chủ yếu:
1. Phương pháp thống kê, nêu ví dụ.
2. Phương pháp thực nghiệm qua giảng dạy, dự giờ, bài kiểm tra, bài thi, số điểm.
3. Phương pháp so sánh.
4. Phương pháp phân loại, phân tích.
5. Phương pháp tổng hợp.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I : NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA PHƯƠNG PHÁP VẤN ĐÁP
TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN.
1.Cơ sở tâm lí học.

Nhận thức thế giới xung quanh, tìm hiểu những sự vật, hiện tượng xảy ra xung
quanh mình là một nhu cầu khơng thể thiếu của con người. Đây là một trong ba mặt cơ
bản của đời sống, của tâm lí con người (Nhận thức - Tình cảm - Hành động). Nhờ có
nhận thức mà chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh mình mà cả hiện
thực của bản thân nữa, khơng chỉ phản ánh cái bên ngoài, cái hiện tại mà cả cái bên
trong, cái sẽ tới và các quy luật phát triển của hiện thực.
Mục tiêu của nhà trường phổ thông nói chung và mục tiêu của trường THPT nói
riêng là hình thành nhân cách của học sinh, phát triển tồn diện và trưởng thành về mặt
xã hội của học sinh. Trong nhà trường phổ thông, học sinh được giáo dục bằng nhiều
phương pháp, nhiều ngành học... trong đó bộ mơn Ngữ văn được coi là một môn học
chủ công trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Nhân cách là tồn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lí cá nhân quy định giá trị
xã hội và hành vi của họ. Học sinh là một nhân cách trong chừng mực nào đó mà các
phẩm chất xã hội ở đó được phát triển để nó trở thành chủ thể có ý thức đối với mọi
hoạt động cơng ích của mình. Như vậy có nghĩa là một trong những con đường để hình
thành và phát triển nhân cách là con đường hoạt động của chính học sinh. Con đường
tác động có mục đích tự giác của xã hội bằng giáo dục đến học sinh sẽ trở nên vơ hiệu
hố nếu như học sinh không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó, khơng
trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển tâm lí, hình thành nhân cách.
Chính vì vậy qua giờ học vấn vận dụng phương pháp vấn đáp, học sinh có dịp bù đắp
những tri thức mà mình chưa được biết, chưa hiểu hoặc hiểu chưa rõ, để tự mình tiếp
nhận và hồn thiện mình về tư tưởng, đạo đức và hành vi trong học tập và trong cuộc
sống.
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 3
Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
2.Cơ sở nhận thức.
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người nhưng sự phản

ánh này khơng phải giản đơn, thụ động mà là quá trình biện chứng dựa trên hoạt động
tích cực của chủ thể trong quan hệ đối với khách thể. Nhưng không phải con người nào
cũng đều là chủ thể của nhận thức. Con người trở thành chủ thể khi nó tham gia vào
hoạt động xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể. Trong nhà trường học sinh
chính là chủ thể của hoạt động nhận thức; cịn khách thể chính là những tri thức kinh
nghiệm của nền văn minh nhân loại. Theo cơ sở triết học: con người tự làm ra mình
bằng chính hoạt động của mình nhưng cái quan trọng là làm ra cái đó như thế nào và
bằng cách nào?
Đối với mơn Ngữ Văn học sinh đến trường để học tập thực chất là để tiếp nhận,
chiếm lĩnh những giá trị của tác phẩm văn chương. Vì mục đích ấy, học sinh tự đọc lấy
tác phẩm, tự chiếm lĩnh lấy tác phẩm, nắm bắt được cái hồn của tác phẩm chứ không
phải học lấy những điều giáo viên giảng giải, giáo viên cắt nghĩa như xưa nay người ta
vẫn thường làm. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo cho học sinh những hướng
tiếp cận tác phẩm sao cho có hiệu quả nhất, học sinh từ đó mà tự chiếm lĩnh tác phẩm.
Đồng thời cùng với sự chiếm lĩnh tác phẩm ấy, học sinh dưới những câu hỏi gợi mở,
dẫn dắt của giáo viên mà trình bày những suy nghĩ, cách hiểu của mình về vấn đề đặt
ra trong tác phẩm.
Chính vì những vấn đề đó mà rất cần có một giờ học vấn đáp để qua giờ học ấy
học sinh có thể khẳng định họ thật sự là những chủ thể sáng tạo trong q trình nhận
thức bằng chính hoạt động của mình.
3.Cơ sở văn học.
Nếu hình tượng hội hoạ được xây dựng bằng đường nét, màu sắc; âm nhạc được
xây dựng bằng nhịp điệu, giai điệu, âm thanh...thì hình tượng văn học được xây dựng
bằng chất liệu ngôn từ. Do lấy ngơn từ làm chất liệu cho nên hình tượng văn học chỉ
tác động vào trí tuệ, tâm hồn, tình cảm gợi nên sự liên tưởng và tưởng tượng trong tâm
trí người đọc. Nhờ liên tưởng và tưởng tượng trên những nét tương đồng giữa thế giới
âm thanh và hình ảnh, giữa thế giới hữu hình và thế giới vơ hình trở thành hiện hình
qua phương tiện ngơn ngữ.
Thực chất của vấn đề phát huy chủ thể học sinh trong giờ Ngữ văn là khêu gợi,
kích thích và ni dưỡng, phát triển ở học sinh nhu cầu đồng cảm và khát vọng nhận

