Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của cộng hòa ấn độ trong giai đoạn 1950 - 1964 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.1 KB, 27 trang )

H󰗍C VI󰗇N CHÍNH TR󰗋 QU󰗑C GIA H󰗓 CHÍ MINH
NGUYỄN ĐỨC TOÀN
Sù NGHIÖP CñNG Cè §éC LËP D¢N TéC
CñA CéNG HßA ÊN §é TRONG GIAI §O¹N 1950 - 1964
Chuyên ngành : Lịch sử Phong trào cộng sản,
công nhân qu󰗒c t󰗀 và gi󰖤i phóng dân t󰗚c
Mã số : 62 22 52 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2014
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Ngư ờ i hư ớ ng dẫ n khoa họ c: 1. PGS, TS Nguyễn Hoàng Giáp
2. PGS, TS Thái Văn Long
Phả n biệ n 1:

Phả n biệ n 2:

Phả n biệ n 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nhiều mối quan hệ quốc tế mới đan xen, phức tạp của xu
thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa hiện nay, để tồn tại và phát triển theo hướng
độc lập tự chủ, đòi hỏi mỗi quốc gia phải tìm cho mình một hướng đi thích
hợp. Hướng đi đó cần hợp với xu thế của thời đại, với những đặc thù của


quốc gia dân tộc thì việc bảo vệ và củng cố nền độc lập cho dân tộc sẽ được
thực hiện một cách thuận lợi. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu những con
đường đấu tranh bảo vệ, củng cố độc lập và phát triển quốc gia, dân tộc của
các nước trên thế giới có một ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Nằm ở khu vực Nam Á, Ấn Độ không chỉ được biết đến như một trong
những quốc gia rộng lớn và đông dân, mà thế kỷ XX, Ấn Độ từ một nước
thuộc địa, vươn lên trở thành một cường quốc, đã và đang tham gia vào các
vấn đề chung của khu vực và quốc tế. Sau khi giành được độc lập và bắt đầu
bước vào kỷ nguyên mới xây dựng nền Cộng hòa, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho
dân tộc Ấn Độ hết sức to lớn: đó là lựa chọn con đường đi đến tương lai, tiến
theo kịp sự phát triển của thế giới văn minh. Đây không phải là một công việc
đơn giản, bởi vì với phương châm “đi mà ở” của thực dân Anh, Ấn Độ phải
giải quyết những hậu quả hết sức nặng nề: một nền kinh tế khủng hoảng với
những tàn dư dai dẳng mang tính chất thuộc địa; một chế độ chính trị xã hội
phức tạp với những mâu thuẫn về dân tộc, những bất hòa về tín ngưỡng; sự bỏ
dở vấn đề Kashmir trong quan hệ Ấn Độ - Pakistan Tuy nhiên, các vấn đề
này đã được giải quyết một cách khá hiệu quả dưới thời Chính phủ Thủ tướng
J. Nehru, từ năm 1950 đến năm 1964. Đây cũng là nền tảng để các chính phủ
tiếp theo tiếp tục lãnh đạo đất nước đạt nhiều thành tựu về sau.
Chính vì thế, việc nghiên cứu sự nghiệp củng cố nền độc lập dân tộc
của Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964, phân tích quá trình bền
bỉ và gian khổ của nhân dân Ấn Độ, từng bước củng cố nền Cộng hòa,
đánh giá được những thành tựu, hạn chế, rút ra đặc điểm của con đường
xây dựng và bảo vệ đất nước theo đường lối J. Nehru có giá trị cao về lý
luận lẫn thực tiễn.
2
Xuất phát từ tầm quan trọng của những vấn đề nêu trên, tác giả quyết
định chọn đề tài “Sự nghiệ p củ ng cố độ c lậ p dân tộ c củ a Cộ ng hòa Ấ n Độ
trong giai đoạ n 1950 - 1964” để nghiên cứu viết luận án Tiến sĩ Lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

2.1. Nghiên cứu có hệ thống về sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của
Cộng hòa Ấn Độ từ góc độ của nhà nghiên cứu Việt Nam trên các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh
trong giai đoạn 1950 - 1964.
2.2. Luậ n án giả i quyế t nhữ ng nhiệ m vụ chủ yế u sau đây:
- Phân tích những nhân tố tác động đến quá trình củng cố nền độc lập
dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964.
- Phân tích việc thực thi các chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa,
ngoại giao, quốc phòng - an ninh trong việc bảo vệ và củng cố nền Cộng
hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964. Qua đây làm rõ sự thành công và
hạn chế từ sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong
giai đoạn 1950 - 1964.
- Bước đầu rút ra đặc điểm về sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của
Cộng hòa Ấn Độ và một số kinh nghiệm đối với các nước đang phát triển.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đố i tư ợ ng nghiên cứ u: Sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của
Cộng hòa Ấn Độ. Vấn đề được tiếp cận là các chính sách phát triển đất
nước của Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964
3.2. Phạ m vi nghiên cứ u
- Không gian: đất nước Ấn Độ kể từ khi thiết lập nền Cộng hòa.
- Thời gian: đề tài được giới hạn từ năm 1950 đến 1964.
- Nội dung: nghiên cứu toàn diện những biện pháp củng cố độc lập
dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại
giao, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh…
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phư ơ ng pháp luậ n: Luận án quán triệt những quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
3
của Đảng Cộng sản Việt Nam về một số vấn đề như: vấn đề dân tộc và
quyền tự quyết dân tộc, Đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị; độc lập

