Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng phân môn chính tả cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.94 KB, 15 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT TRÌ
TRƯỜNG TIỂU HỌC GIA CẨM
===== *** =====
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
PHÂN MÔN CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH LỚP 5
Người thực hiện: Trần Thị Thu Hường
Chức vụ: Giáo viên
Chuyên môn: Đại học Tiểu học
1
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chúng ta đều biết:"Nhân cách của con người chỉ có thể được hình thành
thông qua hoạt động và giao tiếp". Để xã hội tồn tại và phát triển, để giao tiếp
được thuận tiện, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có ngôn ngữ riêng. Tiếng Việt là
ngôn ngữ thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Trong cuộc sống hàng
ngày, để giao tiếp ngoài ngôn ngữ riêng. Tiếng việt là ngôn ngữ thống nhất trên
toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Trong cuộc sống hàng ngày, để giao tiếp ngoài ngôn
ngữ nói còn có ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ biết đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong giao tiếp của các quốc gia nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Yêu
cầu đầu tiên, đặc biệt quan trọng của ngôn ngữ viết là phải viết đúng chính tả.
Chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ viết mới không bị cản
trở giữa các địa phương trong cả nước, cũng như giữa các thế hệ đời trước và
đời sau.
Vì vậy, việc dạy đúng chính tả phải được coi trọng ngay từ buổi đầu đối với
học sinh tiểu học. Phân môn chính tả ở tiểu học có nhiệm vụ chủ yếu rèn luyện
cho học sinh nắm các quy tắc và thói quen viết đúng với chuẩn chính tả Tiếng
Việt. Cùng với các phân môn khác, chính tả giúp cho học sinh chiếm lĩnh Việt
văn hoá - Công cụ để giao tiếp, tư duy. Ngay từ bậc tiểu học, trẻ cần phải được
môn học chính tả một cách khoa học, cẩn thận để có sử dụng công cụ này suốt
những năm tháng trong thời kỳ học tập ở nhà trường cũng như suốt cuộc đời.
Nhưng trên thực tế hiện tượng học sinh viết sai chính tả là khá phổ biến. Cụ


thể là trên địa bàn trường tiểu học nơi tôi đang công tác, hiện tượng học sinh viết
sai chính tả, đặc biệt là sai phụ âm "l - n" chiếm một tỷ lệ khá lớn. Vấn đề này
có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản và quan
trọng nhất là do học sinh ở đây có thói quen phát âm sai, lẫn lộn giữa các âm "l -
n, s - x ; ch - tr " dẫn đến viết sai. Bên cạnh đó, về phương pháp, một số giáo
viên chưa chú ý áp dụng phương pháp hợp lý khi dạy chính tả.
Từ thực trạng trên, việc nghiên cứu tìm ra một số những biện pháp hữu
hiệu để giải quyết tình trạng trên là hết sức cần thiết. Bản thân là một số giáo
viên dạy học trên vùng phương ngữ, tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu
2
chuyên đề: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng phân môn chính
tả cho học sinh lớp 5".
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Cơ sở ngôn ngữ học đại cương
Các lĩnh vực ngôn ngữ như ngữ nghĩa học, ngữ pháp học, phong cách học
đều có những đóng góp về mặt lý luận để các nhà khoa học giáo dục biên soạn
chương trình học tiếng việt cho từng cấp học. Nói riêng về phân môn chính tả ở
bậc tiểu học, có thể nói các lĩnh vực của ngôn ngữ học đều có sự đóng góp hình
thành cơ sở khoa học của phân môn chính tả. Chẳng hạn như ngữ pháp văn bản
giúp cho việc xác định rõ nghĩa của từ trong văn bản, giúp cho học sinh xác định
rõ các âm tiết của từ đó mà viết đúng chính tả. Riêng lĩnh vực ngữ âm học cơ sở
lý luận gắn bó mật thiết với vấn đề chính tả.
2. Cơ sở dạy ngữ âm học
2.1 Tìm hiểu về mối quan hệ giữa âm - chữ và nghĩa
Chữ viết của tiếng việt là chữ viết ghi âm cho nên nguyên tắc chính tả chủ
yếu của tiếng Việt là nguyên tắc ngữ âm học. Nghĩa là mỗi âm vị được thể hiện
bằng một chữ cái hoặc một tổ hợp chữ cái, mỗi âm tiết, mỗi từ có một cách viết
nhất định.
Ví dụ: Âm vị /t/ được biểu thị bằng chữ cái "t"