thức cái mới qua hình tượng, tính cách nhân vật. Và cũng qua đó việc học tác phẩm
văn học thực sự trở thành một hoạt động cá thể hoá sâu sắc đi từ nhận thức khách quan
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 4

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
hình tượng đến chỗ tự nhận thức; do đó có khát vọng sống và hành động theo nhân vật
lí tưởng.
Chính vì vậy trong giờ học văn rất cần có sự trao đổi giữa giáo viên và học sinh,
giữa học sinh và giào viên để qua giờ học ấy thu được kết quả cao hơn và cũng qua giờ
học ấy học sinh có dịp bộc lộ mình, tự khẳng định mình, đồng thời giáo viên cũng có
cơ hội để nắm được trình độ tiếp nhận của học sinh.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI
Qua quá trình dạy học, kinh nghiệm của bản thân, quá trình dự giờ của đồng nghiệp ,
tơi nhân thấy :
- Một số giáo viên chủ yếu vẫn dạy theo phương pháp dạy học truyền thống: giáo viên
sử dụng các phương pháp diễn giảng truyền thụ toàn bộ những kiến thức một chiều ;
còn học sinh là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của giáo viên. Giờ học trở nên
khơ khan, trầm, thậm chí căng thẳng, học sinh tham gia học bài một cách chiếu lệ. Rõ
ràng điều đó dẫn đến chất lượng, hiệu quả giờ học không cao.
- Cịn một số giáo viên có vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong giờ
học song chưa hiệu quả, cịn hình thức . Chẳng hạn vận dụng phương pháp vấn đáp :
giáo viên đặt ra những câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời song chưa tạo ra được khơng
khí tranh luận sơi nổi giữa học sinh với nhau hay giữa học sinh với giáo viên.
Một trong những nguyên nhân đẫn tới tình trạng trên là một số giáo viên nhận thức
chưa rõ bản chất của việc dạy học văn. Dạy học văn trong nhà trường không đơn
thuần là giảng văn, phân tích văn học mà là dạy đọc văn bản, đó là q trình đối thoại
giữa học sinh, thầy giáo và tác giả đằng sau văn bản . Đó là hình thức giao tiếp , đối

thoại vượt thời gian , không gian, không phải là truyền thụ một chiều.Bên cạnh đó một
số giáo viên vẫn cịn nhiều ngộ nhận về lí thuyết và lúng túng trong biện pháp thực thi
việc cải cách, đổi mới phương pháp dạy học vấn đáp . Chẳng hạn các phương pháp đổi
mới là gì ? Khi đổi mới phương pháp dạy học thì vai trị của người thầy có bị hạ thấp
không ? Câu hỏi như thế nào là đổi mới?Bao nhiêu câu hỏi là vừa ?.....
Ngoài ra, giáo viên chuẩn bị bài dạy chưa thật kĩ, đặc biệt là chưa xây dựng
được hế thống câu hỏi phù hợp với bài dạy, chưa chú ý tới việc chuẩn bị bài học của
học sinh, chưa phân loại đối tượng học sinh trong từng lớp ... Giáo viên chưa ý thức rõ
về dạng câu hỏi, mức độ yêu cầu của câu hỏi dẫn đến khâu tổ chức dạy học tìm hiểu
bài học thiếu tính khoa học, tình trạng giáo viên hỏi một đằng học sinh trả lời một nẻo
hoặc trả lời không đúng trọng tâm u cầu.
Chính vì vậy, vần đề vận dụng đổi mới phương pháp dạy và học văn càng được
quan tâm hơn bao giờ hết đặc biệt là phương pháp vấn đáp . Tuy nhiên, việc đổi mới
phương pháp dạy học văn khơng có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 5