dân tộc và đấu tranh củng cố độc lập dân tộc trong bối cảnh hiện nay…
4.2. Phư ơ ng pháp nghiên cứ u: Phương pháp nghiên cứu lịch sử là cơ
bản; ngoài ra, luận án vận dụng linh hoạt phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành: sưu tầm, chọn lọc, phân loại, tổng hợp, so sánh, đối chiếu… để xử
lý tư liệu, hỗ trợ giải quyết những vấn đề do đề tài đặt ra.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
5.1. Luận án được trình bày một cách có hệ thống trên cơ sở khai thác
và xử lý các tài liệu thu thập được về sự nghiệp củng cố nền độc lập của
Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964, từ củng cố nền chính trị -
hành chính quốc gia đến chủ quyền lãnh thổ, phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội, quốc phòng - an ninh thời kỳ Chiến tranh lạnh.
5.2. Luận án khái quát các chính sách mà Chính phủ Ấn Độ đề ra và
thực hiện trong giai đoạn 1950 - 1964 nhằm củng cố nền độc lập, chỉ ra
những thành công, hạn chế của quá trình này, từ đó rút ra những kinh
nghiệm đối với các nước đang phát triển. Do đó, nội dung của luận án sẽ
góp phần hiểu rõ hơn vai trò của “kiến trúc sư” Thủ tướng J. Nehru trong
công cuộc đấu tranh vì một nước Ấn Độ phát triển.
5.3. Thông qua việc thực hiện luận án, giai đoạn 1950 - 1964 trong
lịch sử Ấn Độ được làm sáng tỏ hơn. Do vậy, luận án có thể dùng để tham
khảo trong nghiên cứu và giảng dạy các vấn đề khác nhau về lịch sử bảo
vệ, củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ nhất là về sự lựa chọn thể
chế chính trị, mô hình phát triển kinh tế - xã hội, chính sách phát triển
quốc phòng - an ninh, về chủ trương thống nhất đoàn kết quốc gia - dân
tộc cũng như về lịch sử đấu tranh vì nền độc lập dân tộc và phát triển đất
nước của các nước đang phát triển.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận án được trình bày trong 4 chương, 12 tiết.
4
Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Với bề dày về lịch sử, đất nước Ấn Độ thật sự đã thu hút sự chú ý và
quan tâm của nhiều học giả trên thế giới nghiên cứu về những giá trị truyền
thống, về lịch sử phát triển và cả những biến động xã hội đang diễn ra. Đối
với Việt Nam, công tác nghiên cứu về lịch sử, văn hóa Ấn Độ đã đạt được
những kết quả cụ thể. Ngoài cuốn “Ấn Độ cách mạng” của tác giả Minh
Tranh (1946) do Tổng bộ Việt Minh xuất bản, đến nay đáng chú ý nhất là
cuốn chuyên sử “Lịch sử Ấn Độ” do GS. Vũ Dương Ninh chủ biên, xuất
bản 1996. Qua tìm hiểu cho thấy, ở Việt Nam đã xuất hiện một số tác giả
chuyên tìm hiểu về lịch sử Ấn Độ cận - hiện đại như: Vũ Dương Ninh,
Nguyễn Văn Hồng, Nguyễn Quốc Hùng, Phan Văn Ban, Nguyễn Thừa Hỷ,
Đinh Trung Kiên, Nguyễn Công Khanh, Trần Thị Lý, Văn Ngọc Thành…
Tuy nhiên vấn đề được các tác giả quan tâm nhiều nhất là quan hệ Việt
Nam - Ấn Độ, còn lịch sử Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964 vẫn chưa được
nghiên cứu nhiều. Do vậy, nguồn kiến thức về giai đoạn này của lịch sử Ấn
Độ và việc tiếp cận là rất khó khăn, nhưng đó cũng là cơ sở để tác giả định
hướng cho việc tìm hiểu tư liệu tiếng Anh của các học giả nước ngoài.
1.1. Các kết quả nghiên cứu đã công bố
1.1.1. Tiế p cậ n dư ớ i góc độ nghiên cứ u về lị ch sử củ a Ấ n Độ
Tài liệu tiếng nước ngoài
Các công trình được tác giả tiếp cận như: Andrew Mellor (1951) với
cuốn India since partition; Romesh Thapar (1956) với cuốn India in
transition; T. F. Devakina (1970) với cuốn Đảng Quốc đại Ấn Độ 1947 -
1964, (tiếng Nga); K. Antonova, G. Bougard - Levin, G. Kotovsky (1978)
với cuốn A history of India, Book 2; Arthur Lall (1981) với cuốn The
Emergence of Modern India; Stanley Wolpert (1993) với cuốn A new
history of India; Bipan Chandra (2000) với công trình India after
5
independence (1947 - 2000); Hermann Kulke và Dietmar Rothermund
(2004) với cuốn A history of India Các công trình này đã nghiên cứu về

quá trình đấu tranh chống thực dân Anh, giành độc lập dân tộc của nhân
dân Ấn Độ; về thay đổi của Ấn Độ những năm đầu sau khi giành độc lập;
về giải quyết những hậu quả của chủ nghĩa thực dân; về bối cảnh Trật tự
hai cực của thế giới tác động đến tình hình Ấn Độ; về Hiến pháp Ấn Độ
năm 1950, phong trào dân tộc, các đảng phái chính trị, tình hình kinh tế, xã
hội, quốc phòng, an ninh Đây là những nội dung quan trọng liên quan
trực tiếp đến sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ.
Tài liệu nghiên cứu trong nước
Một số công trình tiêu biểu như: Lịch sử Ấn Độ, do tác giả Vũ Dương
Ninh (1996) chủ biên. Đây được coi là công trình chuyên khảo có giá trị,
toàn diện nhất về lịch sử Ấn Độ cho đến nay tại Việt Nam. Công trình này
là tư liệu và định hướng tốt để chúng tôi tiếp tục đi sâu làm rõ hơn khi thực
hiện hiện luận án. Ngoài ra, tác giả Đinh Trung Kiên (1995) Ấn Độ hôm
qua và hôm nay; Viện nghiên cứu Đông Nam Á (1997) với cuốn Ấn Độ
xưa và nay; R. P. Dutt (1960) với cuốn Ấn Độ hôm nay và ngày mai;
Nguyễn Thừa Hỷ (1986) Ấn Độ qua các thời đại… Trong các công trình
này, các tác giả trình bày những nét khái quát về đất nước, con người Ấn
Độ, phân tích những điều kiện đặc thù về lịch sử có ảnh hưởng trực tiếp
đến việc lựa chọn con đường giành độc lập dân tộc, những giá trị văn hóa
truyền thống, quá trình xây dựng nước Cộng hòa Ấn Độ, chính sách đối
ngoại của Ấn Độ và quan hệ giữa Ấn Độ với Việt Nam. Hai công trình của
tác giả Đỗ Thanh Bình (chủ biên) (1999) Con đường cứu nước trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước châu Á (từ cuối thế kỷ XIX
đến 1945); Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc thế kỷ XX - một cách
tiếp cận (2006). Đây được coi là một chuyên luận toàn diện nhất về chủ đề
đấu tranh giành độc lập dân tộc, bao quát những nét chung cả về lý luận
lẫn thực tiễn của các phong trào ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ latinh.
6
1.1.2. Tiế p cậ n dư ớ i góc độ về việ c xây dự ng và lự a chọ n con đư ờ ng
phát triể n kinh tế - xã hộ i, chính trị , văn hóa, quố c phòng - an ninh, xác

lậ p đư ờ ng lố i đố i ngoạ i đặ c thù để củ ng cố độ c lậ p dân tộ c và phát
triể n đấ t nư ớ c Ấ n Độ
Tài liệu tiếng nước ngoài
Các học giả nước ngoài chủ yếu là người Mỹ, Anh, Nga và chính
những học giả Ấn Độ rất quan tâm đến việc nghiên cứu về nền chính trị -
xã hội của Ấn Độ từ thời thuộc địa cho tới sự phát triển đất nước trong thời
kỳ Cộng hòa. Tiêu biểu là một số công trình như: Norman Dunbar Palmer
(1961) với cuốn The Indian political system; W. H. Morris Jones (1967)
với cuốn The government and politics of India; Marcus F. Franda (1968)
với cuốn West Bengal and the federalizing process in India; T. V. Kunhi
Krishnan (1971) với cuốn Chavan and the troubled decade;… Trong các
công trình này, các tác giả đã cung cấp những nét cơ bản về hệ thống chính
trị Ấn Độ; khuynh hướng tư tưởng xuất hiện trong nền Cộng hòa; ba cuộc
tổng tuyển cử; phong trào công nhân Ấn Độ; việc cơ cấu lại các bang; mối
quan hệ giữa nhà nước trung ương và sự phát triển của chính sách cải cách
ruộng đất; mối liên hệ giữa chính quyền trung ương và các đảng…
Mặt khác, tác giả Alastair Lamb (1964) với cuốn The China - India
border: the origins of the disputed boundaries; Lorne J. Kavic (1967) với
cuốn India’s quest for security: defence policies 1947 - 1965; D. R.
SarDesai (1968) với cuốn Indian Foreign Policy in Cambodia, Laos and
Vietnam 1947 - 1964; Wilfred Malenbaum (1971) với cuốn Modern
India’s economy: two decades of planed growth; I. Nasenko (1977) với
cuốn Jawaharlal Nerhu and India foreign’s policy; Sarvepalli Gopal
(1979) với cuốn Jawaharlal Nehru: A biograph, vol 2: 1947 - 1956 và
cuốn Jawaharlal Nehru: A biograph, vol 3: 1956 - 1964 (1984); Dharma
Kumar (1983) với cuốn The Cambridge economic history of India, Vol 2:
1757 - 1970;… Trong các công trình này, các tác giả Tác giả đã nghiên
cứu sâu về chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng J. Nehru;
7
xung đột Trung - Ấn năm 1962; vấn đề Kashmir; về chính sách quốc phòng

