Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

góp cách dạy một chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn bậc thcs đề mở và cách làm bài văn theo một số dạng đề mở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.88 KB, 88 trang )

TÊN ĐỀ TÀI:
"GÓP CÁCH DẠY MỘT CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
MÔN NGỮ VĂN BẬC THCS: ĐỀ MỞ VÀ CÁCH LÀM BÀI VĂN THEO
MỘT SỐ DẠNG ĐỀ MỞ"
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Những năm qua, giáo dục nói chung, môn Ngữ văn nói riêng đã từng bước
thực sự đi vào sự đổi mới về mọi mặt. Vì vậy, Ngữ văn đã góp một phần rất lớn
vào mục tiêu đào tạo. Một trong những nội dung đổi mới hàng đầu phải kể đến đó
là đổi mới kiểm tra đánh giá. Và có thể khẳng định, biểu hiện rõ nhất, đáng ghi
nhận nhất ở người chỉ đạo cho đến người thực hiện, ở người dạy cũng như người
học trong khâu kiểm tra đánh giá chính là những đề bài và những bài văn theo
hướng mở.
Trong chương trình Ngữ văn THCS hiện nay, thống kê sơ bộ có đến khoảng
50 đề ra là đề mở. Con số đó quả là không nhỏ để cả giáo viên và học sinh từ việc
dạy học đại trà cho đến học sinh giỏi đều phải lưu tâm.
Theo dõi đề thi của các nước trên thế giới cũng như đề thi HSG các cấp của
nước ta mấy năm qua, chúng ta thấy càng ngày lượng đề thi theo hướng mở càng
nhiều, càng hay. Học sinh đã dần quen với dạng đề này và đã tạo nên những bài
văn rất thuyết phục.
Tài liệu tập huấn giáo viên "Dạy học, kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức,
kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn cấp THCS" của Bộ
GD & ĐT tháng 7 năm 2010 trang 73 đánh giá :"Phong trào đổi mới cách ra đề thi
theo hướng mở, phát huy tính tích cực của học sinh đã dấy lên ở nhiều địa phương
và đã thu được những thành tựu đáng kể". Bộ cũng chỉ đạo "Trong quá trình dạy
học cần đổi mới kiểm tra, đánh giá bằng cách nêu vấn đề mở, đòi hỏi học sinh phải
vận dụng tổng hợp kiến thức - kỹ năng và biểu đạt chính kiến của bản thân".
Như vậy, lượng đề mở trong SGK, tinh thần chỉ đạo, thực tiễn đề thi đại trà
cho đến thi học sinh giỏi các cấp, đề mở ngày càng nhiều, càng cần phải có. Điều
đó đã khẳng định vị trí quan trọng của đề mở, cách dạy đề mở để phục vụ cho thực
tiễn dạy học và mục tiêu đào tạo.


Ở phòng giáo dục và Đào tạo huyện Đô lương nói chung và trường THCS Lý
Nhật Quang chúng tôi nói riêng, công tác mũi nhọn luôn là mối quan tâm hàng
đầu. Hàng chục năm qua, chất lượng học sinh giỏi của trường và của huyện luôn
đứng ở vị thứ tốp đầu trong toàn tỉnh. Tên tuổi của trường đã được khẳng định
không những ở trong tỉnh mà còn rộng ra khắp toàn quốc. Để có thành tích đó,
phải là công của rất nhiều người , trong đó có đội ngũ thầy trò môn Ngữ văn. Thế
1
nhưng, 3 năm học liền kề của trường khi chưa thực hiện SKKN này, đội tuyển môn
Ngữ văn của trường và cũng là của huyện lại không dành được kết quả như mong
đợi. Những năm đó, ở kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, trong lúc các môn khác vẫn giữ
được phong độ thì môn Ngữ văn chỉ đạt được kết quả như sau:
Năm học 2009 - 2010: 4/ 10 em đậu đều đạt giải khuyến khích.
Năm học 2010 - 2011: 3/8 em đậu, trong đó có một giải ba, 2 giải kk.
Năm học 2011 - 2012: 1/8 em đậu giải nhì.
Nhìn lại kết quả đó, chúng tôi thực sự buồn và lo nghĩ. Chúng tôi đã trở trăn
rất nhiều và họp nhóm thảo luận, tìm nguyên nhân, giải pháp Bước vào năm học
liền kề - năm học 2012-2013, phòng và trường giao nhiệm vụ cho tôi phụ trách
chính công tác bồi dưỡng học sinh giỏi tỉnh. Áp lực đè nặng lên cô trò cũng như
nhóm ngữ văn của trường: Làm sao để lấy lại phong độ, làm sao để lấy lại niềm
tin? Tôi thiết nghĩ, trong công tác bồi dưỡng HSG, dạy cho học sinh những gì và
dạy như thế nào luôn là những boăn khoăn, trăn trở của những người luôn tâm
huyết với nhiệm vụ vinh dự nhưng cũng nhọc nhằn này. Nhưng có một chuyên đề
mà theo chúng tôi, không thể không dạy cho học sinh giỏi trong giai đoạn này, cho
quá khứ, cho cả tương lai, đó chính là đề mở, cách làm đề mở.Trước đó, năm học
2008-2009 tôi cũng trực tiếp đứng chính đội tuyển và có áp dụng việc dạy đề mở,
lúc đó tôi nghĩ giờ càng phải dạy nhiều( 3 năm học kết quả không cao mà tôi nêu
ra ở trên tôi không đứng chính mà chỉ hỗ trợ cho đồng nghiệp). Vì vậy, năm học
2012-2013 tôi đã dạy cho học sinh chuyên đề ở SKKN này và thu được kết quả
cao( có số liệu minh chứng ở phần V - kết quả). Thực tế kết quả trước và sau khi
thực hiện SKKN là hoàn toàn khác nhau theo hướng tốt đẹp là một nguyên nhân

thúc dục tôi thực hiện viết SKKN này. Dẫu biết rằng kết quả đội tuyển đi lên còn
do nhiều lý do, do công của nhiều người hỗ trợ nhưng dù sao bản thân tôi và việc
đổi mới cách dạy, cách học trong đó liên quan đến chuyên đề ở SK này là không
thể phủ nhận.
Thế nhưng trong thực tiễn, làm sao để có một quan niệm, một khái niệm đầy
đủ thuyết phục về đề mở, về các dạng đề mở, làm sao để có một giáo án cụ thể về
những cách làm cụ thể cho từng dạng đề mở, tạo điều kiện cho người dạy và người
học thực hiện mục đích, yêu cầu. Đó là mong muốn của những người trực tiếp bồi
dưỡng học sinh giỏi.Thế mà có thể khẳng định chưa có một bài viết, SKKN nào đề
cập cụ thể, triệt để vấn đề. Tài liệu SGK không bàn cụ thể, cuộc thi ra đề và làm
bài theo hướng mở ở tạp chí " Văn học và tuổi trẻ", một số bài viết liên quan trên
tạp chí, trong thông tin mạng chúng tôi luôn để ý, theo dõi nhưng đều ở mức độ vỡ
vạc, sơ lược, chung chung, giáo viên và học sinh mò mẫm, chủ quan làm mà chưa
có một định hướng cụ thể nào cả.
Năm học 2013 - 2014, nắm bắt tầm quan trọng cũng như mức độ cần thiết
của vấn đề, là một trường chất lượng cao của huyện, Ban giám hiệu, tổ, nhóm
chuyên môn trong trường chúng tôi cũng đã coi đây là vấn đề mới - khó - hay, cần
2
thiết cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi nên đã thảo luận, thống nhất, thể nghiệm…
Nhà trường, tổ, nhóm đã tin tưởng và tạo điều kiện phân công tôi dạy chuyên đề
này cho đội tuyển HSG tỉnh lớp 9. Sau khi lắng nghe học hỏi đồng nghiệp, vừa kết
hợp trí tuệ tập thể vừa có sự sáng tạo, bổ sung, dày công tìm hiểu, thể nghiệm của
bản thân liên tục mấy năm qua cũng như trong năm học này, kết quả bước đầu
chúng tôi thấy tương đối khả quan.
Từ đó, nhằm giúp đồng nghiệp gần xa thêm một chuyên đề bồi dưỡng HSG,
để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trên, nhằm đưa ra một giải pháp cụ thể
để giáo viên, học sinh có thể áp dụng ngay vào dạy học, tôi mạnh dạn viết sáng
kiến kinh nghiệm: "Góp cách dạy một chuyên đề bồi dưỡng HSG môn Ngữ văn
bậc THCS: Đề mở và cách làm bài văn theo một số dạng đề mở".
II. NHỮNG BIỆN PHÁP HOẠT ĐỘNG ĐỂ THỰC HIỆN SKKN

- Thu nhập thông tin qua đồng nghiệp, học trò, tài liệu…
- Sưu tầm để mở, phân nhóm, nghiên cứu cách dạy từng nhóm một cách cụ
thể.
- Tham khảo tất cả những tài liệu liên quan
- Nắm bắt nguyện vọng của giáo viên dạy bồi dưỡng học sinh giỏi, nguyện
vọng của học sinh khi học Ngữ văn, tham gia đội tuyển.
- Hội thảo vấn đề ở nhóm, tổ, trao đổi với đồng nghiệp trong và ngoài trường,
cá nhân và các thành viên trong nhóm soạn bài, trao đổi, thống nhất, dạy thể
nghiêm, rút kinh nghiệm, cá nhân bổ sung, sáng tạo thêm, dạy chuyên đề này nhiều
năm cho đội tuyển những em dự thi tỉnh.
- Nghiên cứu những bài viết liên quan đến vấn đề.
- Nắm bắt sự chỉ đạo của ngành, thấm nhuần chủ trương đổi mới phương pháp
dạy học, của kiểm tra đánh giá trong tình hình mới.
- Dạy thử nghiệm nhiều năm cho đội tuyển dự thi Tỉnh.
- Kết quả thực tế đã có hiệu quả khá cao ( minh chứng cụ thể qua số liệu ở
phần kết quả mục V của SKKN).
Từ những biện pháp và nguyên nhân cơ bản trên, chúng tôi đã tiến hành viết
SKKN.
III. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài gồm có 3 phần lớn:
Phần A: Đặt vấn đề:
I. Lý do chọn đề tài: Người viết đưa ra những lý do cơ bản dẫn tới việc viết
SKKN
II. Những biện pháp, hoạt động để thực hiện SKKN
3
III. Cấu trúc của đề tài
Phần B: nội dung
I. Thực trạng về đề mở, cách làm đề mở.
II. Những giải pháp cơ bản khi dạy, học chuyên đề " Đề mở và cách làm bài
văn theo một số dạng đề mở".