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
phải vận dụng một cách hiệu quả các phương pháp dạy học hiện có theo quan điểm
dạy học tích cực kết hợp các phương pháp hiện đại.
CHƯƠNG III: NỘI DUNG DẠY HỌC VẤN ĐÁP (ĐÀM THOẠI).
I.QUAN NIỆM VỀ DẠY HỌC VẤN ĐÁP (ĐÀM THOẠI).
1. Thế nào là phương pháp vấn đáp?
Phương pháp vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra các câu hỏi để
học sinh trả lời , hoặc tranh luận với nhau và với cả giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội
được nội dung bài học. Phương pháp vấn đáp, đàm thoại khác với thuyết trình ở chỗ
nội dung cần truyền thụ không được thể hiện qua lời giảng của người dạy mà được
thực hiện bởi hệ thống câu trả lời của người học, dưới sự gợi mở bởi các câu hỏi của

người dạy đề xuất . Các câu hỏi này được tổ chức thành một hệ thống phù hợp với nội
dung bài học, đối tượng học sinh.
2. Mục đích và yêu cầu của phương pháp vấn đáp
Mục đích của phương pháp vấn đáp là nâng cao chất lượng giờ học bằng cách
tăng cường hình thức hỏi đáp, đàm thoại giữa giáo viên và học sinh , rèn cho học sinh
bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề trước tập thể . Muốn thực hiện điều đó,
địi hỏi giáo viên phải xây dựng được hệ thống câu hỏi phù hợp với yêu cầu bài học,
hấp dẫn , sát đối tượng, xác định được vai trò chức năng của từng câu hỏi , mục đích
hỏi , các yếu tố kết nối hệ thống câu hỏi. Câu hỏi phải khơi gợi được hứng thú tham gia
hoạt động của học sinh và phải được chuẩn bị một cách chu đáo và thực sự khoa học,
không thể tùy hứng, vụn vặt, thiếu hệ thống,đặc biệt là khơng có tác dụng dẫn dắt học
sinh thâm nhập và cắt nghĩa văn bản . Câu hỏi không cần nhiều nhưng phải là những
câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc học sinh phải suy nghĩ và
có hứng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình. Ngồi ra người giáo viên cần dự án các phương
án trả lời của học sinh để có thể thay đổi hình thức , cách thức mức độ hỏi, có thể dẫn
dắt qua các câu hỏi phụ tránh đơn điệu nhàm chán, nặng nề bế tắc ; tạo hứng thú học
tập cho học sinh và tăng hấp dẫn của giờ học .
3. Các nhân vật tham gia trong giờ học vấn đáp.
a. Người giáo viên trong giờ học vấn đáp.
Thực tế cho thấy, trong một thời gian dài trước khi cải cách giáo dục người ta đã
từng quan niệm học văn là một quá trình thầy đọc, giảng, cảm thụ còn trò chỉ là những
cỗ máy ghi chép.Theo cách dạy học truyền thống, người giáo viên trong giờ học là
người quyết định một cách toàn diện chất lượng dạy học và được coi là chủ thể của
hoạt động dạy. Thế nhưng, trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội và sự bùng nổ về tri
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 6

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương

thức, thông tin đã đặt người học trước một nhiệm vụ mới khó khăn hơn. Bản chất của
sự học ngày nay đã thay đổi. Học bao giờ cũng phải đi đôi với hành “học và hành phải
kết hợp chặt chẽ…phải gắn liền với thực tế những đòi hỏi của dân tộc, xã hội” giáo
viên khơng cịn đóng vai trị đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở
thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập, hoặc theo nhóm nhỏ
để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ
năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Điều này địi hỏi người giáo viên phải đầu
tư cơng sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mời có thể thực hiện
bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các
hoạt động tìm tịi tranh luận của học sinh . Giáo viên phải có trình độ chun mơn sâu,
rộng, có trình độ sư phạm mới có thể tổ chức hướng dẫn các hoạt động của học sinh.
Với giờ đọc - hiểu văn bản Ngữ văn, giáo viên là người điều khiển, hướng dẫn để
học sinh tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. Người giáo viên phải chuẩn bị kĩ
nội dung bài học như xác định rõ mục tiêu bài học, tiến trình tổ chức dạy học . Đặc biệt
là quá trình tổ chức hướng dẫn dạy - học bài mới. Giáo viên phải xây đựng được một
hệ thống câu hỏi vấn đáp phù hợp với nội dung bài học.Câu hỏi phải khơi gợi được
hứng thú tham gia hoạt động của học sinh và phải được chuẩn bị một cách chu đáo và
thực sự khoa học, không thể tùy hứng, vụn vặt, thiếu hệ thống,đặc biệt là khơng có tác
dụng dẫn dắt học sinh thâm nhập và cắt nghĩa văn bản. Câu hỏi khơng cần nhiều nhưng
phải là những câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc học sinh
phải suy nghĩ và có hứng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình. Có thể nói xây dựng được hệ
thống câu hỏi vấn đáp có chất lượng có tác dụng gợi dẫn học sinh thâm nhập khám phá
tác phẩm là một nghệ thuật địi hỏi sự cơng phu và tài năng thực sự của giáo viên.
Theo kinh nghiệm của tôi, đối với mỗi câu hỏi, người giáo viên phải xác định được
mức độ, mục đích, nội dung và hình thức câu hỏi, cũng như tính hệ thống, đẫn dắt của
mơĩ câu hỏi .Cũng cũng phải lưu ý một điều là tùy vào tình huống thực tế, vào đối
tượng học sinh mà người giáo viên có thể thay câu hỏi hoặc bổ sung các câu hỏi cho
phù hợp với tình huống, đối tượng học sinh và mục tiêu bài học. Chẳng hạn, đứng
trước một vấn đề mà học sinh khó phát hiện cũng như khó trả lời, người giáo viên cần
có câu hỏi gợi mở để từ đó giúp học sinh có sự định hướng và trả lời.