trước và sau năm 1962; thành tựu phát triển kinh tế trong các kế hoạch 5
năm; cuộc đời, sự nghiệp và vai trò của Thủ tướng J. Nehru trong việc củng
cố độc lập dân tộc, xây dựng Ấn Độ thành một quốc gia hiện đại trong hơn
một thập kỷ của nền Cộng hòa… Trên cơ sở nguồn tài liệu này, tác giả tổng
hợp và lựa chọn các thông tin làm căn cứ nghiên cứu trong luận án.
Tài liệu nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu con đường củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ
được nhận diện qua các công trình nghiên cứu chuyên sâu của các học giả
trong nước trên nhiều khía cạnh khác nhau như: kinh tế, chính trị - hành
chính, ngoại giao, quốc phòng - an ninh. Tiêu biểu là một số công trình sau:
Phan Văn Ban chủ biên (1993), Thông báo khoa học: đặc san kỷ niệm 43
năm Quốc khánh nước Cộng hòa Ấn Độ; Đỗ Đức Định (1999) với cuốn 50
năm kinh tế Ấn Độ và Giáo trình kinh tế Ấn Độ (2010); Trần Thị Lý (2002)
với cuốn Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn Độ từ 1991 đến 2000…
Ngoài ra, nghiên cứu về những khía cạnh cụ thể về bối cảnh lịch sử, chính
sách đối ngoại, những vấn đề phức tạp trong sự nghiệp củng cố độc lập của Ấn
Độ cũng được đề cập trong một số công trình tiêu biểu như: Võ Anh Tuấn
(1999) với cuốn Phong trào Không liên kết; Trần Văn Đào, Phan Doãn Nam
(2001) với cuốn Giáo trình Lịch sử quan hệ quốc tế 1945 - 1990; Nguyễn Công
Khanh (2001) với công trình Jawaharlal Nehru, tiểu sử và sự nghiệp; Trình
Mưu, Vũ Quang Vinh (đồng chủ biên) (2005) với cuốn Quan hệ quốc tế những
năm đầu thế kỷ XXI - vấn đề, sự kiện và quan điểm… Bên cạnh đó, tác giả còn
tiếp cận nhiều công trình nghiên cứu khác liên quan đến đề tài trong các luận
án, luận văn đã được bảo vệ trong nước và các bài báo khoa học được đăng tải
trên các tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Ấn Độ và
châu Á, Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu quốc tế…
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu của các học giả trong cũng
như ngoài nước đề cập đến lịch sử Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964 từ nhiều
góc độ và quan điểm tiếp cận khác nhau, những tất cả nhằm đi đến khái
8

quát hoặc làm rõ từng vấn đề cụ thể trên các lĩnh vực của đất nước Ấn Độ.
Điểm qua các công trình nghiên cứu, về cơ bản, các nhà khoa học đã giải
quyết những vấn đề sau:
- Lịch sử hình thành và phát triển của Ấn Độ qua các thời kỳ cụ thể;
những đặc trưng về văn hóa, ngôn ngữ, tộc người, tôn giáo, truyền thống,
bản sắc dân tộc.
- Chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với các nước ở khu vực và các
nước lớn trên thế giới (Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc).
- Những vấn đề trong sự phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
quốc phòng - an ninh để củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ.
- Cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của “kiến trúc sư” đất nước Ấn Độ -
Thủ tướng Jawaharlal Nehru.
Trên cơ sở nguồn tài liệu là thành quả nghiên cứu của các nhà khoa
học đi trước mà chúng tôi tiếp cận trên, tuy đa dạng và phong phú, đề cập
đến hầu hết các vấn đề về lịch sử phát triển của Ấn Độ ở những giai đoạn
khác nhau, nhưng nhìn chung, tại Việt Nam vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu, mang tính hệ thống về sự nghiệp củng cố độc lập
dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong thời kỳ từ năm 1950 đến 1964 với bối
cảnh phức tạp thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu,
đánh giá về cách thức củng cố độc lập dân tộc Ấn Độ trong thời kỳ này
vẫn ít được đề cập trong các công trình nêu trên.
1.2. Những vấn đề chưa được giải quyết nhìn từ phía Việt Nam
Một là, mặc dù việc nghiên cứu về Ấn Độ đã thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước với nhiều công trình đã được công
bố, đề cập đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, hoàn thiện nền
chính trị - hành chính quốc gia, củng cố quốc phòng - an ninh, nền ngoại
giao đặc thù của Ấn Độ kể từ khi nước này bước vào thời kỳ xây dựng
nền Cộng hòa. Tuy nhiên, qua tìm hiểu những nguồn tài liệu nêu trên,
chúng tôi nhận thấy, các công trình này chủ yếu được phân tích đơn lẻ,
chưa đặt chúng trong tổng thể chính sách phát triển quốc gia cũng như

trong sự biến đổi bên trong và bên ngoài Ấn Độ.
9
Hai là, một số công trình chỉ trình bày một cách khái quát về lịch sử
phát triển của đất nước Ấn Độ nói chung, quá trình ra đời và phát triển của
Ấn Độ từ năm 1947 đến nay; hoặc chỉ đi sâu tìm hiểu, phân tích, đưa ra
nhận định trên một vấn đề cụ thể như: về hoạt động của Đảng Quốc đại,
chính sách đối ngoại của Ấn Độ trong từng thời kỳ, về tình hình chính trị,
phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc phòng an ninh… Trong khi đó,
còn một số vấn đề chưa làm sáng tỏ như: những thành công và hạn chế,
đánh giá về vai trò của Thủ tướng J. Nehru, đặc điểm, cách thức, bài học
kinh nghiệm của sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Ấn Độ giai đoạn
1950 - 1964 trong mối quan hệ biện chứng với xu hướng chung của tình
hình thế giới thời kỳ Chiến tranh lạnh… Do vậy, cần phải làm rõ hơn về
những vấn đề trên, góp phần cung cấp cứ liệu khoa học, làm rõ hơn một
thời kỳ lịch sử đặc biệt ở Ấn Độ - kỷ nguyên J. Nehru.
Xuất phát từ yêu cầu này, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài với hy vọng
nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề đặt ra trên cơ sở các công trình
của các nhà khoa học đi trước. Đó là nguồn tư liệu có ý nghĩa, gợi mở để
chúng tôi hình thành và là những tư liệu quý có giá trị tham khảo trong việc
triển khai thực hiện đề tài.
1.3. Những vấn đề luận án tập trung làm rõ
Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi
trước, luận án tập trung làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
Một là, phân tích bối cảnh trong nước, khu vực, và thế giới tác động đến sự
nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964.
Hai là, làm rõ các nội dung những chính sách cơ bản và quá trình thực
hiện nó trong giai đoạn 1950 - 1964 để củng cố độc lập dân tộc của Chính
phủ Ấn Độ mà đứng đầu là Thủ tướng J. Nehru.
Ba là, đánh giá thành công và hạn chế trong sự nghiệp củng cố độc lập
dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964, từ đó rút ra một số