III. Giáo án minh họa cụ thể
Người viết soạn 5 giáo án cho 5 buổi lên lớp bồi dưỡng HSG đầy đủ các phần
cụ thể với chuyên đề: Đề mở và cách làm bài văn theo một số dạng đề mở.
IV. Một số đề mở và bài làm của học sinh
Người viết ghi lại một số đề mở do bản thân tự biên soạn là chính và những
bài làm của học sinh đội tuyển tỉnh ở huyện tôi những năm qua tôi còn lưu giữ.
V. Kết quả: Đưa ra một số kết quả chứng tỏ hiệu quả của vấn đề sau khi áp
dụng đề tài
VI. Khả năng ứng dụng, triển khai của SKKN.
Phần C. Kết luận chung
Là lời kết luận của đề tài và những kiến nghị, đề xuất của người viết.
4
B. NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VỀ “ĐỀ MỞ, CÁCH LÀM ĐỀ MỞ”.
1, Thực trạng về đề mở trong chương trình: Chương trình Ngữ văn THCS
từ khi đổi mới đến nay, bên cạnh đề truyền thống, thống kê ở các khối lớp qua
sách giáo khoa đều có đề mở và có nhiều hơn ở lớp 9. Cụ thể là :
Lớp 6:
Đề 1: Kỷ niệm ngày thơ ấu.
Đề 2: Ngày sinh nhật của em.
Đề 3: Quê em đổi mới.
Đề 4: Em đã lớn rồi.
(Bài 4 - Trang 37)
Lớp 7:
Đề 1: Vui buồn tuổi thơ.
Đê 2: Loài cây em yêu.
(Bài 6, trang 88)
Đề 3: Lối sống giản dị của Bác Hồ.
Đề 4: Tiếng Việt giàu đẹp.
Đề 5: Thuốc đắng giã tật.

Đề 6: Thất bại là mẹ thành công.
Đề 7: Không thể sống thiếu tình bạn.
Đề 8: Hãy biết quý thời gian.
Đề 9: Chớ nên tự phụ.
Đề 10: "Không thầy đố mày làm nên" và "Học thầy không tày học bạn" có
mâu thuẫn với nhau không?
Đề 11: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.
Đề 12: "Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau" nên chăng?
Đề 13: "Thật thà là cha dại" phải chăng? (Bài 19, trang 21)
Đề 14: Sách là người bạn lớn của con người. (Bài 19, trang 23)
Lớp 8:
Đề 1: Người ấy sống mãi trong lòng tôi.
Đề 2: Tôi thấy mình đã khôn lớn. (Bài 3, trang 37)
Đề 3: Trang phục và văn hóa. (Bài 29, trang 124)
5
Đề 4: Tuổi trẻ và tương lai đất nước.
Đề 5: Văn học và tình thương.
Đề 6: Hãy nói "không" với các tệ nạn.
(Bài 30, trang 128)
Lớp 9:
Đề 1: Con trâu ở làng quê Việt Nam. (Bài 2, trang 28)
Đề 2: Cây lúa Việt Nam.
Đề 3: Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em.
Đề 4: Một nét đặc sắc trong di tích, thắng cảnh quê em.
(Bài 3, trang 42)
Đề 5: Vẻ đẹp trong cách sống, trong tâm hồn và những suy nghĩ của nhân vật
anh thanh niên một mình trên trạm khí tượng giữa núi cao trong truyện "Lặng lẽ Sa
pa" của Nguyễn Thành Long.
Đề 6: Tình yêu con và lòng yêu nước, gắn bó với cách mạng của người mẹ
Tà- ôi biểu hiện trong những lời ru ở bài thơ "Khúc hát ru những em bé lớn lên

trên lưng mẹ" của Nguyễn Khoa Điềm. (Bài 15, trang 46)
Đề 7: Đạo lí "Uống nước nhớ nguồn".
Đề 8: Đức tính khiêm nhường.
Đề 9: Có chí thì nên.
Đề 10: Đức tính trung thực.
Đề 11: Tinh thần tự học.
Đề 12: Hút thuốc lá có hại.
Đề 13: Lòng biết ơn thầy cô giáo. (Bài 22, trang 52)
Đề 14: Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài "Bài thơ về tiểu đội xe
không kính" của Phạm Tiến Duật (Bài 24, trang 79)
Đề 15: Những đặc sắc trong bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương. (Bài
24, trang 80)
Đề 16: Số phận và tính cách nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn "Lão Hạc"
của Nam Cao.
Đề 17: Vẻ mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ "Mây và Sóng" của Ta-go.
Đề 18: Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" của Hồ Chí Minh.
Đề 19: Hình ảnh "Bếp lửa" trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt
(Bài 26, trang 99)
6
Đề 20: Bếp lửa sưởi ấm một đời - Bàn về bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt.
(Bài 27, trang 112)
2, Đề mở, cách làm đề mở trong thi cử, báo chí, tài liệu
- Lượng đề thi theo hướng mở trong các kỳ thi nhất là thi học sinh giỏi ngày
càng chiếm ưu thế, gần như là 100%, đề nào cũng có một câu hoặc cả đề.
- Báo "Văn học và tuổi trẻ" từ ngày 1/4/2011 đến 30/8/2012, sau đó tiếp tục
phát động một thời gian nữa, đã tổ chức cuộc thi "Ra đề và viết văn theo hướng
mở" (Trao giải ngày 20/11/2012 ). Quy định nội dung thi như sau:
+ Giáo viên ra đề bài theo hướng mở. Đề bài chỉ nêu vấn đề cần bàn luận,
hoặc đề tài cần thể hiện. Mỗi đề dự thi có kèm theo đáp án hoặc gợi ý cách làm
được soạn theo hướng mở, định hướng một số cách giải quyết vấn đề hoặc triển

khai đề tài.
+ Học sinh lựa chọn bài dự thi được giới thiệu trên "Văn học và tuổi trẻ" để
tham gia viết bài. Học sinh cần căn cứ vào nội dung vấn đề, hoặc đề tài được nêu
trong đề mà lựa chọn và xác định các phương thức biểu đạt phù hợp (Ví dụ: Nghị
luận văn học, nghị luận xã hội hoặc tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh…)
khuyến khích những bài viết thể hiện dấu ấn sáng tạo, có những suy nghĩ, cách
cảm thụ riêng, độc đáo của cá nhân".
Theo định hướng đó, nhiều giáo viên và học sinh đã hưởng ứng, có nhiều đề
bài hay và nhiều bài văn thuyết phục, hấp dẫn. Tuy nhiên để có khái niệm về đề
mở, cách làm từ khái quát đến cụ thể theo dạng để giáo viên, học sinh tham khảo
thì lại không có. Có thể nói giáo viên, học sinh đang làm theo cảm nhận chủ quan,
mò mẫm là chính.
- Tháng 6 năm 2012, tòa soạn "Văn học và tuổi trẻ" đã cho ra đời cuốn sách
"Tuyển tập đề bài và bài văn theo hướng mở" (tập 1); tháng 9 năm 2013 tiếp tục
xuất bản tập 2 do Nhà xuất bản GDVN ấn hành. Có thể nói đây là 2 cuốn sách rất
quý phục vụ cho giáo viên, học sinh trong quá trình bồi dưỡng HSG. Khi chúng tôi
bồi dưỡng đội tuyển HSG dự thi tỉnh năm qua cũng như năm học này (2013-2014),
đây là tài liệu chúng tôi nâng niu, vận dụng nhiều. Bởi cuốn sách là tập hợp trí tuệ,
niềm say mê của hàng trăm giáo viên, học sinh với hơn 100 đề mở, đáp án mở, bài
văn theo hướng mở. Nhưng dù sao cuốn sách cũng chỉ là sự tập hợp lại những đề
bài, đáp án và bài viết từ các tập cụ thể của tạp chí "Văn học và tuổi trẻ", điều
chúng tôi, những người trực tiếp hướng dẫn HSG cần thêm là những quan điểm
thống nhất về đề mở, chia nhóm đề, cách làm từng dạng bài, cách dạy cụ thể, thì lại
không có. Háo hức, cố tình đọc kĩ lời giới thiệu cho đến từng trang bài từ đầu đến
cuối sách, vẫn không thể có. Vậy là phải mò mẫm xây dựng.
- Trong tạp chí "Văn học và tuổi trẻ" số 1 (451) năm 2012, NXB GDVN của
Bộ GD&ĐT trang 17, 18, 19, 21, 21, chúng tôi vui mừng được đọc bài viết của
GS.TS Trần Đình Sử khoa Ngữ Văn - ĐH SP Hà Nội với tên bài "Đề mở trong
7
dạy - học làm văn". Bài viết này đã thể hiện quan điểm khá khách quan, hợp lí của