b. Người học sinh trong giờ học vấn đáp.
Trong cơ chế dạy học văn theo lối cũ, mối liên hệ giữa giáo viên và học sinh là
mối liên hệ giữa người giảng với người nghe, người truyền thụ với người tiếp thu,
người thông tin với người tiếp nhận, người trình bày với người ghi nhớ. Như vậy
những năng lực chủ quan của bản thân học sinh không được phát huy. Trong giờ học
văn , học sinh chỉ có nhiệm vụ, nghe nhớ, và lặp lại điều đã nhớ được qua lời giảng của
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 7

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
giáo viên. Học sinh được xem như là khách thể, một đối tượng thụ động chịu sự tác
động của giáo viên, của tài liệu, của tiến trình giảng dạy mà khơng thấy rõ học sinh
cũng là chủ thể năng động trong tiến trình tổ chức dạy học.
Tư tưởng đổi mới dạy học văn hiện nay là coi trọng, chú trọng đến người học, là
phát huy cao độ tiềm năng sáng tạo của người học . Do đó, khi dạy một bài Ngữ văn,
giáo viên không chỉ chú trọng đến văn bản, đến việc dạy cái gì và cách dạy như thế nào
mà cịn phải chú ý tới người học sẽ học như thế nào . Sai lầm lâu nay của cách dạy học
cũ là giáo viên chỉ say mê khám phá văn bản và khổ cơng tìm tịi cách thức lên lớp sao
cho hấp dẫn mà khơng chú ý học sinh học bài đó như thế nào. Xác định đúng đắn vai
trò của học sinh như là một chủ thể cảm thụ trong giờ dạy học văn sẽ đưa đấn những
đổi mới cơ bản trong phương pháp dạy học văn.
Trong giờ đọc hiểu văn bản, khi giáo viên vận dụng phương pháp vấn đáp gợi mở
dẫn dắt, học sinh không chỉ tự cảm thụ, rung cảm, cảm xúc trước cái hay, cái đẹp mà
còn được trao đổi, thảo luận với bạn bè, được tiếp thu tri thức mới và được tự do phát
biểu những suy nghĩ, sáng kiến của mình. Với hệ thống câu hỏi phát vấn trong giờ học
Văn, giáo viên có thể phát huy những năng lực tư duy và phẩm chất trí tuệ của từng
học sinh. Năng lực độc lập, tự làm việc, óc tìm tịi suy nghĩ, thói quen giao tiếp xã hội
của học sinh được phát huy một cách tích cực.

Như vậy, trong giờ văn theo phương pháp vấn đáp học sinh luôn là một chủ thể
trực tiếp tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm cũng như giáo viên. Người giáo viên không
cảm thụ hộ mà là người đứng ra tổ chức quá trình học sinh tiếp nhận, chiếm lĩnh văn
bản văn học. Từ đó, học sinh được rèn luyện và phát triển một số kĩ năng tự tiếp nhận
văn bản văn học cũng như các vấn đề trong cuộc sống.
II.MỘT SỐ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP VẤN ĐÁP
Tuy là một giáo viên mới vào nghề, kinh nghiệm còn hạn chế, nhưng qua một
thời gian công tác giảng dạy, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp bước đầu
làm căn cứ cơ sở cho vận dụng phương pháp vấn đáp trong giờ đọc hiểu Ngữ văn ở
trường THPT :
- Trong giờ học văn, giáo viên phải là người điều khiển, hướng dẫn để học sinh tự
khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. Học sinh là một chủ thể trực tiếp tiếp nhận,
chiếm lĩnh tác phẩm. Học sinh có điều kiện phát huy những khả năng mới vốn tiềm ẩn
mà lâu nay bản thân các em chưa khám phá, bộc lộ hoặc còn rụt rè, lúng túng... Từ đó,
tạo cho các em học sinh sự mạnh dạn, tự tin khi diễn đạt một vấn đề trước tập thể.
- GV cần phải nắm vững bản chất của phương pháp vấn đáp, đặc biệt là phải phân biệt
được các loại, mức độ vấn đáp để từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi thích đáng, trọng
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 8