đặc điểm cũng như những kinh nghiệm của quá trình này đối với các nước
đang phát triển.
10
Chương 2
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ
TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964
2.1. Tình hình thế giới và khu vực Nam Á sau Chiến tranh thế giới
thứ hai
2.1.1. Chiế n tranh lạ nh và cuộ c đố i đầ u hai cự c Xô - Mỹ
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, những thay đổi căn bản về tương
quan lực lượng của cục diện thế giới đã dẫn tới sự hình thành nên Trật tự
hai cực với hai hệ thống chính trị - quân sự đối lập nhau trong quan hệ
quốc tế. Bối cảnh quốc tế ấy đã biến các nước thế giới thứ ba trở thành đối
tượng trực tiếp của cuộc chạy đua nhằm lắp đầy “khoảng trống quyền lực”,
chiếm giữ vị trí xung yếu và tạo ảnh hưởng giữa hai cường quốc Xô - Mỹ
nhằm lôi kéo các nước này về phía mình. Hơn nữa, Trật tự hai cực và
Chiến tranh lạnh cũng buộc các nước lớn có cách nhìn mới hơn về thuộc
địa, đặc biệt là những quốc gia có vị trí chiến lược quan trọng, hoặc những
nơi mà phong trào giải phóng dân tộc do giai cấp tư sản lãnh đạo. Cả Liên
Xô và Mỹ đều nhận thức tầm quan trọng của khu vực Nam Á, đặc biệt là
Ấn Độ đối với thế giới nên có những chính sách đặc biệt với khu vực này.
2.1.2. Sự phát triể n mạ nh mẽ củ a phong trào giả i phóng dân tộ c,
độ c lậ p dân tộ c
Sau năm 1945, phong trào giải phóng dân tộc bùng nổ, phát triển và đạt
được những thành tựu chưa từng có cả chiều rộng lẫn chiều sâu, tấn công vào
chủ nghĩa thực dân cũ và mới, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa vốn đã được
thiết lập từ nhiều thế kỷ, tạo ra sự thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho
phong trào cách mạng, tiến bộ trên thế giới. Trong dòng chảy chung của
công cuộc kiến thiết đất nước sau độc lập của các quốc gia đang phát triển,

sau khi đạt được quyền tự trị và bắt tay vào công cuộc xây dựng, củng cố nền
Cộng hòa, Chính phủ Ấn Độ đã nỗ lực tìm kiếm những giải pháp, chiến lược
phát triển đất nước, chủ động điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thực
tiễn đặt ra, đưa đất nước đi tới sự ổn định và phát triển.
11
2.1.3. Tình hình khu vự c Nam Á
Do vị trí chiến lược quan trọng của khu vực, sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, tình hình Nam Á cũng không nằm ngoài những toan tính chiến
lược của các cường quốc, đặc biệt là Anh, Mỹ, Liên Xô và phần nào là
Trung Quốc. Với bản chất của mình, thực dân Anh không dễ gì từ bỏ mọi
quyền lợi ở khu vực Nam Á, đặc biệt là Ấn Độ. Anh thực hiện ở đây chính
sách “đi mà ở”, “chia để trị”, đưa ra một phương án lập lờ, không rõ ràng
về chủ quyền đối với Kashmir, kích động Ấn Độ và Pakistan tranh chấp
nhau để mưu lợi ích riêng. Về phía Mỹ, Nam Á là một trong những địa bàn
địa chiến lược đặc biệt quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm
ngăn chặn sự mở rộng chủ nghĩa cộng sản. Về phía Liên Xô, trước những
biến động to lớn của thế giới, Liên Xô đã tìm đến với các nước thuộc thế
giới thứ ba, ủng hộ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc và nền dân chủ
nơi đây, gia tăng ảnh hưởng chủ nghĩa cộng sản.
2.2. Tình hình Ấn Độ sau khi được tự trị
2.2.1. Kế hoạ ch Mountbatten và sự chia cắ t Ấ n Độ
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, từ kết quả đấu tranh của nhân dân Ấn
Độ, thực dân Anh đã phải lo lắng và tự nhận thấy rằng khó có thể giữ vững
được địa vị thống trị của mình ở Ấn Độ như trước. Ngày 15/8/1947, “Kế
hoạch Mountbatten” với tư cách là “Đạo luật về nền độc lập của Ấn Độ”
được Nghị viện Anh biểu quyết thông qua, đánh dấu sự ra đời quốc gia Ấn
Độ tự trị. Kế hoạch Mountbatten không phải là một thắng lợi trọn vẹn của
Ấn Độ và cũng chưa hẳn là sự thất bại hoàn toàn của người Anh ở thuộc địa
béo bở này. Kế hoạch đó đã chia cắt Ấn Độ thành hai nhà nước Ấn Độ và
Pakistan trên cơ sở tôn giáo. Nó không phản ánh được nguyện vọng của nhân

dân Ấn Độ, chính vì thế đã để lại những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là
vấn đề Kashmir đến tận ngày nay vẫn chưa tìm được lối ra.
2.2.2. Đấ u tranh bư ớ c đầ u trên lĩnh vự c kinh tế , chính trị , ngoạ i
giao củ a quố c gia Ấ n Độ tự trị (1947 - 1950)
Sau khi giành độc lập về chính trị, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho Ấn Độ
trong thời kỳ đấu tranh từ tự trị đến Cộng hòa (1947 - 1950) là phải thực
12
hiện một loạt biến đổi sâu sắc về kinh tế, chính trị - xã hội, ngoại giao
nhằm xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, thủ tiêu tàn tích xã hội cũ, bước đầu xây
dựng đường lối kinh tế tự chủ và đối ngoại độc lập, đặt nền tảng cho sự
phát triển của Ấn Độ trong giai đoạn đầu của nền Cộng hòa (1950 - 1964).
Về kinh tế, ngày 6/4/1948, tại Quốc hội lập pháp, Chính phủ Ấn Độ
chính thức công bố “Tuyên ngôn về chính sách công nghiệp”, lịch sử
thường gọi theo nội dung là Tuyên ngôn về “Nền kinh tế hỗn hợp”. Điểm
căn bản nhất của Tuyên ngôn là nhà nước nắm độc quyền một số ngành
công nghiệp quan trọng. Bên cạnh đó, chính sách cải cách ruộng đất được
Chính phủ ban hành cuối năm 1947, bắt đầu áp dụng thực tế ở một số địa
phương từ năm 1948 và từng bước mở rộng quy mô trên cả nước, kết thúc
vào năm 1954.
Về chính trị, nét đặc trưng trong lịch sử Ấn Độ giai đoạn này là: quá
trình đấu tranh thực hiện quy chế tự trị xen lẫn với cuộc đấu tranh giành
độc lập. Đó là quá trình đấu tranh không khoan nhượng trên mặt trận chính
trị của Chính phủ và nhân dân Ấn Độ đối với thực dân Anh và các thế lực
đối lập vì một nước Ấn Độ độc lập, thống nhất, dân chủ trên một số lĩnh
vực cơ bản: quá trình Ấn Độ hóa chính quyền; xây dựng Hiến pháp và thể
chế chính trị Ấn Độ.
Về ngoại giao, Ấn Độ vẫn tiếp tục đấu tranh trong khối Liên hiệp Anh
và buộc khối này chính thức công nhận Ấn Độ là một nước Cộng hòa và
tiếp tục là thành viên chính thức của khối. Mặt khác, trong giai đoạn này,
Ấn Độ từng bước thiết lập quan hệ song phương với các nước trên cơ sở