giáo sư về đề mở, đặc biệt là giáo sư đã chia nhóm đề mở thành 3 loại:
+ Đề cho đề tài.
+ Đề cho tài liệu.
+ Đề cho HS điền vào chỗ trống.
Mỗi loại đề, giáo sư đã đưa ra 1 số ví dụ và 1 vài định hướng cách làm. Cuối
bài viết là sự đánh giá ưu, nhược điểm; cái hay nhưng lại khó của đề mở đối với
người dạy và người học. Theo chúng tôi, đây là 1 bài viết rất quý giá, mang tính
định hướng tương đối sát thực cho GV HS. Vì vậy, chúng tôi đã vận dụng ý kiến
của Giáo sư khi dạy HS chia dạng và 1 số định hướng cách làm. Tuy nhiên, bài
viết cũng chưa nêu rõ khái niệm đề mở, cách làm cụ thể từng dạng. Vì thế, SKKN
của chúng tôi sẽ trình bày thêm để khắc phục điều đó.
- Sau bài viết của Giáo sư, tạp chí có nhắn nhủ "Mời các bạn tiếp tục tham gia
viết bài trao đổi về vấn đề "Đề mở trong dạy - học làm văn". Hưởng ứng điều đó,
trong tạp chí "VH và TT" số 23 (255) năm 2012 trang 25 có bài viết của thạc sĩ Bùi
Minh Tuấn, Giáo viên trường THPT Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An với
tên bài "Nên khuyến khích dạng đề mở". Bài viết cũng trao đổi về tình hình dạy
học đề mở, ưu điểm của đề mở, một số yêu cầu định hướng khi ra đề, làm đáp án,
viết bài theo đề mở. Bài viết ngắn không đầy một trang đánh máy cũng đang ở
mức sơ lược nên chưa giúp được gì nhiều cho thực tiễn dạy học.
- Rà soát, tìm kiếm trên mạng về những bài liên quan đến vấn đề, lượng bài
tham gia đang chưa được nhiều và cũng chưa cụ thể như mong muốn. Cũng có một
số bài đã hé mở khái niệm về đề mở như bài viết của một giáo viên trường THCS
Nam Cao, tỉnh Hà Nam hay bài viết của Hùng Phi Chường, Giáo viên trường
THCS Đức Trí, Thành phố Hồ Chí Minh. Các ý kiến phát biểu: "Đề bài mở là một
đề bài không có mệnh lệnh đề cụ thể mà người viết phải tự xác định nội dung, yêu
cầu và thể loại để làm bài". Quan niệm đó theo chúng tôi là gần đúng chứ chưa
đúng, chưa đủ.
- Trong thực tế dạy học, thi cử, giáo viên và học sinh nói chung và nhất là
giáo viên và học sinh tham gia công tác học sinh giỏi, tất cả hầu như đã quan tâm,
thậm chí rất chú trọng vấn đề này. Riêng ở tỉnh Nghệ An trong kỳ thi giáo viên dạy

giỏi tỉnh năm học 2012-2013 ngày 28 tháng 12, đề thi cũng có câu 1, hỏi "Ý kiến
của anh chị về đề mở và đáp án chấm mở trong kiểm tra đánh giá của môn Ngữ
văn hiện nay". Ở huyện chúng tôi năm học này, thi giáo viên giỏi huyện cũng có
một câu hỏi về đề mở. Có lẽ ai cũng thừa nhận sự cần thiết phải đổi mới ra đề và
làm bài theo hướng mở. Đề mở rất hợp cho đối tượng học sinh giỏi, định hướng
đúng cho mục tiêu dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, kết hợp
dạy học lý thuyết với thực hành, rèn kỹ năng sống cho người học… Tất cả những
điều đó đều liên quan đến đề mở. Tuy nhiên ở đơn vị chúng tôi cũng như những
đồng nghiệp xung quanh, những lúng túng băn khoăn, mệt nhọc khi dạy về vấn đề
8
này là đang rất nhiều. Ví dụ: Quan niệm thế nào là đề mở? Nên chia dạng đề mở
thế nào là hợp lý? Cách làm từng dạng cụ thể như thế nào? Thực hiện chuyên đề
này với đối tượng HSG ra sao cho hiệu quả? Làm sao để học sinh viết một cách tự
tin, thuyết phục bất kỳ một đề mở nào? Từ thực tế trên, chúng tôi đã nghiên cứu,
thể nghiệm chuyên đề và xin được trình bày cụ thể ở phần sau.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN KHI DẠY, HỌC CHUYÊN ĐỀ: ĐỀ
MỞ VÀ CÁCH LÀM BÀI VĂN THEO MỘT SỐ DẠNG ĐỀ MỞ:
1, Đối với giáo viên:
a, Trước khi dạy:
- Cần lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của học sinh. Đây là đối tượng trung tâm
để mình thực hiện mục tiêu. Chuyên đề có hiệu quả không, khâu đầu tiên là ở học
sinh. Qua lời tâm sự, tôi thấy các em rất thích học và làm đề mở, các em khâm
phục những bạn làm được những bài văn hay theo đề mở đăng trên các báo và luôn
có ý thức học hỏi. Tuy nhiên cũng có những đề các em thấy khó, không biết viết
như thế nào? Nếu chỉ định hướng chung chung, các em vẫn thấy khó viết. Phải
chăng, chúng ta nên vừa có định hướng chung vừa cần phải có một định hướng cụ
thể về từng dạng bài cho các em. Chính vì vậy mà trong thiết kế bài giảng, chúng
ta cố gắng đi theo hướng này.
- Cần nắm vững mục tiêu đào tạo của giáo dục nói chung, tinh thần đổi mới
kiểm tra, đánh giá nói riêng, nắm vững nhiệm vụ đặc thù của môn Ngữ văn, nhiệm

vụ của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi để dạy về đề mở tự tin, đúng tinh thần
chỉ đạo.
- Chuẩn bị tốt những tài liệu liên quan đến đề mở, nghiên cứu chúng nhằm
phục vụ tốt nhất cho việc dạy học. Tài liệu nên tinh lọc, cập nhật. Trước những tài
liệu liên quan mà mình đã dày công sưu tập, chọn và làm những gì để phục vụ tốt
nhất cho dạy , học về đề mở cũng là cả một vấn đề. Ví dụ: với dạng đề cho tài liệu
là những mẩu chuyện, nguồn tìm kiếm những chuyện đó là ở nguồn in tơ nét, ở
SGK, tư liệu tham khảo môn Ngữ văn, ở các sách " Quà tặng cuộc sống", ở truyện
cổ, ở tạp chí" Văn học và tuổi trẻ" Các chuyện được chọn để làm đề mở thường
ngắn, hay và giàu ý nghĩa, ẩn chứa trong đó những bài học đạo đức , những vấn đề
nhân sinh, những tư tưởng, Nên hướng dẫn chc sinh nên mua tài liệu nào và
cách dùng. Theo chúng tôi, nên có những tài liệu sau:
+ Tạp chí "Văn học và tuổi trẻ" (Các tập từ 2008 đến nay)
+ Sách "Tuyển tập đề bài và bài văn theo hướng mở" (2 tập) do Thân Phương
Thu tuyển chọn, NXB Giáo dục Việt Nam năm 2012(tập 1), năm 2013(tập 2).
+ Sách "Tuyển tập đề thi Olympic lần thứ XVIII 2012 môn Ngữ Văn" của nhà
xuất bản Đại học sư phạm.
+ Sách "Tuyển tập đề bài và bài văn Nghị luận xã hội" (2 tập) do Nguyễn Văn
Tùng và Thân Phương Thu tuyển chọn của NXB GD Việt Nam.
9
- Suy nghĩ, nắm được những kiến thức liên quan đến vấn đề một cách tối ưu
nhất. Với chuyên đề này, làm được điều này cũng không phải đơn giản. Bởi vì như
phần thực trạng tôi đã trao đổi, đây vẫn đang là một vấn đề mới và khó, vì vậy tài
liệu đề cập đang chưa nhiều và chưa cụ thể, thống nhất. Nhưng theo chúng tôi, cần
thống nhất quan niệm về đề mở, chia dạng đề mở, xác định được ưu nhược của đề
mở và cách làm đáp án theo hướng mở, kiến thức về cách làm từng dạng cụ thể.
Trước hết chúng tôi xin trao đổi về khái niệm đề mở . Một số ý kiến đã phát biểu
về vấn đề này nhưng họ quan niệm chủ yếu rằng đề mở là đề không có mệnh lệnh.
Trong kỳ thi Giáo viên giỏi tỉnh Nghệ An, đáp án cho câu hỏi thế nào là đề mở
cũng không nêu cụ thể. Để thống nhất về vấn đề này, chúng ta cùng tham khảo một