Âm vị /b/ được biểu thị bằng chữ cái"b"
Ngữ âm học thực hành chủ yếu tập trung vào rèn luyện phát âm đúng. Phát
âm đúng gắn liền với viết đúng (chính âm gắn liền với chính tả). Do đó cơ chế
của việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở viết đúng. Để phát
huy một cách có ý thức, đặc biệt là vùng phương ngữ việc dạy chính tả cần phải
theo sát nguyên tắc này. Nghĩa là phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm để
điều chỉnh chữ viết.
2.2 Những bất hợp lý của chữ quốc ngữ
Ở tiếng Việt nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc ngữ âm học. Ngoài ra chính
tả tiếng Việt còn được xây dựng trên một số nguyên tắc nữa như nguyên tắc
3
truyền thống lịch sử, nguyên tắc khu biệt Những nguyên tắc này không đồng
nhất với nguyên tắc ngữ âm học, do vậy chính tả tiếng Việt còn có những hợp
lý. Cụ thể trong tiếng Việt có hiện tượng. Cách phát âm ở những vùng miền
khác nhau (phương ngữ). Bên cạnh đó lại có trường hợp từ mang hai biến thể
phát âm, khó có thể nói biến âm nào là chuẩn.
Ví dụ: Chòng chành - tròng trành
Nhún nhảy - Dún dẩy
Hoặc có khi có một cách phát âm nhưng lại có hai cách viết
Ví dụ:
i: trong lí luận
/i/ y: trong Lý Thường Kiệt
Bản thân hệ thống âm vị tiếng Việt còn có một số âm vị không ghi thống
nhất một âm có thể ghi bằng nhiều chữ.
Ví dụ:
c( con cuốc)
/c/ k:(cái kim)
q: (Tổ quốc)
Trước những bất hợp lý trên, việc xác định trọng điểm chính tả cần cho dạy
học sinh vùng phương ngữ, một mặt phải coi trọng hệ thống âm chuẩn toàn dân,

mặt khác phải coi trọng những biển thể phát âm địa phương, đồng thời phải
dùng nghĩa để sử dụng dựa vào các văn cảnh.
2.3 Vấn đề chuẩn chính tả
Ngôn ngữ văn hoá không thể không có chính tả thống nhất, mà muốn
thống nhất được chính tả thì phải có chuẩn chính tả. Chuẩn chính tả tiếng Việt là
quá trình tiểu chuẩn hoá cách viết của ngôn ngữ Tiếng Việt và phải được mọi
người tuân theo.
Chuẩn chính tả dựa vào ba căn cứ cơ bản sau:
- Chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối.
- Chuẩn chính tả có tính bền vững tương đối
4
- Chuẩn chính tả có tính lựa chọn, tính phát triển
Ngoài ra chuẩn chính tả không phải là bất biến.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Thực tế trình độ chính tả của học sinh tiểu học
Qua thực tế giảng dạy và khảo sát vở tập làm văn, vở chính tả của học sinh
lớp 5 trường tiểu học Gia Cẩm , tôi thấy các em mắc khá nhiều lỗi chính tả.
Thống kê lỗi chính tả của các em tôi thấy có ba loại lỗi cơ bản sau:
- Lỗi chính tả do không nắm vững chính tự: lối này thường gặp khi viết các
phụ âm đầu: d - gi, ch - tr,
- Lỗi do không nắm vững trình tự âm tiết của tiếng việt.
- Lỗi chính tả do viết theo lối phát âm của địa phương hoặc do không nắm
vững chính âm. Đây là lỗi cơ bản nhất mà qua khảo sát tôi nhận thấy. Cụ thể là âm
"l - n" học sinh thường xuyên nhầm lẫn và viết sai chính tả trong bài viết của mình.
Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng sai trên, tôi nhận thấy chủ yếu là học
sinh phát âm sai - thường các em còn phát âm lẫn lộn giữa âm "l - n" nên không
phân biệt được khi viết. Để sửa loại lỗi này giáo viên đã cố gắng dạy cho học
sinh nắm vững chính âm trong tiếng việt. Muốn viết đúng chính tả thì phải phát
âm đúng. Do vậy chúng ta cần phải chú trọng đến việc phát âm chuẩn cho học
sinh trong giờ Tập đọc.Mặt khác mỗi giáo viên phải là một chuẩn mực sống