đường lối ngoại giao hòa bình. Tuy nhiên, quan hệ giữa Ấn Độ - Pakistan
bắt đầu trở nên phức tạp khi vấn đề Kashmir đã được quốc tế hóa, tương
lai cuối cùng vẫn còn bỏ ngõ, trở thành nơi nhạy cảm nhất cho đến tận
ngày nay trong quan hệ với quốc gia láng giềng này.
13
Chương 3
NỘI DUNG CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964
Đứng trước xu thế chung của thời đại, thông qua cách thức hoạch định
đường lối phát triển đất nước trên các lĩnh vực khác nhau, kế thừa quá
trình xây dựng nền tảng ban đầu trong thời kỳ tự trị 1947 - 1950, trong giai
đoạn 1950 - 1964, “kỷ nguyên J. Nehru”, Ấn Độ đã giải quyết cụ thể yêu
cầu đặt ra của quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại
giao, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, từng bước tạo sự ổn định,
củng cố độc lập thành công.
3.1. Trên lĩnh vực kinh tế
3.1.1. Chiế n lư ợ c và sách lư ợ c cho nề n kinh tế Ấ n Độ
Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo Ấn Độ, để xây dựng Ấn Độ
thành một nước công nghiệp giàu mạnh, tự lực tự cường, vấn đề then chốt
là phải thực hiện một cuộc cải biến căn bản trong khoa học - kỹ thuật, phải
đưa nền khoa học - kỹ thuật của Ấn Độ từ tình trạng lạc hậu lên trình độ
tiên tiến. Bên cạnh đó, phải dành ưu tiên hàng đầu cho phát triển nông
nghiệp nhằm giải quyết vấn đề thiếu thốn lương thực, và sau cùng là phát
triển một nền công nghiệp đa dạng và vững mạnh. Tuy nhiên, không phải
lúc nào các yếu tố này cũng dành được những vị trí ưu tiên như nhau, mà
tùy theo tình hình và điều kiện cụ thể của mỗi thời kỳ, lĩnh vực này có thể
được coi trọng hơn lĩnh vực kia. Điều này được phản ánh cụ thể trong các
kế hoạch phát triển 5 năm của Ấn Độ.
3.1.2. Chú trọ ng phát triể n kinh tế nhà nư ớ c và khoa họ c công nghệ
Trong Nghị quyết về chính sách công nghiệp hóa ban hành năm 1956,

khu vực kinh tế nhà nước được trao độc quyền nắm các ngành công nghiệp
then chốt có tầm quan trọng về kinh tế và an ninh quốc phòng. Điều này
nhằm củng cố sản xuất của quốc gia, kiểm soát các hoạt động của khu vực tư
nhân, kích thích sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế (kể cả
khu vực nhà nước và tư nhân). Mặt khác, với nhận thức tiến bộ về vai trò của
14
khoa học công nghệ đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa, Chính
phủ Ấn Độ đã xây dựng đường lối chiến lược đúng đắn và hệ thống nghiên
cứu, đào tạo khoa học kỹ thuật tiên tiến. Vì thế, trong giai đoạn 1950 - 1964,
Ấn Độ vươn lên trở thành một thế lực thực sự cả về kinh tế lẫn quân sự.
3.1.3. Các kế hoạ ch 5 năm phát triể n kinh tế
Ngoài những chính sách và hướng ưu tiên phát triển, nhiệm vụ đặt ra
cho Chính phủ J. Nehru trong thời kỳ Cộng hòa là phải cải tạo sâu sắc nền
kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, xây dựng một nền kinh tế hiện đại,
thịnh vượng trên cơ sở tự lực tự cường, làm nền tảng để củng cố độc lập
dân tộc và bảo vệ chủ quyền. Theo đó, tháng 3/1950, Ủy ban kế hoạch
được thành lập và sau đó trình bày trước Quốc hội kế hoạch phát triển kinh
tế 5 năm đầu tiên (1951 - 1956), lần thứ hai (1956 - 1961), lần thứ (1961 -
1965). Nhìn chung, qua mỗi kế hoạch phát triển, Chính phủ Ấn Độ căn cứ
vào tình hình thực tiễn của quốc gia để hoạch định cho những mục tiêu
phát triển bền vững trong từng lĩnh vực, vừa thu hẹp khoảng cách giữa các
vùng miền, vừa tạo ra biến đổi sâu sắc trong xã hội, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của quốc gia, góp phần quyết định đến nền độc lập dân tộc.
3.2. Trên lĩnh vực chính trị
3.2.1. Thự c hiệ n cả i cách lãnh thổ hành chính
Căn cứ vào Hiến pháp năm 1950, nguyên tắc phân chia đơn vị hành
chính rất phức tạp, không phản ánh được tính chất ngôn ngữ, tộc người vốn
rất phức tạp, hình thành từ lâu đời ở Ấn Độ. Ngày 1/10/1956, đạo luật mới
liên quan đến các đơn vị hành chính lãnh thổ của Ấn Độ bắt đầu có hiệu
lực. Theo đó, Chính phủ đã thành lập 14 bang mới trên cơ sở các công

quốc cũ và 6 vùng lãnh thổ hành chính trực thuộc trung ương. Việc cải
cách lãnh thổ hành chính có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nhà nước
sau độc lập. Về cơ bản hình thức công quốc phong kiến lỗi thời do thực
dân Anh duy trì trên đất nước Ấn Độ đã bị xóa sạch, đồng thời cũng thủ
tiêu triệt để sự tồn tại của các tiểu quốc, tạo điều kiện ổn định cho sự quản
lý tập trung hơn từ chính quyền nhà nước. Điều này cũng được coi là một
bước quan trọng tiến tới hội nhập quốc gia.
15
3.2.2. Bầ u cử Quố c hộ i dân chủ đầ u tiên
Bước vào thời kỳ xây dựng nền Cộng hòa, Chính phủ Ấn Độ phải đối
mặt với nhiều khó khăn và phức tạp trong nền chính trị đa đảng. Qua 3
cuộc tổng tuyển cử đầu tiên dưới chính thể Cộng hòa (1951 - 1952, 1957,
1962), thắng lợi của Đảng Quốc đại làm cơ sở để Chính phủ Thủ tướng J.
Nehru tiếp tục duy trì quyền lãnh đạo trong sự nghiệp củng cố độc lập, xây
dựng đất nước, ổn định chính trị, thúc đẩy dân chủ cũng như hạn chế ảnh
hưởng các lực lượng đối lập, tăng cường củng cố nền độc lập dân tộc.
3.2.3. Đấ u tranh thu hồ i các vùng đấ t thuộ c Pháp và Bồ Đào Nha
Quá trình đấu tranh thu hồi lãnh thổ của Pháp và Bồ Đào Nha được
tiến hành tuy theo kiểu thức khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là chấm
dứt sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân trên lãnh thổ Ấn Độ. Chính phủ
Ấn Độ đã kết hợp hài hòa những nhân tố bên trong và bên ngoài, thậm chí
phải hy sinh con đường hòa bình cho mục tiêu và lý tưởng chống chủ
nghĩa thực dân. Bước đầu, cuộc đấu tranh toàn vẹn lãnh thổ đã giành thắng
lợi. Điều đó góp phần khẳng định vững chắc chủ quyền quốc gia dân tộc
trong bối cảnh sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ
đang gặt hái những thành tựu to lớn. Mặt khác, nó cũng cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới, từng bước làm tan rã
hoàn toàn chủ nghĩa thực dân tại các thuộc địa.
3.3. Trên lĩnh vực ngoại giao
3.3.1. Quan hệ vớ i các nư ớ c láng giề ng