số đề sau:
* Một số đề của SGK, đồng nghiệp và bản thân :
Đề 1. Loài cây em yêu.
Đề 2. Một kỉ niệm tuổi ấu thơ.
Đề 3. Về hình ảnh người phụ nữ trong một số tác phẩm văn học trung đại Việt
Nam đã học.
Đề 4. Viết lời tri ân đối với một tác giả văn học.
Đề 5. Tiếng đồng hồ tích tắc trong đêm khuya.
Đề 6. Về một bài thơ hay và đẹp.
Đề 7. Người học sinh hiện nay cần
Đề 8. Em ước mong
Đề 9. Những suy nghĩ của em từ bài thơ “Đất”
“Đất muốn nói điều chi thế
Mà không nói được với người
Mà rạo rực trong quả ngọt
Mà rưng rưng màu lá tươi.”
( Trần Đăng Khoa)
Đề 10. Đọc đoạn tài liệu dưới đây, chọn vấn đề, chủ đề để viết bài văn biểu
cảm hoặc nghị luận không quá 800 chữ:
Chiều ngày 30 – 4 – 2013, bên bờ sông Lam, đoạn chảy qua xã Trung Sơn-
huyện Đô Lương- Tỉnh Nghệ An, Nguyễn Văn Nam (học sinh lớp 12 T7, Trường
THPT Đô Lương I) nghe thấy tiếng kêu cứu có người chết đuối dưới sông, em liền
chạy đến. Thấy một nhóm học sinh đang chới với dưới nước, Nam đã nhảy xuống,
lần lượt cứu được 3 học sinh lớp 9 và một học sinh lớp 6. Khi đẩy được em thứ 5
vào bờ, thì Nam đã kiệt sức và bị dòng nước cuốn trôi”. (Theo Khánh Hoan-
Thanhnienoline, ngày 6-5-2013).
10
* Một số đề của một số tỉnh ở Trung Quốc( Chúng ta cũng nên tham khảo để
mở rộng tầm nhìn phục vụ tốt hơn cho việc dạy học sinh giỏi thời nay)
- Tỉnh An Huy: Viết một bài với chủ đề: " Hiểu cuộc sống, hiểu cha mẹ".

- Bắc Kinh: Viết một bài với tiêu đề: " Một nét chấm phá về Bắc Kinh".
- Tỉnh Triết Giang: " Cuộc sống cần nghỉ ngơi, cuộc sống không ngơi nghỉ".
Em có suy nghĩ gì về vấn đề này?
- Thượng Hải: Chủ đề: Tôi muốn nắm chặt tay bạn.
- Tỉnh Giang Tô: Lỗ Tấn nói: " Trước kia thế giới vốn không có đường,
người đi nhiều nên đã tạo ra đường. Cũng có người nói thế giới vốn ngay từ đầu đã
có đường, người đi nhiều nên đường bị mất đi".
Lấy chủ đề con người và con đường để viết một bài khoảng 800 chữ.
- Tỉnh Quảng Đông: Một nhà điêu khắc đang khắc một tảng đá, bức tượng
vẫn chưa thành hình. Dần dần đôi vai đã lộ ra. Cuối cùng nhà điêu khắc đã tạc ra
tượng một thiên sứ xinh đẹp. Một bé gái nhìn thấy liền hỏi: Làm sao ông biết trong
tảng đá có dấu thiên sứ ? Nhà điêu khắc nói: Trong đá vốn không có thiên sứ
nhưng ta đã dồn hết tâm trí để tạc.
Lấy thiên sứ trong lòng nhà điêu khắc làm chủ đề để viết một bài dài khoảng
800 chữ.
- Tỉnh Tứ Xuyên: Trong cuộc sống, có rất nhiều câu hỏi, có người ham hỏi, có
người ngại hỏi. Hãy lấy " Hỏi" làm chủ đề viết bài không dưới 800 chữ.
- Tỉnh Giang Tây: Có con chim yến nọ sau khi ấp trứng trở nên rất béo không
bay cao lên được. Mẹ của chim yến khuyên nó nên tăng cường tập luyện để giảm
béo, như thế mới có thể bay được cao.
Lấy" Chim én giảm béo" làm chủ đề, tự đặt chủ đề, viết bài.
- Tỉnh Sơn Đông: Có một câu chuyện ngụ ngôn: Đứng từ dưới đất nhìn lên
con người đều nhìn thấy sao trời lấp lánh sáng ngời, nhưng khi con người tiến gần
sao trời sẽ phát hiện ra rằng các ngôi sao cũng giống như trái đất- gồ ghề, không
bằng phẳng, xung quanh đầy bụi bặm".
Cảm nhận điều gì về vấn đề trên ?
- Tỉnh Trùng Khánh: Bước đi và dừng lại là hiện tượng thường gặp trong cuộc
sống. Nó đã giúp chúng ta suy nghĩ và liên tưởng về tự nhiên xã hội, lịch sử, nhân
sinh.
Lấy chủ đề" Bước đi và dừng lại"để viết một bài văn.

- Tỉnh Liên Ninh: Lấy " Đôi vai " làm chủ đề để viết bài văn khoảng 800 chữ.
Qua các đề bài trên, ta thấy dù trong hay ngoài nước thì đề mở thường có
những điểm giống nhau đó là: Đều đã cho trước đề tài, vấn đề, tài liệu; và nhất là
11
đều có một phần nào đó rất mở, không gò bó, mà cho phép học sinh được tự do suy
nghĩ, lựa chọn để phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Còn điểm khác nhau
( Xét các đề của SGK, đồng nghiệp và bản thân nói trên), ta thấy:
+ Về hình thức: có đề không có mệnh lệnh (1,2,3,4,5,6,7,8) nên người viết tự
do lựa chọn phương thức biểu đạt, kiểu văn bản; có đề có mệnh lệnh (9,10) yêu cầu
rõ về phương thức biểu đạt, kiểu văn bản cần tạo lập.
+ Nội dung: có đề cho đề tài, vấn đề, tài liệu rất cụ thể (3,5), có đề cũng cho
đề tài, vấn đề, tài liệu nhưng không cụ thể, buộc người viết phải lựa chọn (1,2, 4, 6,
7,8,9,10.
Từ thực tế ví dụ về các đề mở, chúng ta mới thấy, nếu quan niệm về đề mở là
"đề không có mệnh lệnh" thì chưa đủ. Quả thật, đề mở chủ yếu là đề không có
mệnh lệnh nhưng vẫn có những đề không có mệnh lệnh mà vẫn mở, đó là mở về
chủ đề, về nội dung, về sự bày tỏ quan điểm Có quan niệm đúng, đủ về đề mở thì
mới dạy thuyết phục, mới có hướng giải quyết thấu đáo. Vì vậy, theo chúng tôi:
Đề mở là đề bài mà trong đó có một phần yêu cầu nào đó (về đề tài nội dung, về
phương thức biểu đạt, kiểu văn bản) cho phép người viết lựa chọn cách trình bày,
giải quyết vấn đề theo trình độ, suy nghĩ riêng, cho phép phát huy tính chủ động,
lựa chọn, sáng tạo và thể hiện quan điểm miễn là hợp lí. Đó là những đề không
gò ép, bắt buộc học sinh nhất nhất phải theo một phương thức, kiểu bài, thể loại
hay theo nội dung ổn định trước.
Về việc phân loại đề mở: Chúng tôi thấy, nếu xét về cấu trúc, đề có hai dạng
chính và đặc điểm cụ thể của mỗi dạng như sau: Dạng 1: Đề có mệnh lệnh. Ví dụ:
đề 9 và đề 10 . Các phần trong đề thường là:
+ Cấu trúc: mệnh lệnh - đối tượng; đối tượng - mệnh lệnh
+ Biên độ mở chủ yếu nằm ở nội dung, đề tài mà đề yêu cầu học sinh trình
bày; cũng có khi học sinh được lựa chọn cả phương thức biểu đạt.