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
tâm, then chốt, có tình huống, khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của học
sinh, phù hợp với nội dung bài học .
Qua tài liệu tham khảo và kinh nghiệm của bản thân, tơi nhận thấy có ba phương
pháp (mức độ) vấn đáp: Vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích chứng minh và vấn đáp
tìm tịi, phát hiện, sáng tạo
+ Vấn đáp tái hiện : Đây là phương pháp giáo viên đặt ra câu hỏi yêu cầu học sinh
chỉ cần nhớ lại và tái hiện nội dung bài học .Đây là dạng vấn đáp ở mức độ bình

thường, khơng địi hỏi học sinh phải tư duy mà chỉ cần huy động trí nhớ hoặc dựa vào
văn bản văn học.
Chẳng hạn khi tổ chức cho học sinh tìm hiểu chung về văn bản văn học, giáo viên
chủ yếu sử dụng phương pháp vấn đáp tái hiện .
Ví dụ dạy học bài Việt Bắc, sau khi đọc phần tiểu dẫn, giáo viên đặt câu hỏi: Em hãy
cho biết phần tiểu dẫn giới thiệu nội dung gỡ?. Học sinh lắng nghe và căn cứ vào văn
bản để trả lời :- Hoàn cảnh và mục đớch sỏng tỏc bài thơ Việt Bắc. Giới thiệu khỏi
quỏt về bố cục bài thơ .
Hay khi tổ chức hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản Việt Bắc, giáo viên đặt câu hỏi
tái hiện : Cuộc chia giữa kẻ ở người đi tay được miờu tả như thế nào trong tám câu thơ
đầu? Học sinh đọc văn bản và tái hiện cảnh chia tay: Trên nền cảnh núi rùng Việt Bắc,
diễn ra cảnh chia tay đầy bịn rịn lưu luyến giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ cách
mạng miền xi .Lời của người Việt Bắc lờn tiếng trước.
Ví dụ : Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu những phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp
ảnh trongvăn bản Chiếc thuyền ngoài xa(Nguyễn Minh Châu) , giáo viên đặt câu hỏi
vấn đáp tái hiện : Tuy nhiên, ngay khi tâm hồn bay bổng trong những cảm xúc thẫm
mỹ, đang tận hưởng cái khoảng khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ
nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra điều gì tiếp theo ngay sau bức tranh ? Tâm
trạng người nghệ sĩ khi đó như thế nào? .
HS tái hiện : Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà
xấu xí, mệt mỏi ; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn ; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng
đánh đập vợ một cách thô bạo ... đứa con thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai
cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát...Chứng kiến cảnh tượng đó người nghệ sĩ Phùng
kinh ngạc đến thẫn thờ. Người nghệ sĩ như chết lặng, khơng tin vào những gì đang diễn
ra trước mắt.
⇒ Vấn đáp tái hiện có thể xem là bước đầu khi đi sâu tìm hiểu, khám phá, phát hiện
giá trị của văn bản văn học. Đây còn là cơ sở để giáo viên đặt ra những câu hỏi nêu vấn
đề nhằm hướng dẫn, giúp học sinh phát hiện giá trị, vẻ đẹp của văn bản văn học.
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 9


Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
+ Vấn đáp giải thích, chứng minh . Giáo viên phải xây dựng hệ thống câu hỏi yêu
cầu học sinh phải tư duy, biết vận dụng các thao tác lập luận giải thích(dùng lí lẽ, lí
giải nội dung, bản chất của vấn đề để mọi người cùng hiểu vấn đề ), phân tích, chứng
minh( chia tách đối tượng thành từng khía cạnh, từng phần xem xét đánh giá, kết hợp
dùng dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề, đối tượng ).
Với phương pháp này, giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh đi sâu khám phá
các giá trị của tác phẩm văn học nay bản chất vấn đề của bài học . Tuy nhiên vấn đề
đặt ra là giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi vấn đáp giải thích, chứng minh như thế
nào để hấp dẫn học sinh đồng thời đảm bảo được mục tiêu cần đạt. Theo kinh nghiệm
của bản tôi, người giáo viên nên căn cứ vào mục tiêu cần đạt kết hợp với hệ thống câu
hỏi Hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa, thể loại văn bản, dung lượng bài học .
Ngồi ra, cịn phải chú ý đến đối tượng học sinh từng lớp, từng nhóm, thậm chí từng cá
nhân trong lớp trong lớp về các mặt như lứa tuổi, tâm sinh lý, trình độ ,vốn sống, khả
năng nhận thức, khả năng diễn đạt... Trên cơ sở đó giáo viên xây dựng hệ thống câu
hỏi vấn đáp .
Chẳng hạn khi tìm hiểu vẻ hung bạo của con sơng Đà trong tùy bút “Người lái
đị sơng Đà” của Nguyễn Tn, giáo viên nêu câu hỏi: có ý kiến nhận xét cho rằng :
Nguyễn Tuân đã có sự quan sỏt cụng phu, tỡm hiểu kĩ càng để khắc họa sự hung bạo
trên nhiều dạng vẻ. Em có đồng ý với ý kiến trên khơng? Vì sao ?.
Học sinh thảo luận rồi trả lời : Quả đúng là Nguyễn Tuân đã có sự quan sỏt cụng phu,
tỡm hiểu kĩ càng để khắc họa sự hung bạo trên nhiều dạng vẻ . Từ đó, học sinh vận
dụng thao tác giải thích ,chứng minh để làm sáng tỏ vấn đề. Kết quả học sinh trả lời :
Trong phạm vi 1 lũng sụng hẹp, như chiếc yết hầu bị đá bờ sơng chẹt cứng.Lại có
những quãng sông hàng cây số của một thế giới đầy gió gùn ghè, đá giăng đến chân
trời và sóng bọt tung trắng xóa... Tả cái hút nước quóng Tà Mường Vát, những cái hút
nước xốy tít lơi tuột mọi vật xuống đáy sâu... Những trùng vi thạch trận sẵn sàng nuốt