động để học sinh bắt chước và noi theo. Ngoài ra việc đổi mới các phương pháp
dạy học và giúp học sinh nắm bắt các mẹo luật chính tả cũng hết sức cần thiết để
học sinh viết đúng.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề, tôi xin được thống kê số liệu học
sinh mắc lỗi chính tả của khối 5 đầu năm học như sau:
5
STT Lớp
Tổng
Các lỗi chính tả thường mắc
l - n d/gi/r/ch;tr/s/x Cấu trúc âm tiết
1 5A 48 4 em 9 em 2 em
2 5B 48 3 em 7 em 3 em
3 5C 43 4 em 10 em 0 em
4 5D 42 5 em 10 em 3 em
5 5E 48 3em 8em 0em
6 5G 45 3em 7em 3em
7 5H 43 2em 8em 2em
2. Thực tế về giảng dạy chính tả của giáo viên tiểu học.
Trước hết phải nói đến trình độ đào tạo của giáo viên không đồng đều và
việc tổ chức dạy - học môn Chính tả chưa được khoa học. Những tồn tại trên
dẫn đến chất lượng học chính tả của học sinh còn nhiều hạn chế. Để khắc phục
tình trnạg này, việc đối mới phương pháp dạy học phân môn Chính tả là hết sức
cần thiết, phải giúp học sinh nắm được các quy tắc chính tả,. các mẹo luật chính
tả phù hợp với trình độ tiếp thu của các em, hình thành kỹ năng, kỹ xảo chính tả,
bỏ thói quen phát âm sai dẫn đến viết sai.
3. Chương trình sách giáo khoa
Sách giáo khoa môn Tiếng việt ở tiểu học đã xác định được những trọng
điểm chính tả cơ bản cần dạy cho học sinh. Các bài tập chính tả trong sách giáo
khoa ở tiểu học cũng khá đa dạng, phù hợp với từng khối lớp và cấu trúc đi từ dễ
đến khó.