Chẳng hạn đề 10, biên độ mở khá rộng ở việc học sinh phải từ đó rút ra vấn
đề, chủ đề gì cần thiết, quan trọng nhất gợi ra từ tài liệu ấy, sau đó chọn phương
thức biểu đạt nghị luận hay biểu cảm, cũng có thể kết hợp cả nghị luận và biểu cảm
để viết bài.
Dạng 2: Đề không có mệnh lệnh. Ví dụ: Các đề 1,2,3,4,5,6,7,8
+ Cấu trúc: Chỉ có đối tượng, vấn đề
+ Đề không có mệnh lệnh thì biên độ mở rất rộng, không chỉ ở kiểu loại văn
bản và phương thức biểu đạt cần sử dụng mà còn ở cả nội dung, vấn đề cần đề cập
tới.
Ví dụ như với đề 1, học sinh vừa phải lựa chọn kiểu văn bản và phương thức
phù hợp nhất (ở đây là phương thức biểu cảm) vừa tự lựa chọn một loại cây nào đó
12
mình yêu thích nhất để biểu cảm (không bắt buộc là cây tre hay cây bưởi, cây
phượng )
* Lưu ý: trong hai dạng trên thì đề mở phần lớn là đề không có mệnh lệnh.
Nếu xét về nội dung, đề mở gồm 3 dạng cơ bản, với những đặc điểm riêng (theo ý
kiến của Giáo sư Trần Đình Sử).
*. Dạng 1. Đề cho đề tài:
Ví dụ: các đề 1,2,3,4,5,6,7,8
- Đề ra đã cho sẵn một đề tài, vấn đề dùng để viết, học sinh có thể cụ thể hoá
thành đề mục hay nhan đề của bài viết
- Biên độ mở là ở việc học sinh suy nghĩ, lựa chọn kiểu văn bản, phương thức
biểu đạt cần sử dụng hoặc nội dung, đề tài để làm bài một cách hợp lí, hiệu quả
Xem xét đề 4 (Viết lời tri ân đối với một tác giả văn học), ta thấy đề tài rất
“mở” nên học sinh chỉ cần chọn cho mình một tác giả văn học có tác phẩm, có
những quan điểm có ý nghĩa, giá trị đối với bản thân về hiểu biết hay về tâm hồn,
tình cảm, đạo đức lối sống để mà viết lời cảm ơn chân thành với tác giả đó (chẳng
hạn chọn Nam Cao, hay chọn Nguyễn Thành Long, ). Hình thức viết cũng rất mở:
Học sinh có thể viết bằng phương thức biểu đạt chính là biểu cảm hoặc có thể tự
sự, nghị luận, có thể bằng trang nhật ký, bức thư

Với đề 1 có thể chọn một loài cây cụ thể mà mình yêu quý đề biểu cảm và đặt
thành nhan đề như: Cây tre Việt Nam; Cây bưởi ông trồng; Hoa dại ơi!
*. Dạng 2. Đề cho tài liệu:
Ví dụ: đề 9, 10
- Đây là dạng đề chỉ cung cấp một truyện ngụ ngôn, truyện cười, một bài thơ
giàu ý nghĩa triết lí, một số nhân vật lịch sử, hoặc những đoạn trích về tác phẩm,
hay những mẩu tin trên báo, những bức tranh
- Đề cũng đã có mệnh lệnh yêu cầu về kiểu văn bản và phương thức biểu đạt cần
sử dụng
- Biên độ mở của đề là ở việc học sinh tự xác định, lựa chọn đề tài, phương
thức biểu đạt phù hợp để làm bài
Chẳng hạn với đề 9, đề đã cho sẵn tài liệu là câu chuyện “Người ăn xin” (có
trong bài học của sách giáo khoa, học sinh đều đã đọc, đã hiểu). Đồng thời đề cũng
nêu yêu cầu mệnh lệnh rất rõ (suy nghĩ - tức bình luận, biểu cảm), nên học sinh cần
xác định biên độ mở của đề chính là cần viết về bài học, ý nghĩa nào từ câu chuyện
cho thuyết phục. Ở đây, học sinh có thể chọn cho mình một đề tài, vấn đề để tạo
thành nhan đề bài viết như “Tình người trong cuộc sống”, hay “Xin lỗi và cảm
ơn” ; cũng có thể viết về tất các vấn đề ấy, và nếu vậy thì không cần thiết đặt
thành nhan đề.
13
*. Dạng 3: Đề cho học sinh điền chỗ trống.
Ví dụ: Đề 7, 8
- Nội dung cụ thể của đề còn để trống.
- Đề cũng không có mệnh lệnh yêu cầu cụ thể về kiểu văn bản phương thức
biểu đạt cũng như đề tài, nội dung.
- Biên độ mở là ở chỗ học sinh cần suy nghĩ điền vào chỗ trống một từ, hay
cụm từ phù hợp với thông tin đề đã cho để từ đó chọn kiểu văn bản và phương thức
biểu đạt (biểu cảm, hoặc nghị luận tuỳ theo cách hiểu vấn đề và cách giải quyết
vấn đề của học sinh) để làm bài hợp lí, thuyết phục.
Với đề 8, học sinh có thể điền thêm một trong những cụm từ: “thế giới được

hoà bình”; “môi trường sống được cải thiện tốt đẹp hơn”, hay “cuộc sống không
còn những trẻ em lang thang, nghèo khổ” hay thậm chí là “bố mẹ cho em được tự
lập” Từ đó chọn phương thức biểu đạt thường là biểu cảm và nghị luận để làm
bài.
Nếu xét về đối tượng, có thể chia làm 2 dạng lớn: Đề mở thuộc lĩnh vực xã
hội và đề mở thuộc lĩnh vực văn học.
Có nhiều cách chia vậy song cơ bản, có lẽ ta nên theo ý kiến của Trần Đình
Sử để tìm hiểu cách làm cụ thể. Tuy nhiên để các em hình dung rõ hơn cách làm
bài, trong mỗi dạng chúng ta sẽ tìm hiểu cách làm chung và cách làm một số dạng
nhỏ hơn. Sự phân chia cho khoa học về các dạng đề mở để từ đó có phương pháp
làm bài cho từng dạng cũng là một giải pháp cơ bản khi dạy chuyên đề này. Những
cách chia trên ( trừ cách chia theo 3 dạng lớn của Giáo sư Trần Đình Sử),từ các
dạng lớn đến các dạng cụ thể là do bản thân tôi đọc, nghiên cứu,mày mò , thể hiện
rõ ở phần giáo án cụ thể minh họa sau, những mong trao cho học sinh kỹ năng làm
bài cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng hơn khi tạo lập văn bản, mong quý
đồng nghiệp tham khảo, xem xét.
Về cách làm từng dạng cụ thể, chúng ta nên lấy ví dụ cụ thể về dạng đề,
hướng dẫn học sinh cách làm từng bước, rút ra ghi nhớ về cách làm chung, luyện
tập, viết nhiều đề cho từng dạng lớn, nhỏ. Phần này, tôi cũng xin bạn đọc tham
khảo ở từng giáo án cụ thể gồm 5 buổi phần" Giáo án minh họa" mục III của
SKKN. Có lẽ khác với nhiều SKKN khác, có thể phần giáo án minh họa, từng giáo
án cụ thể đã có một số người thiết kế, có các tài liệu tham khảo nếu có thêm gì
mới hoặc bổ sung , điều chỉnh thì người viết làm thêm. Còn với đề tài SKKN mà
tôi đang thực hiện, chủ quan tôi thấy là chưa ai thể hiện. Có thể có nhiều giáo viên
cũng có mày mò, tự mình dạy cho học sinh nhưng chưa thấy ai công bố trên các
phương tiện thông tin đại chúng, tôi cố tìm mà chưa gặp.Vì vậy, lên kế hoạch cho
từng buổi, thiết kế cụ thể từng bài cho giáo án 5 buổi của chuyên đề và kể cả hầu
hết các đề mở, bài làm minh họa của học sinh là công sức, tâm huyết của cá nhân
tôi, của học trò đội tuyển tỉnh tôi phụ trách mà các em đã tự làm, làm ngay sau khi
14

học, trong khi học là giải pháp thiết thực nhất cho người dạy và người học. Xin
đồng nghiệp và các quý vị chịu khó đọc và vận dụng !
- Cần trao cho các em các kỹ năng làm văn với các dạng đề cần thiết, liên
quan. Trước khi dạy đề mở, học sinh phải được học cách làm các dạng bài, các kỹ
năng làm văn gồm: Văn miêu tả, văn kể chuyện (chú trọng các dạng đề kể chuyện
tưởng tượng), văn viết thư, văn biểu cảm, văn chứng minh, văn giải thích, văn bình
giảng, văn bình luận, văn phân tích Các dạng bài nghị luận văn học cho đến nghị
luận xã hội đều phải thành thạo Ở huyện chúng tôi, thời lượng bồi dưỡng đội
tuyển tỉnh thường là 50 buổi, chúng tôi thường dành khoảng 10 buổi cho phần tập
làm văn với các dạng bài trên sau đó mới đến chuyên đề về đề mở 5 buổi. Bên
cạnh đó, cần dạy các kiến thức về lý luận văn học, về tác phẩm, tác giả, kiến thức
văn học sử Có như thế, khi dạy về đề mở, cách làm mới thuận lợi được. Bởi dù
mở đến đâu thì vẫn có biên độ mở nhất định và vẫn nên quay về lựa chọn một
trong những kỹ năng làm văn cơ bản trên hoặc kết hợp các kỹ năng sao cho hợp lý,
vẫn phải liên quan đến các kiến thức văn học, xã hội được học trong sách vở cũng
như đời sống
- Dù chỉ có 5 buổi lên lớp nhưng rất quan trọng, bởi nó đụng chạm đến hầu
hết các kiến thức và kỹ năng. Vì vậy cần lên kế hoạch cụ thể và soạn bài chu đáo;
Suy nghĩ kỹ để quyết định nên dạy vào thời điểm nào, dạy những gì trong từng
buổi Thực ra các em đã làm quen với đề mở trong SGK từ lớp 6 đến lớp 9 như ta
hệ thống trên cũng nhiều, chỉ có cách làm bài bản, đầy đủ, chuyên sâu theo mức
của học sinh giỏi tỉnh là chưa thì chuyên đề này giải quyết vấn đề đó. Vì thế, nên
dạy vào thời điểm đã chọn xong đội tuyển. Trong từng buổi, nên chia nội dung
dạy như sau:
+ Buổi 1: Dạy khái niệm đề mở, các dạng đề mở, những lưu ý chung khi làm
bài theo các dạng đề mở; cách làm dạng bài cho tài liệu nói chung và một dạng nhỏ
cụ thể.
+ Buổi 2: Tiếp tục dạy cách làm dạng bài cho tài liệu với các dạng bài nhỏ cụ
thể.
+ Buổi 3: Cách làm dạng bài cho đề tài nói chung và các dạng bài nhỏ cụ thể