chết con thuyền và người lái. .. Âm thanh luôn thay đổi...
Chẳng hạn khi tìm hiểu dáng vẻ, diện mạo con sơng Hương phía thượng nguồn
trong bút kí : Ai đã đặt tên cho dịng sơng của Hồng Phủ Ngọc Tường của , giáo viên
nêu câu hỏi : Tại sao nói : Sơng Hương tựa như “một bản trường ca của rừng già” với
nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội .Học sinh căn cứ vào văn bản suy ngẫm thảo luận trả
lời : Sông Hương tựa như “một bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hựng
trỏng, dữ dội : khi “ rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, lúc “ mónh liệt vượt qua ghềnh
thác”, khi “ cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu”, lúc “ dịu dàng và say đắm
giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ qun rừng”. Sơng Hương hiện ra tựa

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 10

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
“Cơ gái Digan phóng khoáng và man dại” với một “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do
và trong sáng”.
+ Vấn đáp tìm tòi, phát hiện, sáng tạo. Đây là dạng câu hỏi vấn đáp địi hỏi
học sinh khơng chỉ biết giải thích, chứng minh mà hơn thế phải biết khái quát, phát
hiện ra bản chất của vấn đề, tầng lớp nghĩa ẩn của văn bản văn học, hơn thế học sinh
phát hiện ra những tấng lớp nghĩa mới. Vận dụng những câu hỏi vấn đáp ở mức độ
này, đòi hỏi giáo viên phải lưu ý tới mục đích, hình thức hỏi tránh đưa ra những câu
hỏi mang tính chất đánh đố học sinh, đặc biệt phải chú ý tới đối tượng tiếp nhận (học
sinh khả năng nhận thức, tư duy) . Khi đặt ra câu hỏi này giáo viên thường hướng tới
đối tượng là học sinh khá, giỏi nhằm phát huy khả năng nhận thức, tư duy, sáng tạo của
các em. Tuy nhiên giáo viên có thể đưa ra câu hỏi dẫn dắt gợi mở nhằm giúp các em
có sức học trung bình cũng có thể khám phá, phát hiện và trả lời.
Chẳng hạn khi tìm hiểu mạch cảm xúc, bố cục của văn bản văn học giáo viên nên đặt
câu hỏi dạng này . Ví dụ khi tìm hiểu bố cục bài thơ Tây Tiến(Quang Dũng), giáo viên

nêu câu hỏi : Sau khi nghe xong bài thơ, em hãy căn cứ vào mạch cảm xúc của bài thơ
cho biết bài thơ chia thành mấy đoạn ? Nêu nội dung chính của từng đoạn ? Học sinh
suy ngẫm, thảo luận và trả lời : theo mạch cảm xúc, bài thơ có thể chia làm 4 đoạn( 4
khổ)
+ Khổ 1: Nhớ núi rừng Tây Bắc, nhớ con đường hành quân.
+ Khổ 2: Nhớ những kỉ niệm về cuộc sống và con người nơi núi rừng Tây Bắc.
+ Khổ 3: Nhớ đoàn quân Tây Tiến.
+ Khổ 4: Lời thề quyết tâm chiến đấu và lời thề khơng thể nào qn “ Tây Tiến”
Ví dụ khi phân tích, tìm hiểu hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm cùng tên của
nguyễn Trung Thành, giáo viên đặt câu hỏi : Ngoài ý nghĩa tạo ra khụng gian xỏc
định cho truyện, đem lại chất Tây Nguyên đậm đà cho câu chuyện, Rừng xà nu, cõy
xà nu cũn mang ý nghĩa nào khỏc? (có thể gợi mở : có ý kiến cho rằng cây xà nu
cịn mang nghĩa tượng trưng. Em có đồng ý với ý kiến trên khơng ? Tại sao ? ) .Câu
hỏi này địi hỏi học sinh phải suy ngẫm tìm tịi, phát hiện trên cơ sở những đặc tính
của cây xà nu, sụ gắn bó mật thiết của nó với nhân dân Tây Nguyên. Sau một thời
gian tìm thảo luận học sinh trả lời :
- Cõy xà nu là biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất cao đẹp của người Xụ
Man:
+ Cõy xà nu chịu thương tớch, chết chúc bởi quõn thự tàn bạo cũng như dõn
làng Xụ Man bị chỳng giết hại ( Anh Xỳt, bà Nhan; mẹ con Mai) hoặc phải mang
thương tật suốt đời như anh Tnỳ.