III.CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Biện pháp 1: Giáo viên cần nắm chắc mục tiêu phân môn chính tả
lớp 5
Phân môn Chính tả lớp 5 chủ yếu tập trung rèn luyện kỹ năng viết chính tả
chính xác cho học sinh. Thông qua làm việc các bài tập chính tả, học sinh lớp 5
được các quy tắc viết của chữ quốc ngữ, nắm được cách viết đúng các từ có âm
đầu, vần và thanh điệu học sinh địa phương hay mắc lỗi do ảnh hưởng của cách
6
phát âm. Học sinh có viết đúng chính tả thì mới viết văn bản đúng chuẩn chính
tả và do đó các em mới có thể giao tiếp tốt bằng văn bản.
Do vậy mục tiêu của phân môn Chính tả lớp 5 là: Trang bị một số kiến thức
về quy tắc chính tả Tiếng Việt; rèn luyện kỹ năng nghe, kỹ năng viết đúng chính
tả đoạn văn, bài văn; phát triển ý thức viết đúng chính tả, thái độ cẩn thận và yêu
cái đẹp trong giao tiếp bằng chữ tiếng Việt.
2.Biện pháp 2: Giáo viên cần nắm chắc nội dung kiến thức của phân
môn chính tả
- Mạch kiến thức về quy tắc chính tả
Hệ thống hoá những hiểu biết về cách viết đúng các âm đầu, vần, thanh
điệu của các từ thuộc vốn từ đã học theo chủ điểm. Hệ thống hoá về quy tắc viết
tên người, tên địa lý Việt Nam và nước ngoài.
- Mạch kỹ năng viết chính tả: nghe - viết, nhớ - viết một đoạn văn hoặc
đoạn thơ, trình bày bài viết theo quy định.
+ Viết đúng các từ ngữ dễ sai lẫn trong các bài chính tả nghe - viết, nhớ -
viết, cụ thể là:
- Các từ có âm đầu hoặc âm chính có nhiều cách viết
- Các từ có vần khó xuất hiện trong các bài chính tả.
- Các từ mà phát âm của tiếng địa phương lệch so với chuẩn.
+ Các tên người, tên địa lý Việt Nam và nước ngoài
Trong những nội dung trên có phần nội dung bắt buộc dạy cho tất cả học
sinh ở các vùng miền, trong cả nước, có những nội dung cho phép các trường,

lớp ở từng địa phương được lựa chọn để dạy cho phù hợp với đặc điểm của học
sinh địa phương.
Phần nội dung tự chọn là phần viết đúng các từ mà phát âm của tiếng địa
phương lệch so với chuẩn trong mỗi bài học. Trong trường hợp các bài tập tự
chọn trong sách giáo khoa không phù hợp với đặc điểm phát âm của tiếng địa
phương nơi có trường lớp mình dạy, giáo viên có thể soạn bài tập thay thế cho
bài tập ở sách giáo khoa sao cho nội dung bài thay thế phù hợp với đặc điểm
7
phát âm của tiếng địa phương dẫn đến lỗi chính tả học sinh lớp mình, trường
mình thường mắc.
3.Biện pháp 3: Giáo viên cần sử dụng phương pháp và hình thức dạy
học phù hợp
- Phương pháp rèn luyện theo mẫu: Thực hiện phương pháp này, giáo
viên cần đọc mẫu các từ mà học sinh dễ mắc lỗi, học sinh nghe và phát âm lại
cho đúng các từ đó. Tiếp theo giáo viên yêu cầu học sinh phân tích tiếng mắc
lối thành các phần âm đầu, vần và thanh điệu, từ đó học sinh nhớ cách ghi các
bộ phận của tiếng để viết đúng. trước khi viết bài chính tả, học sinh viết từ này
ra bảng con. Một biện pháp cần thực hiện để dạy học chính tả theo mẫu là tổ
chức cho các nhóm học sinh lập sổ tay chính tả của nhóm. Giáo viên hướng dẫn
học sinh ghi các lỗi chính tả mà học sinh trong nhóm mắc trong các bài viết và
cách viết đúng các từ đó. Sau khi ghi các từ mắc lỗi và cách sửa, học sinh cần
ghi thêm các từ em biết có các âm đầu, vần, thanh, các từ là tên riêng tương tự
như các từ mà em đã mắc lỗi để giúp các em biết cách viết đúng nhiều từ.
- Phương pháp thực hành giao tiếp.
Thực hành giao tiếp trong dạy học chính tả là chủ yếu thực hành giao tiếp
bằng chữ viết ghi lại các đơn vị có nghĩa. Muốn cho học sinh học tập theo
phương pháp này, giáo viên cần cho học sinh biết nghĩa của các đơn vị giao tiếp
(từ, câu), chuẩn chữ viết của các đơn vị này, sau khi hoàn thành bài viết, cần cho
học sinh kiểm tra lại để sửa lỗi sao cho các đơn vị giao tiếp trong bài đều đúng
với chuẩn chính tả.

Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ đoạn
văn các em sẽ viết, hiểu nội dung đoạn văn, viết trước một số từ học sinh dễ viết
sai. Sau đó giáo viên đọc cho các em viết hoặc cho các em nhớ từng câu để viết
lại. Sau khi học sinh viết xong cả đoạn giáo viên cho các em tự soát lỗi của mình
rồi sau đó đổi bài cho bạn và tự sửa lỗi. Khi giáoviên chấm bái, cần chỉ ra những
lỗi trong bài chưa được sửa và chỉ ra cách sửa.
8
- Phương pháp sử dụng trò chơi học tập:
Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần xác định mục đích của trò chơi
là nhằm củng cố cách viết đúng âm, vần, thanh điệu nào. Sau đó, giáo viên cần
lựa chọn trọ chơi phù hợp với mục đích. Trò chơi chính tả cần có nội dung bám
sát chương trình chính tả lớp 5. Nên có những trò chơi giúp học sinh nhớ cách
viết âm đầu, vần, thanh điệu của một số từ học sinh viết sai ảnh hưởngcủa phát
âm địa phương, một số trò chơi giúp học sinh phát hiện và sửa lỗi chính tả trong
bài viết. Khi tổ chức chơi, giáo viên cần nêu rõ luận chơi, cách tiến hành luật
chơi để tất cả cho học sinh đều biết cách chơi. Giáo viên nên lựa chọn các trò
chơi có luật đơn giản, có thể dùng để dạy học nhiều hiện tượng chính tả, dễ kiếm
vật liệu để chuẩn bị.
4. Biện pháp 4: Giáo viên phải nắm chắc quy trình dạy chính tả lớp 5
A - Kiểm tra bài cũ (2 - 3')
B - Dạy bài mới
1. Giới thiệu bài (1')
2. Hướng dẫn chính tả (8 - 10')
- Giáo viên đọc mẫu
- Tập viết chữ ghi khó hoặc dễ lẫn
(Đây là bước rất quan trọng giúp học sinh không mắc lỗi chính tả, giáo viên
cần lưu ý).
3. Học sinh viết bài (13 - 15')
4. Hướng dẫn chấm, chữa (4 - 5')
(Đây cũng là bước quan trọng giúp học sinh tìm ra lỗi sai của mình để học

sinh không mắc vào lỗi sai đó nữa).
5. Hướng dẫn bài tập chính tả (6 - 8')
Đây là bước giáo viên cần lưu ý giúp học sinh rèn luyện kỹ năng chính tả.
C. Hoạt động nối tiếp (Củng cố - Dặn dò) (1 - 2')
9
5. Biện pháp 5: Để nâng cao chất lượng phân môn Chính tả cho học
sinh lớp 5 cần:
5.1 Thực hiện soạn bài kế hoạch bài học dạy chính tả một cách nghiêm túc,
chu đáo.
Soạn bài dạy chính tả là công việc của từng giáo viên. Bản chất của hoạt
động soạn bài tập là một kế hoạch thực hiện bài học đảm bảo tính khả thi với
từng lớp học do từng giáo viên phụ trách. Giáo viên xác định mục tiêu của bài
về các phương diện kiến thức, kỹ năng, thái độ. Giáo viên xác định rõ mục tiêu
của bài về các phương diện kiến thức, kỹ năng, thái độ. Giáo viên cần chỉ ra các
đồ dùng dạy học mình tự chuẩn bị hoặc học sinh chuẩn bị ngoài những đồ dùng
do sách giáo viên gợi ý (đồ dùng dạy học bao gồm cả những phiếu học tập, các
đồ dùng để tổ chức trò chơi, tổ chức các cuộc thi cho học sinh). Giáo viên cần
chỉ rõ các hoạt động dạy học cụ thể sẽ thực hiện trong giờ học, cụ thể là từng
hoạt động học sinh làm gì, kết quả cần đạt ra sao, cần củng cố cho học sinh
những kiến thức và kỹ năng nào?
5.2 Người giáo viên phải đặt phân môn Chính tả nằm trong mối quan hệ
giữa các phân môn khác của tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Tập đọc và Luyện
từ và câu.
Học sinh muốn viết đúng từ thì phải hiểu được nghĩa của từ và phát âm
đúng. Trong các giờ Tập đọc chúng ta dành nhiều thời gian hơn cho việc sửa lỗi
phát âm cho học sinh, đặc biệt là hai âm"- n". Giáo viên cần phát âm mẫu cho
học sinh học tập và yêu cầu học sinh phát âm lại cho chính xác. Ngoài ra giáo
viên hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả trên cơ sở hiểu đúng nghĩa của từ.
5.3 Soạn một số bài tập chính tả phù hợp với đặc điểm của học sinh.
Để thực hiện tốt mục tiêu của phân môn chính tả và tránh áp đặt không cần