của dạng đề này.
+ Buổi 4: Cách làm dạng đề cho học sinh điền vào chỗ trống- đề bỏ ngỏ.
+ Buổi 5: Tổng ôn luyện và thi thử về đề mở , cách làm bài văn theo các dạng
đề mở.
- Thường xuyên cập nhật tin tức từ đời sống, bởi đề mở liên quan nhiều đến
những vấn đề mang tính thời sự. Với những ai tham gia công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi, có thể nói bạn phải thường xuyên học, đọc và viết , phải thường xuyên
kết hợp vận dụng , kế thừa kinh nghiệm cũ với đổi mới. Đề mở thường gợi ra hoặc
là từ tác phẩm, hoặc là từ cuộc sống. Vậy nên hơn ai hết giáo viên vừa là độc giả "
sành điệu" trong cảm thụ tác phẩm vừa phải thường xuyên cập nhật kiến thức đời
15
sống. Có vấn đề gì xảy ra trong nước cũng như trên thế giới đang được dư luận
quan tâm thì cô trò phải lưu ý . Sau đó suy nghĩ, đặt ra những vấn đề liên quan
xoay quanh vấn đề để có giải pháp đúng hướng.
- Luôn có ý thức sáng tạo trong ra đề, sưu tầm đề mở hay ở trong và ngoài
nước, ở đồng nghiệp. Chọn lựa những đề phù hợp với học sinh giỏi bậc THCS ,
phân mảng, chia nhóm, nghiên cứu chúng để đưa vào bài giảng cho phù hợp.
- Linh hoạt khi làm đáp án, khi chấm bài học sinh
- Sưu tập những bài văn làm theo đề mở hay để làm ví dụ, nhất là những bài
văn của khóa trước, của bè bạn các em để các em tin tưởng là mình cũng có thể
làm được như thế và hơn thế.
- Cho học sinh làm quen với đề mở ngay từ khi bước vào cấp hai. Ở trường
chúng tôi, phân công chuyên môn thường theo cua từ lớp 6 đến 9. Vì vậy, trong
quá trình học, năm nào tôi cũng dạy cho các em cách làm đề mở phù hợp với
chương trình và lứa tuổi. Chẳng hạn lớp 6, ta dạy cách làm những đề mở theo văn
miêu tả, văn kể chuyện như: Đêm trăng đẹp; Một lần mắc lỗi; Một kỷ niệm đáng
nhớ Hay ở lớp 7 là những đề như: Loài cây em yêu; Người ấy sống mãi trong
tôi khi học về văn biểu cảm. Lớp 8: Tà áo dài Việt Nam; "Trong lòng mẹ
''( Nguyên Hồng) là bài ca của tình mẫu tử khi học về văn thuyết minh, văn nghị
luận Và khi đến lớp 9, mặc dù các em chưa được học đầy đủ , bài bản về tất cả

các dạng đề mở và cách làm nhưng nhờ đã làm quen trước mà giờ sẽ thuận lợi
hơn. Dạy đề mở phải dạy từ từ, mang tính" mưa dầm thấm lâu", dạy từ đề dễ đến
khó, vấn đề đơn giản đến phức tạp dần để học sinh không " choáng", không chán,
luôn cảm thấy hứng thú và cần học.
- Dạy đội tuyển rất cần sức mạnh của tập thể, dạy chuyên đề này cũng vậy.
Cần lắng nghe ý kiến đồng nghiệp, xin các đồng chí những đề văn hay, trao đổi
đáp án một số vấn đề khó, dạy thể nghiệm, lắng nghe sự góp ý, bổ sung
b, Trong khi dạy:
- Theo kế hoạch và giáo án đã chuẩn bị.
- Luôn kết hợp lý thuyết với kỹ năng, luôn lấy ví dụ cụ thể minh họa.
- Khơi dậy trong các em đam mê khám phá vấn đề, biết tự xây dựng cách làm
từ ví dụ, ý thức ham đọc, ham viết.
- Động viên các em làm bài tập cả ở lớp và ở nhà, chấm, chữa bài chu đáo, kịp
thời, đúc rút kinh nghiệm cho các em. Lời phê, nhận xét phải đúng tinh thần" mở",
rất linh hoạt trước các tình huống, khích lệ tính sáng tạo, sự bộc lộ chính kiến hợp
lý của các em, trân trọng những bài làm có dọng điệu riêng
- Kết hợp củng cố phương pháp làm các dạng bài khác và các kiến thức liên
quan.
- Yêu cầu các em về đọc tài liệu, luyện viết về đề mở càng nhiều càng tốt.
16
c, Sau khi dạy:
- Yêu cầu học sinh thường xuyên xem lại cách làm bài, luyện viết tiếp.
- Cho học sinh tham khảo bài của bạn, bài ở các tài liệu.
- Cập nhật tin tức, rèn kỹ năng sống, vừa học trong sách vở vừa học kiến thức
đời sống để giải quyết đề mở sẽ tốt hơn.
- Giáo viên tiếp tục động viên, chấm bài cho học sinh, cập nhật đề hay cho
học sinh luyện viết.
- Nếu còn thời gian thì cho học sinh thi thử về đề mở càng nhiều càng tốt.
Giáo viên chấm, trả, chữa bài kịp thời, đúc rút kinh nghiệm sau mỗi đề cho học
sinh.

2, Đối với học sinh:
- Làm quen với đề mở từ lớp 6 theo sự định hướng và hướng dẫn của giáo
viên.
- Cùng với giáo viên thu thập tài liệu có liên quan đến đề mở, tham khảo
những bài văn hay của các bạn, anh chị viết từ đề mở
- Cần nhớ các bước tạo lập văn bản đã học (4 bước : tìm hiểu đề, tìm ý và lập
dàn bài, viết thành văn, kiểm tra sửa chữa) để vận dụng vào việc làm đề mở. Bởi vì
khi làm một đề mở trước hết cũng phải tuân thủ các bước tạo lập văn bản như bất
kỳ bài văn nào.
- Đặc biệt, cần chú ý nhất ở khâu tìm hiểu đề, tìm ý : Yêu cầu và mục đích
phần này là:
+ Xác định dạng đề cụ thể để có cách làm bài phù hợp.
+ Xác định biên độ mở của đề, đảm bảo đúng cách viết theo hướng mở thể
hiện sự sáng tạo, có quan điểm riêng đúng đắn, thuyết phục, không sai lạc, không
thiếu ý.
Nghĩa là, tuy viết bài theo hướng mở, nhưng vẫn cần đảm bảo tính đúng đắn,
phổ quát của vấn đề và đảm bảo có nội dung ý nghĩa tích cực, giàu tính nhân văn,
tránh suy diễn lệch lạc; các phương thức biểu đạt sử dụng và kết hợp phải hợp lí,
nhuần nhuyễn. Do đó, người học sinh cần đọc kĩ đề để:
+ Xác định đối tượng, nội dung trọng tâm và phạm vi của đề
+ Xác định kiểu văn bản và phương thức biểu đạt, hình thức trình bày phù hợp
Ví dụ với đề "Tiếng đồng hồ tích tắc trong đêm khuya", học sinh cần xác định
lựa chọn phương thức biểu cảm hoặc nghị luận, có thể là chọn kết hợp cả hai; và
có thể chọn hình thức viết thư, viết nhật kí, hay viết bài văn nghị luận, biểu cảm
thông thường.
17
Không ngừng học tập, tìm hiểu, nắm vững kiến thức và những kĩ năng cơ
bản để vận dụng linh hoạt, hiệu quả
- Thường vấn đề đặt ra trong đề bài là những tình huống hay, bất ngờ, giàu ý
nghĩa, gợi suy nghĩ cho người viết về cuộc sống, về văn học nên cần có trí tưởng

tượng, có khả năng sáng tạo.
- Cần có vốn kiến thức xã hội và văn học một cách sâu rộng để lựa chọn đưa
vào bài chính xác, sáng rõ, thuyết phục.
- Luôn có tính chủ động, linh hoạt trước mọi tình huống, biết thể hiện quan
điểm riêng của mình một cách hợp lí.
- Cần có ý thức vừa học trong sách vở, thấm nhuần,cảm nhận sâu sắc về tác
phẩm, về nhân vật, từng tác giả, từng nhân vật; vừa học trong đời sống,làm "cầu
nối" giữa tác phẩm với đời thường.
- Thường đề mở khi làm sẽ kết hợp tổng hợp nhiều dạng bài, tuy nhiên vẫn có
nghiêng về một kiểu nổi bật như biểu cảm hay nghị luận, thuyết minh, kể
chuyện Vì vậy cần biết lựa chọn phù hợp.
- Nắm chắc đặc trưng từng kiểu văn bản, kĩ năng làm từng dạng bài tập làm
văn đã học, chủ động lựa chọn và kết hợp linh hoạt cách viết phù hợp với đề ra và
phù hợp với cấp học, lớp học.
- Tham khảo thật nhiều tài liệu có liên quan để qua đó bước đầu tự rút ra các
kỹ năng làm bài theo đề mở.
- Chăm đọc, chăm viết, viết càng nhiều càng tốt để va chạm với nhiều đề,
nhiều tình huống, khiêm tốn học hỏi, đúc rút kinh nghiệm để làm đề mở ngày một
"lên tay".