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 11

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
+ Cõy xà nu cú sức sống mónh liệt khụng sức gỡ tàn phỏ nổi, chỳng ham ỏnh
sỏng và khớ trời, cũng như cỏc thế hệ người Xụ Man kế tiếp nhau đứng dậy chiến đấu

kiờn cường bất khuất giành lấy sự sống , tự do.
Ví dụ sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu cuộc đời, thân phận nô lệ tăm tối của nhân
vật Mị khi sống trong nhà thống lí(Vợ chồng A Phủ-Tơ Hồi) giáo viên đưa ra câu hỏi
vấn đáp tìm tịi : Phải chăng nhà văn Tơ Hồi chỉ dừng lại ở cuộc đời tủi nhục, nô lệ
của Mị .Tô Hồi đã phát hiện ra điều gì ở Mị khi sống trong nhà thống lí ? Câu hỏi có
tình chất nêu vấn đề địi hỏi HS phải tìm tịi, phát hiện : Tơ Hồi khơng dừng lại ở
cuộc đời tủi nhục, nô lệ của Mị mà đã đi sâu khám phá và phát hiện ra đằng sau cuộc
đời tăm tối, tủi nhục kia vẫn tiềm ẩn một cô Mị ham sống , khát khao tự do hạnh phúc.
Từ đó giáo viên tổ chúc hướng dẫn học sinh đi sâu phát hiện sức sống tiềm tàng của Mị
qua những biểu hiện, chi tiết...
Chẳng hạn khi sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu những phát hiện bất
ngờ về nghệ thuật cũng như cuộc đời của nghệ sĩ Phùng, giáo viên nêu câu hỏi tìm tịi ;
Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh châu muốn người đọc nhận thức
điều gì về cuộc đời ? Học sinh phát hiện ra ý tưởng nghệ thuật của nhà văn : cuộc đời
không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống ln tồn tại
những mặt đối lập, những mâu thuẫn : đẹp - xấu , thiện- ác ...
- Trong quá trình tổ chức, điều khiển, hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản văn học,
giáo viên phải biết vận dụng kết hợp một cách linh hoạt, sáng tạo các loại câu hỏi vấn
đáp trong từng bài học, từng tình huống, đối tượng học sinh nhằm phát huy tính tích
cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Để tổ chức một giờ học vấn đáp hoàn chỉnh trong dạy văn, theo tơi, giáo viên có
thể tiến hành theo một số bước cơ bản sau đây:
* Thứ nhất: xác định vấn đề cần vấn đáp (đàm thoại).Thông qua việc hướng dẫn
đọc, giáo viên phải hướng dẫn hay gợi ý cho học sinh những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu
chứa đựng nội dung bao quát cơ bản để trong quá trình đọc học sinh cảm nhận được
vấn đề mình cần phải trả lời hay tìm hiểu trong giờ học đó. Vấn đề đưa ra vấn đáp với
học sinh có khi chỉ là một hình ảnh, một chi tiết, một khía cạnh nội dung hay một nhân
vật nào đó trong tác phẩm. Nhưng chi tiết hoặc hình ảnh đó phải tiêu biểu, đóng vai trị
then chốt mà qua đó giúp học sinh nắm được tư tưởng của đoạn trích hoặc tác phẩm.
* Thứ hai: hướng dẫn học sinh vấn đáp. Đây là một việc làm quan trọng của giáo

viên trong giờ học văn. Khi đã đưa ra một hệ thống câu hỏi, nếu học sinh khơng thể
tìm ra câu trả lời ngay được thì người giáo viên cần phải dẫn dắt, gợi mở vấn đề bằng
những câu hỏi phụ để từ đó học sinh tìm ra ý cho câu hỏi chính. Trong thực tế, học
sinh có thể nắm được nhiều các chi tiết của tác phẩm nhưng chưa biết kết nối các chi
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 12