Trong số các quốc gia láng giềng, Pakistan là một trường hợp đặc biệt
trong quan hệ với Ấn Độ. Hậu quả từ chính sách “đi mà ở” của thực dân Anh
đã dẫn đến sự ra đời của nhà nước Pakistan, đồng thời tạo nên những bất ổn,
mâu thuẫn trong cộng đồng tôn giáo, dân tộc ở hai quốc gia, nhất là vấn đề
Kashmir trở thành tâm điểm trong mối quan hệ này. Mặt khác, với Trung
Quốc, từ quan hệ thân thiện dựa trên những nét tương đồng xuất phát từ lợi ích
của cả hai nước trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, quan hệ Ấn - Trung trở nên
căng thẳng thậm chí là thù địch từ chiến tranh Trung - Ấn năm 1962.
16
3.3.2. Quan hệ vớ i các siêu cư ờ ng Xô, Mỹ
Trong bối cảnh phức tạp của Trật tự thế giới hai cực, việc tăng cường
quan hệ với các siêu cường Xô, Mỹ vừa giúp Ấn Độ giải quyết các vấn đề
trong nước, vừa khẳng định vị thế của mình trong một số vấn đề quốc tế và
khu vực. Với Liên Xô, đây không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa hai quốc
gia mà còn tác động qua lại sâu rộng với tổng thể các mối quan hệ quốc tế
thời kỳ Chiến tranh lạnh. Trên thực tế, Ấn Độ dường như “nghiêng” hơn
về phía Liên Xô. Với Mỹ, Ấn Độ vừa tuân thủ nguyên tắc của đường lối
đối ngoại không liên kết, vừa tăng cường quan hệ trên lĩnh vực kinh tế, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc.
3.3.3. Tham gia sáng lậ p Phong trào không liên kế t
Với tư cách là quốc gia khởi xướng và đi tiên phong, Ấn Độ có những
đóng góp quan trọng cho phong trào trong giai đoạn đầu, đặc biệt là 5
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình (Panch Sheel), sau này phát triển thành
10 nguyên tắc Bandung, đã trở thành cơ sở cho chính sách đối ngoại của
các nước Á - Phi mới độc lập, cũng như những nguyên tắc của Phong trào
Không liên kết sau này trong quan hệ giữa các quốc gia. Sự đóng góp đó
gắn liền với tên tuổi của Thủ tướng J. Nehru từ ý tưởng đến sự hoàn thiện
về tư tưởng, và từ tư tưởng đến hiện thực thông qua những nỗ lực hoạt
động thực hiện sôi nổi.
3.3.4. Giữ vai trò trong mộ t số vấ n đề quố c tế và khu vự c

Mặc dù phải giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội phức tạp,
trước những biến động của Trật tự thế giới hai cực, Ấn Độ nổi lên như một
nhân tố trung gian của thế giới thứ ba, đóng góp tích cực vào việc điều hòa
mâu thuẫn, đảm bảo cho nền hòa bình thế giới. Sự hiện diện tại các Hội
nghị quốc tế quan trọng cũng như thái độ, quan điểm và phương thức hành
động của Ấn Độ đối với một số vấn đề quốc tế và khu vực như: Chiến tranh
Triều Tiên, Chiến tranh Đông Dương, sự kiện Ai Cập quốc hữu hóa kênh
đào Suez, Liên Xô đưa quân vào Hungari, nội chiến Congo, vừa khẳng định
uy tín của mình trong thế giới thứ ba, trong Liên hợp quốc, vừa chứng minh
17
cho đường lối đối ngoại đặc trưng hòa bình, trung lập, không liên kết. Quan
trọng hơn, với những động thái đó, quan điểm của các cường quốc đối với
Ấn Độ có sự thay đổi rõ ràng và là thành công đáng ghi nhận của nền ngoại
giao Ấn Độ trong hơn một thập niên của nền Cộng hòa.
3.4. Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh
3.4.1. Tăng cư ờ ng xây dự ng và củ ng cố nề n quố c phòng - an ninh
Trước hết, việc hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng quốc phòng và
thông tin liên lạc ở biên giới phía Bắc cũng như phát triển lực lượng vũ
trang Ấn Độ được Chính phủ chú trọng quan tâm. Bên cạnh đó, kinh phí
đầu tư cho việc trang bị quốc phòng hiện đại các lực lượng quân đội Ấn
Độ ngày một tăng, nhất là sau chiến tranh Trung - Ấn năm 1962. Một mặt,
vừa đảm bảo an ninh biên giới phía Bắc trước các hành động xâm lấn của
Trung Quốc, mang lại sự ổn định cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
phát triển kinh tế, xã hội của Ấn Độ, vừa góp phần nâng cao hơn nữa “sức
mạnh cứng” trong sự nghiệp bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc, cũng như
vị thế của Ấn Độ ở khu vực và quốc tế.
3.4.2. Củ ng cố quan hệ vớ i các vư ơ ng quố c trên dãy Himalaya
Trong khi nhận thức đầy đủ tham vọng của Trung Quốc mở rộng
lãnh thổ xuống vùng Tây Nam, Chính phủ Ấn Độ đã phản ứng linh hoạt
với tình hình Himalaya, tránh những hành động khiêu khích từ Bắc Kinh,

tiếp tục tạo sự bình yên khu vực biên giới (ít nhất đến trước xung đột biên
giới Trung Quốc - Ấn Độ tháng 10/1962) bằng chính sách ngoại giao
khôn khéo của Thủ tướng J. Nehru với các vương quốc trên cơ sở kế thừa
mối quan hệ từ trước của người Anh. Tầm quan trọng trong quan hệ của
Ấn Độ với các vương quốc Sikkim, Bhutan và Nepal có một tác động rất
lớn đối với an ninh biên giới phía Bắc, tạo sự ổn định cần thiết cho sự
nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ. Trên thực tế, chính
quyền J. Nehru đã xác lập và “mặc định” kiểu thức mối quan hệ của Cộng
hòa Ấn Độ với các vương quốc trong dãy Himalaya theo phương châm
“bạn ổn định, mình an ninh”.
18
3.5. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
3.5.1. Vấ n đề thố ng nhấ t ngôn ngữ quố c gia
Theo Hiến pháp Ấn Độ năm 1950, tiếng Hindi là ngôn ngữ chính thức
của liên bang và tiếng Anh vẫn sẽ được sử dụng như là ngôn ngữ chính
thức thứ hai của đất nước trong thời gian 15 năm. Trên thực tế, tiếng Hindi
vốn là ngôn ngữ của người bản địa, có bề dày lịch sử, là tiếng nói thông
dụng của các tổ chức xã hội, được người dân Ấn Độ sử dụng nhiều nhất,
được xem là ngôn ngữ chính. Trong khi đó, tiếng Anh và nền giáo dục
Anh trong suy nghĩ của nhiều người Ấn Độ theo chủ nghĩa dân tộc là biểu
tượng của “chế độ nô lệ vĩnh viễn”, nhưng được thông dụng ở các bang
miền Nam. Vì vậy, mâu thuẫn ngày càng gia tăng ở hai khu vực này. Ngày
10/5/1963, Quốc hội đã ban hành Luật Ngôn ngữ chính thức, trong đó tiếp
tục cho phép sử dụng tiếng Hindi và tiếng Anh vào các mục đích chính
thức, ngay cả sau năm 1965, được cụ thể hóa trong đạo luật năm 1967.
Việc pháp lý hóa ngôn ngữ là sự lựa chọn phù hợp trong điều kiện một
quốc gia đa ngôn ngữ như Ấn Độ. Về cơ bản, ngôn ngữ quốc gia được giải
quyết trên cơ sở dân chủ và theo phương thức thúc đẩy sự hợp nhất quốc
gia. Tiếng Hindi và tiếng Anh vẫn sử dụng cho các hoạt động của nhà
nước và ở các bang cùng với tất cả các ngôn ngữ địa phương.