thiết trong nội dung dạy học, mỗi giáo viên cần chuẩn bị những bài tập chính tả
phù hợp với học sinh lớp mình, trường mình, tương ứng với những phần dạy
chính tả tự chọn trong từng bài học. Công việc soạn bài tập đòi hỏi giáo viên
phải thống kê được những lỗi chính tả mà học sinh lớp mình thường mắc, chọn
những lỗi cần luyện tập trong từng bài học cụ thể, soạn bài tập dưới nhiều dạng
10
để tạo hứng thú cho học sinh. Do đó, giáo viên cần làm công việc này theo nhóm
(ví dụ giáo viên dạy lớp 5 của một trường) để cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm
biên soạn. Giáo viên có thể chuẩn bị một đến hai bài tập để dạy ở một tiết học
chính tả có nội dung tự chọn.
5.4 Một điều rất quan trọng trong việc dạy chính tả cho học sinh vùng
phương ngữ là dạy cho các em biết một số mẹo luật chính tả. Sau đây là một số
mẹo phân biệt "l - n"
* Mẹo 1: Một chữ ta không biết là "n" hay "l " nhưng nó đứng đầu trong
một từ láy âm, không phải là điệp âm thì dứt khoát là"l" chứ không phải là "n"
* Mẹo 2: Khả năng kết hợp âm: "l" đứng trước âm đệm nhưng "n" lại
không đứng trước âm đệm. Do đó "n" không bao giờ đứng trước vần bắt đầu
bằng oa, uê, uy. Trái lại"l'lại đứng trước các vần đó, ví dụ: loan, luân, luyện
* Mẹo 3: Mẹo luật láy âm, điệp âm : "l" láy âm rất rộng rãi, trái lại "n"
không láy âm với một âm nào khác mà chỉ điệp âm âu và cả hai chữ phải cùng
có âm đầu là "l" hoặc "n". Vì vậy ta chri cần biết âm đầu của một chữ là đủ.
Ví dụ: lấp loáng, long lanh, lanh lảnh
no nê, ninh ních, nuồn nuột,
* Mẹo 4: Đối với trường hợp "l" và "n" đứng ở vị trí thứ 2 trong một từ
láy thì:
"n" khi láy âm chỉ láy với "gi" và không láy với âm nào khác. Trái lại"l"
không láy với "gi" mà láy với các âm khác (ngoại lệ có khúm núm, khệ nệ).
* Mẹo 5: Những chữ không phân biệt được là "l" hay "n" nhưng đồng
nghĩa với một số từ khác với "nh" thì chữ ấy phải là "l".
Ví dụ: lăm le (nhăm nhe)