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
tiết đó để có thể rút ra được các nhận định đánh giá. Đây cũng là lý do khiến các em rụt
rè khi trả lời, vì vậy địi hỏi giáo viên gợi mở, dẫn dắt.
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
I .Kết quả từ quan sát thực tế.
Kết quả chất lượng hs trong lớp tôi dạy, chất lượng đã tiến bộ rõ rệt
- Trong giờ học Văn khơng khí học tập sơi nổi, đã có sự cộng hưởng cảm xúc giữa
nhà văn - học sinh - giáo viên. Học sinh tích cục trao đổi thảo luận, hăng hái xung
phong phát biểu xây dựng bài. Học sinh thực sự hứng thú khi được học môn Văn và
tiếp xúc với các tác phẩm văn học. Chất lượng, hiệu quả giờ học được nâng cao rõ rệt.
- Học sinh được rèn luyện nhiều về tư duy mới trong thảo luận phát vấn, được rèn
luyện cách diễn đạt trình bày phát biểu; các em tỏ ra chủ động, tự tin,linh hoạt khi diễn
đạt trước tập thể. Qua đó, đã hình thành được một số kĩ năng tự tiếp nhận, chiếm lĩnh
tác phẩm văn học cho học sinh.
C. KẾT LUẬN
Áp dụng phương pháp vấn đáp (đàm thoại) trong dạy học môn Văn ở trường phổ
thông là một việc làm cần thiết để nhằm nâng cao chất lượng học sinh. Phương pháp
dạy học nào thì cũng có mặt tích cực và hạn chế của nó. Nhưng nói chung theo phương
pháp dạy học mới hiện nay lấy học sinh làm trung tâm thì việc dạy học theo phương
pháp vấn đáp mang lại thành công nhiều hơn.
Việc áp dụng phương pháp vấn đáp vào trong dạy học bộ mơn Ngữ Văn có tác

dụng rất lớn trong việc phát triển trí tuệ, tâm hồn của học sinh, rèn luyện kỹ năng, phát
huy sáng tạo của học sinh, phát huy hướng tìm tịi, phát hiện trong quá trình học của
học sinh. Nhưng với phương pháp này đơi khi cũng có hạn chế đối với các lớp học sinh
yếu, dễ gây mất thời gian.
Mỗi phương pháp đều có thế mạnh riêng. Người giáo viên là người tổ chức hoạt
động dạy và học, vì vậy phải biết tận dụng sức mạnh của mỗi phương pháp để từ đó
đạt hiệu quả cao trong học tập và giảng dạy.
D. Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ VẬN DỤNG KINH NGHIỆM.
Thực hiện quá trình đổi mới phương pháp dạy học là cơng việc phức tạp, địi
hỏi nhiều cơng sức tâm huyết của mỗi giáo viên chúng ta.Trong q trình thực hiện,
đổi mới địi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ giữa nhiều cấp độ. Chính vì vậy, tơi xin
nêu một vài kiến nghị đề nghị tới các cấp như sau:
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 13

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
- Sở giáo dục, phịng phổ thơng nên tiếp tục tổ chức các đợt học tập chuyên đề và tập
trung nhiều hơn đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và tạo điều kiện để các cụm
tổ chức trao đổi kinh nghiệm về phương pháp dạy học mơn Ngữ văn nói riêng và các
bộ mơn khác trong nhà trường nói chung
- Ban chun môn nhà trường tiếp tục tăng cường kiểm tra dự giờ thường xuyên để
động viên, thúc đẩy giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo
dục.
- Tổ nhóm chun mơn và mỗi người thầy chúng ta cần quan tâm đúng mức tới công
việc vận dụng việc đổi mới phương pháp dạy học, không chủ quan ỷ vào kinh nghiệm,
khả năng dạy vốn có; nếu khơng chính chúng ta là người lạc hậu trì trệ.
- Đối với mỗi giáo viên : phải thường xuyên học tập, học hỏi để nâng cao trình độ
chun mơn, tích cục chủ động đổi mới phương pháp dạy học, tích lũy kinh nghiệm

dạy học.
Trên đây là một vài kinh nghiệm và ý kiến nhỏ của tơi, tất nhiên khơng tránh
khỏi thiếu sót, rất mong đồng nghiệp chia sẻ và bổ sung, .
Xin chân thành cảm ơn!.
Hải Phòng , ngày 20 tháng 02 năm 2011
Người viết

Vũ Thị Hương Giang
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Hà Minh Đức; Lí luận văn học; Nxb GD; H; 1993.
2. Phan Trọng Luận (chủ biên) – Trương Dĩnh; Phương pháp dạy học Văn, tập 1;
Nxb GD;
H; 2001.
3. Phan Trọng Luận (chủ biên); Thiết kế bài học Ngữ văn ; Nxb GD; H; 2006.
4. Nguyễn Kim Phong (chủ biên); Kĩ năng đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10; ; Nxb GD;
H; 2006.
5. Nguyễn Khánh Toàn; Một số vấn đề giáo dục của Việt Nam; Nxb GD; H.
6. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình Sgk 10 mơn Ngữ văn; ; Nxb
GD; H; 2006.
7. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình Sgk 11 mơn Ngữ văn; ; Nxb
GD; H; 2007.
Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 14

Năm học: 2010 - 2011


Một vài đổi mới về phương pháp dạy học trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương
8. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình Sgk 12 mơn Ngữ văn; ; Nxb
GD; H; 2008.
9. Phương pháp dạy học Văn - Nhà xuất bản giáo dục- 1995.

10. Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông - Nhà xuất bản
giáo dục- 1998.

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang 15

Năm học: 2010 - 2011



×