3.5.2. Hộ i nhậ p các bộ lạ c trong nề n văn hóa dân tộ c
Vấn đề bảo tồn những di sản xã hội và nền văn hóa phong phú của các
bộ lạc là trọng tâm trong chính sách của Chính phủ Ấn Độ về hội nhập bộ
lạc. Nắm vững quan điểm “thống nhất trong đa dạng”, J. Nehru khởi
xướng cuộc vận động về phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là các
lĩnh vực truyền thông, thiết bị y tế hiện đại, nông nghiệp và giáo dục trong
khu vực của các bộ lạc. Nhiều chương trình, đề án phúc lợi cho sự phát
triển các bộ lạc thuộc vùng Đông Bắc, Nagaland, Mizoram, Jharkhand
được xây dựng và triển khai bởi Chính phủ Ấn Độ trong giai đoạn 1950 -
1964 thông qua các kế hoạch 5 năm, vừa đảm bảo an ninh biên giới, góp
phần tạo nên sự đa dạng và phong phú trong nền văn hóa, vừa đảm bảo
mục tiêu củng cố độc lập dân tộc.
19
Chương 4
NHẬN XÉT VỀ SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964
VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
4.1. Đánh giá chung
4.1.1. Nhữ ng thành tự u
Một là, với những chính sách thực hiện của Chính phủ Thủ tướng J.
Nehru đã tạo ra biến đổi sâu sắc trong xã hội Ấn Độ giai đoạn 1950 -
1964. Trước hết hệ thống luật pháp Ấn Độ công nhận quyền lợi chính đáng
của người lao động, phát triển hệ thống giáo dục quốc dân rộng lớn, các
dịch vụ sức khỏe, y tế có sự mở rộng đáng kể. Bên cạnh đó, hai chương
trình lớn nhằm phát triển vùng nông thôn, cụ thể là “chương trình phát
triển cộng đồng” và “Panchayan Rai”, được thiết kế nhằm mục đích đặt
nền móng cho hệ thống phúc lợi xã hội của quốc gia. Hai là, uy tín và vị
thế của Chính phủ Ấn Độ đối với người dân trong nước và trên trường
quốc tế được nâng cao. Một mặt, Chính phủ kết hợp linh hoạt và hiệu quả
giữa phát triển kinh tế với chính sách xã hội theo hướng mọi người dân Ấn

Độ phải được đảm bảo về mặt xã hội một cách tốt nhất. Điều này tạo nên
sự ổn định chính trị xã hội, được coi là nền tảng quan trọng để củng cố độc
lập dân tộc ở Ấn Độ. Mặt khác, Ấn Độ nổi lên như một nhân tố mang hòa
bình cho các cuộc xung đột khu vực bằng những giải pháp hiệu quả.
4.1.2. Nhữ ng hạ n chế
Sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn
này thu được nhiều thành công, song vẫn còn một số hạn chế nhất định. Đó
là: vấn đề dân tộc, ngôn ngữ vẫn chưa được giải quyết sau cuộc cải cách
hành chính năm 1956; uy tín của Chính phủ Ấn Độ bị giảm sút sau cuộc
chiến tranh năm 1962 đối với nhân dân trong nước và trên phương diện quốc
tế, không chỉ để lại những hậu quả trước mắt mà mầm móng xung đột vẫn
còn kéo dài cho đến ngày nay giữa hai quốc gia; vấn đề Kashmir vẫn chưa
20
giải quyết dứt khoát, gây nên những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, xã
hội cho cả hai dân tộc mà còn dẫn đến ba cuộc chiến tranh và nhiều lần tranh
chấp, vẫn chưa tìm được giải pháp thỏa đáng.
4.1.3. Đặ c điể m củ a sự nghiệ p củ ng cố độ c lậ p dân tộ c Cộ ng hòa Ấ n
Độ trong giai đoạ n 1950 - 1964
Một là, sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong
giai đoạn 1950 - 1964 đặt nền tảng quan trọng cho quá trình phát triển
quốc gia thời kỳ tiếp theo. Hai là, góp phần hoàn thiện hơn chính sách đối
ngoại “hòa bình, trung lập, không liên kết”, trở thành xu hướng phát triển
độc đáo trong bối cảnh Chiến tranh lạnh. Ba là, trong sự nghiệp này thể
hiện xuất sắc vai trò của “kiến trúc sư” - Thủ tướng J. Nehru trên các
phương diện như: củng cố nền độc lập của Ấn Độ, thúc đẩy đoàn kết,
thống nhất đất nước, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, trung thành với
chính sách đối ngoại hòa bình, trung lập và không liên kết.
4.2. Kinh nghiệm từ sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng
hòa Ấn Độ đối với các nước đang phát triển
4.2.1. Giữ vữ ng và ổ n đị nh chính trị - xã hộ i, từ ng bư ớ c thự c hiệ n

dân chủ
Trong giai đoạn 1950 - 1964, chính quyền của Thủ tướng J. Nehru chú
trọng ổn định chính trị xã hội thông qua các chính sách về hòa nhập bộ lạc
vào dòng chủ lưu chính theo hướng “thống nhất trong đa dạng”, về thống
nhất ngôn ngữ quốc gia, hoàn thiện hệ thống pháp lý (Hiến pháp), kiện
toàn nền hành chính liên bang, kiềm chế sự chống đối của các đảng đối
lập… Về cơ bản, Ấn Độ tỏ ra là một thể chế ổn định về chính trị hiếm thấy
ở các nước đang phát triển. Chính phủ ổn định trong lúc các cuộc bầu cử
tự do được tổ chức đều đặn, duy trì thế cân bằng và tính độc lập giữa các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, tôn trọng các quyền tự do được ghi
trong Hiến pháp. Mặt khác, để đảm bảo sự thống nhất, đoàn kết, ổn định
trong một quốc gia có xã hội đa dạng như Ấn Độ, việc xây dựng một thể
chế dân chủ là điều tối quan trọng. Một Hiến pháp với các quyền tự do dân
21
chủ cơ bản, một Quốc hội được lập ra dựa trên các cuộc bỏ phiếu định kỳ
cùng một nội các chính phủ và Bộ Tư pháp độc lập. Bên cạnh đó, chính
phủ luôn ý thức rõ rằng, để phát triển kinh tế quốc gia phải dựa trên một
cấu trúc chính trị tự do, dân chủ. Tính đến thời điểm đó, chưa có một quốc
gia nào làm được điều này.
4.2.2. Xây dự ng chiế n lư ợ c phát triể n kinh tế độ c lậ p, tự chủ , có kế hoạ ch
Kinh nghiệm của Ấn Độ chỉ ra rằng, quốc gia này đã lựa chọn xây
dựng một mô hình “kinh tế hỗn hợp” với hai thành phần: kinh tế nhà nước
và kinh tế tư nhân, trong đó kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo. Thành
phần kinh tế nhà nước nắm những ngành công nghiệp then chốt có tầm
quan trọng về kinh tế và an ninh quốc phòng. Kinh tế tư nhân chỉ tham gia
vào một số lĩnh vực nhất định và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước
thông qua các đạo luật nhằm ngăn chặn xu hướng tập trung hóa dẫn tới tư
bản độc quyền. Tất cả nằm trong một cơ chế quản lý tập trung, kế hoạch
hóa (còn gọi là nền kinh tế kế hoạch hóa mềm) - mô hình phát triển
Mahalanobis. Ấn Độ chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, trong đó ưu