18
III. GIÁO ÁN MINH HOẠ
Buổi 1.
ĐỀ MỞ VÀ CÁCH LÀM BÀI VĂN THEO MỘT SỐ DẠNG ĐỂ MỞ
MÔN NGỮ VĂN THCS
A. Mục tiêu cần đạt
1. Kiến thức
- Nắm được những đặc điểm cơ bản, ý nghĩa của việc ra và làm các bài tập
theo đề mở
- Hiểu được thế nào là đề mở, các dạng đề mở và đặc điểm

- Những định hướng chung khi làm bài theo đề mở, kĩ năng làm bài văn theo
hướng mở thuộc dạng đề cho tài liệu.
2. Kĩ năng
- Xác định đề mở, kiểu đề mở
- Xác định những yêu cầu mà đề yêu cầu người viết làm theo hướng mở
- Tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn bài và viết bài văn theo hướng mở thuộc dạng đề cho
tài liệu.
B. Chuẩn bị
1. Giáo viên
- Soạn kế hoạch dạy học.
- Một số tài liệu liên quan đến đề bài và bài văn theo hướng mở.
2. Học sinh
- Tìm hiểu nội dung về đề mở qua sách vở, tài liệu.
- Xem lại SGK các lớp 6,7,8,9 và thống kê những đề mở có trong đó.
C. Tổ chức hoạt động dạy học
HĐ 1. Ổn định lớp
HĐ 2. Kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài
- Kiểm tra việc làm bài tập và chuẩn bị bài của học sinh ở nhà
HĐ 3. Dạy học bài mới
- Giáo viên hướng dẫn, gợi mở, vấn đáp cùng học sinh để giúp học sinh hiểu
từ các ví dụ, và rút ra được những kiến thức, kĩ năng cơ bản nhất.
I.TÌM HIỂU CHUNG VỀ ĐỀ MỞ:
1. Khái niệm
19
a. Tìm hiểu ví dụ
Đọc những đề bài sau đây và trả lời câu hỏi bên dưới:
Đề 1. Loài cây em yêu.
Đề 2. Một kỉ niệm tuổi ấu thơ.
Đề 3. Về hình ảnh người phụ nữ trong một số tác phẩm văn học trung đại Việt
Nam đã học.

Đề 4. Viết lời tri ân đối với một tác giả văn học.
Đề 5. Tiếng đồng hồ tích tắc trong đêm khuya.
Đề 6. Về một bài thơ hay và đẹp.
Đề 7. Người học sinh hiện nay cần
Đề 8. Em ước mong
Đề 9. Những suy nghĩ của em từ bài thơ “Đất”
“Đất muốn nói điều chi thế
Mà không nói được với người
Mà rạo rực trong quả ngọt
Mà rưng rưng màu lá tươi.”
( Trần Đăng Khoa)
Đề 10. Đọc đoạn tài liệu dưới đây, chọn vấn đề, chủ đề để viết bài văn biểu
cảm hoặc nghị luận không quá 800 chữ:
Chiều ngày 30 – 4 – 2013, bên bờ sông Lam, đoạn chảy qua xã Trung Sơn-
huyện Đô Lương- Tỉnh Nghệ An, Nguyễn Văn Nam (học sinh lớp 12 T7, Trường
THPT Đô Lương I) nghe thấy tiếng kêu cứu có người chết đuối dưới sông, em liền
chạy đến. Thấy một nhóm học sinh đang chới với dưới nước, Nam đã nhảy xuống,
lần lượt cứu được 3 học sinh lớp 9 và một học sinh lớp 6. Khi đẩy được em thứ 5
vào bờ, thì Nam đã kiệt sức và bị dòng nước cuốn trôi”. (Theo Khánh Hoan-
Thanhnienoline, ngày 6-5-2013)
Câu hỏi: Giữa những đề bài này có điểm gì giống nhau và khác nhau về hình
thức và nội dung? Chỉ rõ sự giống nhau và khác nhau đó ở một số đề cụ thể.
=>Nhận xét
- Giống nhau: Đều đã cho trước đề tài, vấn đề, tài liệu; và nhất là đều có một
phần nào đó rất mở, không gò bó, mà cho phép học sinh được tự do suy nghĩ, lựa
chọn để phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình.
- Khác nhau:
20
+ Về hình thức: có đề không có mệnh lệnh (1,2,3,4,5,6,7,8) nên người viết tự
do lựa chọn phương thức biểu đạt, kiểu văn bản; có đề có mệnh lệnh (9,10) yêu cầu

rõ về phương thức biểu đạt, kiểu văn bản cần tạo lập.
+ Nội dung: có đề cho đề tài, vấn đề, tài liệu rất cụ thể (3,5), có đề cũng cho
đề tài, vấn đề, tài liệu nhưng không cụ thể, buộc người viết phải lựa chọn (1, 2, 4,
6, 7, 8, 9, 10)
b. Ghi nhớ:
- Đề mở là đề bài mà trong đó có một phần yêu cầu nào đó (về đề tài nội
dung, về phương thức biểu đạt,kiểu văn bản) cho phép người viết lựa chọn cách
trình bày, giải quyết vấn đề theo trình độ, suy nghĩ riêng, cho phép phát huy tính
chủ động, lựa chọn, sáng tạo và thể hiện quan điểm miễn là hợp lí. Đó là những
đề không gò ép, bắt buộc học sinh nhất nhất phải theo một phương thức, kiểu bài,
thể loại hay theo nội dung ổn định trước.
? Hãy tìm một đề mở mà em đã gặp trong quá trình học tập. (Học sinh nêu
một số đề trong SGK hoặc đã gặp và làm ở tài liệu khác).
2. Phân loại đề mở:
a. Xét về cấu trúc đề:
Xét về cấu trúc, đề có hai dạng chính và đặc điểm cụ thể của mỗi dạng như
sau:
* Dạng 1: Đề có mệnh lệnh
Ví dụ: đề 4, đề 9 và đề 10
+ Cấu trúc: mệnh lệnh - đối tượng; đối tượng - mệnh lệnh
+ Biên độ mở chủ yếu nằm ở nội dung, đề tài mà đề yêu cầu học sinh trình
bày; cũng có khi học sinh được lựa chọn cả phương thức biểu đạt.
*Dạng 2: Đề không có mệnh lệnh
Ví dụ: Các đề 1,2,3,4,5,6,7,8
+ Cấu trúc: Chỉ có đối tượng, vấn đề
+ Đề không có mệnh lệnh thì biên độ mở rất rộng, không chỉ ở kiểu loại văn
bản và phương thức biểu đạt cần sử dụng mà còn ở cả nội dung, vấn đề cần đề cập
tới.
* Lưu ý: trong hai dạng trên thì đề mở phần lớn là đề không có mệnh lệnh.
b. Xét về nội dung:

Xét về nội dung, đề mở gồm 3 dạng cơ bản, với những đặc điểm riêng (theo ý kiến
của Giáo sư Trần Đình Sử).
*. Dạng 1. Đề cho đề tài:
21
Ví dụ: các đề 1,2,3,4,5,6,7,8
- Đề ra đã cho sẵn một đề tài, vấn đề dùng để viết, học sinh có thể cụ thể hoá
thành đề mục hay nhan đề của bài viết
- Biên độ mở là ở việc học sinh suy nghĩ, lựa chọn kiểu văn bản, phương thức
biểu đạt cần sử dụng hoặc nội dung, đề tài để làm bài một cách hợp lí, hiệu quả
Xem xét đề 4, đề tài rất “mở” nên học sinh cần chọn cho mình một tác giả văn
học có tác phẩm, có những quan điểm có ý nghĩa, giá trị đối với bản thân về hiểu
biết hay về tâm hồn, tình cảm, đạo đức lối sống để mà viết lời cảm ơn chân thành
với tác giả đó (chẳng hạn chọn Nam Cao, hay chọn Nguyễn Thành Long, )
*. Dạng 2. Đề cho tài liệu:
Ví dụ: đề 9, 10
- Đây là dạng đề chỉ cung cấp một truyện ngụ ngôn, truyện cười, một bài thơ
giàu ý nghĩa triết lí, một số nhân vật lịch sử, hoặc những đoạn trích về tác phẩm,
hay những mẩu tin trên báo, những bức tranh
- Đề cũng đã có mệnh lệnh yêu cầu về kiểu văn bản và phương thức biểu đạt cần
sử dụng
- Biên độ mở của đề là ở việc học sinh tự xác định, lựa chọn đề tài, phương
thức biểu đạt phù hợp để làm bài
Chẳng hạn với đề 9, đề đã cho sẵn tài liệu là câu chuyện “Người ăn xin” (có
trong bài học của sách giáo khoa, học sinh đều đã đọc, đã hiểu). Đồng thời đề cũng
nêu yêu cầu mệnh lệnh rất rõ (suy nghĩ - tức bình luận, biểu cảm), nên học sinh cần
xác định biên độ mở của đề chính là cần viết về bài học, ý nghĩa nào từ câu chuyện
cho thuyết phục. Ở đây, học sinh có thể chọn cho mình một đề tài, vấn đề để tạo
thành nhan đề bài viết như “Tình người trong cuộc sống”, hay “Xin lỗi và cảm
ơn” ; cũng có thể viết về tất các vấn đề ấy, nếu vậy thì không cần thiết đặt thành
nhan đề.