lỡ làng (nhỡ nhàng"
Tuy nhiên, tất cả các mẹo luật trên chỉ ở mức độ tương đối, người giáo viên
phải biết vận dụng linh hoạt để giảng dạy cho học sinh.
11
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Qua việc tìm hiểu nguyên nhân và xác định được những trọng điểm
chính tả cho học sinh ở trường Tiểu học Gia Cẩm , tôi đã đưa ra một số
biện pháp cùng với ban giám hiệu và tập thể giáo viên nhà trường áp dụng
và thực nghiệm giảng dạy trên khối lớp 5 của trường. Qua gần một năm
học, được sự chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên
môn, cùng với sự nỗ lực của tập thể giáo viên khối 5 chúng tôi đã thu được
một kết quả cụ thể như sau:
STT Lớp
Tổng
số
Các lỗi chính tả thường mắc
l - n d/gi/r/ch;tr/s/x Cấu trúc âm tiết
1 5A 48 0 em 2 em 0em
2 5B 48 0 em 1 em 1 em
3 5C 43 1 em 2 em 0 em
4 5D 42 2 em 3 em 0 em
5 5E 48 1em 1em 1em
6 5G 45 0em 2em 1em
7 5H 43 1em 1em 0em
* Hiệu quả: Sau khi áp dụng một số biện pháp được trình bày ở phần trên
tôi thấy số lượng học sinh mắc các lỗi chính tả giảm đi rõ rệt.
12
PHẦN III .KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luân: Việc tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
phân môn Chính tả cho học sinh lớp 5 là hết sức quan trọng và cần thiết. Chúng

ta đang thực hiện Luật Phổ cập Giáo dục Tiểu học để tạo nên một mặt bằng dân
trí. Tuy nhiên, trình độ dân trí có đồng đều hay không tuỳ thuộc vào chất lượng
giảng dạy và học tập của mỗi địa phương. Là một giáo viên dạy học trên cùng
phương ngữ tôi thấy cần phải trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản và
cần thiết mang tính chuẩn mực để các em có đầy đủ năng lực học tiếp lên các
lớp trên và giao tiếp với xã hội một cách tự tin, chững chạc.
Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm là: Giáo viên phải yêu nghề, tâm huyết với nghề, luôn đổi mới
phương pháp dạy - học gây hứng thú để lôi cuốn học sinh học tập tích cực, sáng
tạo phát huy trí lực của mỗi học sinh.
2.Ý kiến đề xuất: Qua đi sâu nghiên cứu chuyên đề: Một số biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng phân môn chính tả cho học sinh lớp 5" tôi đã tìm
hiểu được các cơ sở lý luận, xác định được chất lượng chính tả của học sinh
trường tiểu học Gia Cẩm , từ đó đề ra những biện pháp cần thiết. Đây là nhiệm
vụ của mỗi người giáo viên nói chung và của giáo viên trường Tiểu học Gia
Cẩm nói riêng. Nhiệm vụ này không chỉ tiến hành trong một thời gian ngắn mà
cho ta kết quả tốt ngay được, nó phải được tiến hành trong một thời gian dài với
sự đồng bộ của các khối lớp. Tuy nhiên nhiệm vụ này có hoàn thành triệt để hay
không chúng tôi cũng cần có sự giúp đỡ của các cấp, các ngành có liên quan.
Đối với các cấp lãnh đạo Sở - Phòng Giáo dục: nên thường xuyên mở các
chuyên đề về phương pháp dạy chính tả để nâng cao chất lượng chữ viết cho học
sinh.
Trên đây là một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng phân môn Chính
tả cho học sinh lớp 5. Do điều kiện thời gian và trình độ có hạn, chuyên đề sẽ có
nhiều hạn chế . Rất mong sự đóng góp ý kiến của lãnh đạo chuyên môn các cấp
và bạn bè đồng nghiệp.
13
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Tiểu học Gia Cẩm và các
đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề này!
Xin trân trọng cảm ơn!

Gia CÈm, năm 2014
Người viết SKKN
Trần Thị Thu Hường
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Huệ, Tâm lý Tiểu học, năm 1994
2. Nguyễn Minh Thuyết( chủ biên), SGK Tiếng Việt 5, NXB Giáo dục, năm
2012
3. Lê Văn Hồng, Tâm lý học Sư phạm, năm 1994
4. Lê Phương Nga, Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học, năm 2005
15

×