tiên phát triển công nghiệp nặng. Công nghiệp nhẹ được phát triển rộng
khắp nhằm đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng trong nước. Với đường lối độc
lập và tự lực cánh sinh, Ấn Độ đã thực hiện chính sách đóng cửa và chính
sách thay thế nhập khẩu (import substitution). Nông nghiệp cũng được ưu
tiên phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực và nguyên liệu cho
công nghiệp. Nông nghiệp được coi như một trong hai chân của nền kinh
tế. Từ sự lựa chọn trên, các kế hoạch ngắn hạn phát triển kinh tế 5 năm ở
Ấn Độ đã lần lượt ra đời và quốc gia này đã thật sự thành công. Mô hình
đó giúp Ấn Độ đứng vững trong hơn một thập kỷ của nền Cộng hòa đầy
khó khăn và thử thách.
4.2.3. Thự c hiệ n chính sách đố i ngoạ i và giả i quyế t các vấ n đề quố c
tế mề m dẻ o, linh hoạ t
Trong mối quan hệ quốc tế phức tạp của Chiến tranh lạnh, là nước đi
đầu trong thế giới thứ ba, lựa chọn con đường trung lập, nhưng không vì
22
thế Ấn Độ từ bỏ mối quan hệ với hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa. Ngược lại, khi thiết lập quan hệ với hai nước lớn, trong chính
sách đối ngoại, Ấn Độ thể hiện rõ tính linh hoạt, mềm dẻo. Bằng chứng là,
sau khi độc lập, Ấn Độ đã thiết lập quan hệ với Liên Xô và Mỹ. Tuy nhiên,
trải qua những biến động tình hình quốc tế, Ấn Độ dần nhận rõ lập trường
và quan điểm của các bên, từ đó chủ động nghiêng hơn về phía Liên Xô,
trên cơ sở tương đồng về đường lối đối ngoại. Đây cũng là điểm khác biệt
căn bản nhất giữa mối quan hệ Ấn Độ - Liên Xô và Ấn Độ - Mỹ. Bên cạnh
đó, với vai trò trung gian, Ấn Độ sử dụng Liên hợp quốc và các Hội nghị
quốc tế như một diễn đàn, vừa đấu tranh chống cường quyền, vừa linh hoạt
giải quyết các vấn đề quốc tế phức tạp theo phương thức hòa bình. Vì thế,
góp phần nâng cao uy tín của Ấn Độ trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho
Ấn Độ củng cố và bảo vệ độc lập dân tộc.
KẾT LUẬN
Từ sự nghiệp đấu tranh củng cố nền độc lập, phát triển đất nước của

Cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964, luận án có thể rút ra một số
kết luận sau:
Thứ nhất, là một đất nước rộng lớn khu vực Nam Á, với nhiều nét đặc
thù riêng biệt về dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai cấp, có
truyền thống văn minh lâu đời; nên ngay từ khi thoát khỏi ách thống trị của
thực dân Anh, trải qua thời gian từ tự trị đến Cộng hòa, Ấn Độ đã lựa chọn
cho mình một con đường đấu tranh riêng để củng cố và bảo vệ độc lập của
dân tộc mình. Trước vòng xoáy của Chiến tranh lạnh, những người sáng
lập ra nước Cộng hòa Ấn Độ đặt nhiệm vụ xây dựng đất nước thành một
quốc gia độc lập, hùng mạnh và thịnh vượng trên cơ sở tự lực tự cường.
Và cho dù đi theo xu hướng nào đi nữa, giai đoạn 1950 - 1964, Ấn Độ
cũng đã thành công trong việc thành lập nhà nước Cộng hòa, đạt được
nhiều thành tựu trong công cuộc xây dựng đất nước. Những thành tựu to
23
lớn về các mặt trong sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc hơn một thập kỷ
đầu nền Cộng hòa chứng tỏ sự đúng đắn của đường lối xây dựng đất nước
nói chung và phát triển kinh tế nói riêng của Chính phủ Ấn Độ mà J.
Nehru là kiến trúc sư. Đó là đường lối độc lập tự chủ, là đường lối phù hợp
với tình hình của Ấn Độ và xu thế của thời đại.
Thứ hai, sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong
1950 - 1964 chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố khách quan quan trọng: bối
cảnh quốc tế và khu vực với sự căng thẳng của Trật tự hai cực và Chiến
tranh lạnh, sự tương tác qua lại trong quan hệ với các nước láng giềng…
Tuy nhiên, nhìn toàn bộ tiến trình của sự nghiệp này, trên cơ sở những
thành công và hạn chế trong thời gian đấu tranh từ tự trị đến Cộng hòa
(1947 - 1950), Chính phủ của Thủ tướng J. Nehru đã thực hiện một sự điều
chỉnh phù hợp trong các chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội,
ngoại giao, quốc phòng - an ninh nhằm đưa Ấn Độ phát triển mạnh mẽ ở
một giai đoạn lịch sử mới. Trên thực tế, trong giai đoạn 1950 - 1964, Ấn
Độ đã đạt được những thành tựu quan trọng. Về đối nội, là sự ổn định

tương đối của tình hình chính trị - xã hội, tạo điều kiện tốt cho việc thực
hiện các kế hoạch phát triển kinh tế, một chính sách song ngữ Hindi - Anh
cũng như hội nhập các bộ lạc trong nền văn hóa dân tộc là cơ sở cho tính
“thống nhất trong đa dạng”, một nền quốc phòng và an ninh vững mạnh
làm cơ sở để củng cố nền độc lập dân tộc trước mối đe dọa từ bên ngoài.
Về đối ngoại, Ấn Độ đã tạo dựng hình ảnh, nâng cao vị thế và tầm ảnh
hưởng của mình trong thế giới thứ ba, quan hệ với các siêu cường và trong
việc xử lý các vấn đề quốc tế, khu vực phức tạp thời kỳ Chiến tranh lạnh
phù hợp với xu thế của thời đại. Có thể khẳng định rằng, đây chính là giai
đoạn định hướng, tìm tòi và đặt nền tảng ban đầu cho sự phát triển vượt
bậc của Cộng hòa Ấn Độ sau này.
Thứ ba, trong bối cảnh thế giới phân cực một cách rõ nét, việc lựa
chọn con đường thứ ba - con đường không liên kết và kiên định con đường
này để vừa đảm bảo lợi ích dân tộc, vừa phù hợp với bối cảnh quốc tế là sự

×