*. Dạng 3: Đề cho học sinh điền chỗ trống.
Ví dụ: Đề 7, 8
- Nội dung cụ thể của đề còn để trống.
- Đề cũng không có mệnh lệnh yêu cầu cụ thể về kiểu văn bản phương thức
biểu đạt cũng như đề tài, nội dung.
- Biên độ mở là ở chỗ học sinh cần suy nghĩ điền vào chỗ trống một từ, hay
cụm từ phù hợp với thông tin đề đã cho để từ đó chọn kiểu văn bản và phương thức
biểu đạt (biểu cảm, hoặc nghị luận tuỳ theo cách hiểu vấn đề và cách giải quyết
vấn đề của học sinh) để làm bài hợp lí, thuyết phục.
Với đề 8, học sinh có thể điền thêm một trong những cụm từ: “thế giới được
hoà bình”; “môi trường sống được cải thiện tốt đẹp hơn”, hay “cuộc sống không
22
còn những trẻ em lang thang, nghèo khổ” hay thậm chí là “bố mẹ cho em được tự
lập” Từ đó chọn phương thức biểu đạt thường là biểu cảm và nghị luận để làm
bài.
( * Lưu ý: Nếu xét về đối tượng, có thể chia làm 2 dạng lớn: Đề mở thuộc lĩnh
vực xã hội và đề mở thuộc lĩnh vực văn học. Có nhiều cách chia vậy song ta cơ
bản sẽ theo ý kiến của Trần Đình Sử để tìm hiểu cách làm cụ thể. Tuy nhiên để các
em hình dung rõ hơn cách làm bài, trong mỗi dạng chúng ta sẽ tìm hiểu cách làm
chung và cách làm một số dạng nhỏ hơn)
II . CÁCH LÀM BÀI VĂN THEO MỘT SỐ DẠNG ĐỀ MỞ:
1. MỘT SỐ LƯU Ý CHUNG ĐỂ LÀM TỐT MỘT BÀI VĂN THEO ĐỀ
MỞ:
a. Cần tuân thủ các bước tạo lập văn bản đã học (4 bước : tìm hiểu đề, tìm ý
và lập dàn bài, viết thành văn, kiểm tra sửa chữa)
b. Đặc biệt, cần chú ý nhất ở khâu tìm hiểu đề, tìm ý : Yêu cầu và mục đích
phần này là:
- Xác định dạng đề cụ thể để có cách làm bài phù hợp.
- Xác định biên độ mở của đề, đảm bảo đúng cách viết theo hướng mở thể
hiện sự sáng tạo, có quan điểm riêng đúng đắn, thuyết phục, không sai lạc, không

thiếu ý.
Nghĩa là, tuy viết bài theo hướng mở, nhưng vẫn cần đảm bảo tính đúng đắn,
phổ quát của vấn đề và đảm bảo có nội dung ý nghĩa tích cực, giàu tính nhân văn,
tránh suy diễn lệch lạc; các phương thức biểu đạt sử dụng và kết hợp phải hợp lí,
nhuần nhuyễn. Do đó, người học sinh cần đọc kĩ đề để:
+ Xác định đối tượng, nội dung trọng tâm và phạm vi của đề
+ Xác định kiểu văn bản và phương thức biểu đạt, hình thức trình bày phù hợp
Ví dụ với đề 5 (Tiếng đồng hồ tích tắc trong đêm khuya), học sinh cần xác
định lựa chọn phương thức biểu cảm hoặc nghị luận, có thể là chọn kết hợp cả hai;
và có thể chọn hình thức viết thư, viết nhật kí, hay viết bài văn nghị luận, biểu cảm
thông thường.
c. Không ngừng học tập, tìm hiểu, nắm vững kiến thức và những kĩ năng
cơ bản để vận dụng linh hoạt, hiệu quả
- Thường vấn đề đặt ra trong đề bài là những tình huống hay, bất ngờ, giàu ý
nghĩa, gợi suy nghĩ cho người viết về cuộc sống, về văn học nên cần có trí tưởng
tượng, có khả năng sáng tạo.
- Cần có vốn kiến thức xã hội và văn học một cách sâu rộng để lựa chọn đưa
vào bài chính xác, sáng rõ, thuyết phục.
23
- Luôn có tính chủ động, linh hoạt trước mọi tình huống, biết thể hiện quan
điểm riêng của mình một cách hợp lí.
- Cần có ý thức vừa học trong sách vở, thấm nhuần,cảm nhận sâu sắc về tác
phẩm, về nhân vật, từng tác giả, từng nhân vật; vừa học trong đời sống,làm "cầu
nối" giữa tác phẩm với đời thường.
- Thường đề mở khi làm sẽ kết hợp tổng hợp nhiều dạng bài, tuy nhiên vẫn có
nghiêng về một kiểu nổi bật như biểu cảm hay nghị luận, thuyết minh, kể
chuyện Vì vậy cần biết lựa chọn phù hợp.
d, Nắm chắc đặc trưng từng kiểu văn bản, kĩ năng làm từng dạng bài tập
làm văn đã học, chủ động lựa chọn và kết hợp linh hoạt cách viết phù hợp với
đề ra và phù hợp với cấp học, lớp học.

e, Tham khảo thật nhiều tài liệu có liên quan để qua đó bước đầu tự rút ra
các kỹ năng làm bài theo đề mở. ( giáo viên giới thiệu một số tài liệu yêu cầu
học sinh tìm đọc ).
2. CÁCH LÀM BÀI VĂN THEO MỘT SỐ DẠNG ĐỀ MỞ.
a. DẠNG ĐỀ CHO TÀI LIỆU:
* Dạng đề: Từ một văn bản truyện yêu cầu suy nghĩ, cảm nhận, rút ra bài
học,…
- Ví dụ:
Giáo viên lấy một số văn bản truyện (trong SGK, tuyển tập đề thi Olympic,
“Quà tặng cuộc sống”,…) đọc cho học sinh nghe, sau đó đọc yêu cầu của đề.
Ví dụ 1: Hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em sau khi đọc xong câu
chuyện “Điều gì là quan trọng”.
Ví dụ 2: Văn bản “Lỗi lầm và sự biết ơn” khép lại với thông điệp “Hãy học
cách viết nhưng nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá”.
Suy nghĩ của em về vấn đề trên.
Ví dụ 3: Những “Quà tặng cuộc sống” mà em nhận được từ câu chuyện “Hoa
hồng tặng mẹ”.
- Cho học sinh phát biểu cách hiểu đề, yêu cầu đề bài, định hướng,rút ra
cách làm dạng này từ bài tập hướng dẫn sau:
. Viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em từ câu chuyện “Người ăn
xin” (Tuốc- ghê- nhép):
Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi
môi tái nhợt, áo quần tả tơi. Ông chìa tay xin tôi.
Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay,
chẳng có gì hết. Ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run
nắm chặt lấy bàn tay run rẩy của ông:
24
- Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả.
Ông nhìn tôi chăm chăm, đôi môi nở nụ cười:
- Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.

Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa, cũng vừa nhận được một cái gì đó của
ông.
(Theo sách giáo khoa Ngữ văn 9-tập1)
Bước 1. Tìm hiểu đề
- Tài liệu: câu chuyện “Người ăn xin”
- Chủ đề: những vấn đề, bài học gợi ra từ văn bản
- Kiểu văn bản và phương thức biểu đạt: chủ yếu là nghị luận (bình luận) kết
hợp biểu cảm
Bước 2. Lập dàn bài
a. Mở bài:
- Giới thiệu về văn bản mà đề đã cho
- Nhận xét nêu ấn tượng chung về văn bản và những vấn đề, bài học mà văn
bản gợi cho người đọc, người nghe nhiều suy nghĩ
b. Thân bài:
- Cảm nhận chung ngắn gọn về nội dung và nghệ thuật của văn bản, rút ra và
nhấn mạnh ở những ý nghĩa, bài học gợi ra từ văn bản
(a). Tình người - tình yêu thương của con người trong cuộc sống
(b). “Cho” và “Nhận” - Cần biết đảm bảo hài hoà giữa cho và nhận, giữa cống
hiến và hi sinh
(c). “Cảm ơn” và “xin lỗi” - giao tiếp ứng xử lịch sự, tôn trọng
- Lần lượt trình bày suy nghĩ về những bài học ý nghĩa gợi ra từ văn bản:
+ Giải thích chung nội dung những bài học
+ Nhận xét, bình luận tính đúng đắn của từng bài học với việc phân tích
nguyên nhân, mục đích, ý nghĩa
+ Bàn luận: liên hệ thực tế về việc thực hiện những bài học đó đúng sai như
thế nào; rút ra cách giải quyết, phát huy và khắc phục
c. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của văn bản với ý nghĩa mà nó gợi ra cho người đọc
người nghe
- Nêu cảm nghĩ và rút ra bài học đối với bản thân

25

×