Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

dịch vụ bao thanh toán nội địa ở ngân hàng Á Châu ACB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.37 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, kinh doanh ngày một phát triển kéo theo sự đa dạng cũng như
mức độ phức tạp của mối quan hệ chủ ngân hàng - người vay nợ. Không một doanh nghiệp nào
tránh khỏi những khoản nợ phát sinh, và điều này đã trở thành một yếu tố tất nhiên trong các hoạt
động kinh doanh thường nhật của doanh nghiệp.
Các công ty có thể vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau để phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của mình, nhưng cùng lúc đó, tình trạng nợ khó đòi đã trở thành một vấn đề nhức nhối đối
với nhiều doanh nghiệp chủ nợ. Nhiều công ty đang phải đối mặt với mức độ rủi ro tín dụng rất
cao, trong đó rủi ro về tổn thất nợ khó đòi là một trong những nhân tố cần được kiểm soát chặt
chẽ. Không ít trường hợp, tổn thất do các khoản nợ bị "ngâm" của các công ty liên tục gia tăng,
làm suy giảm năng lực cạnh tranh, thậm chí dẫn tới nguy cơ phá sản.
Nhưng khó khăn nào cũng sẽ có lối thoát. Trong bối cảnh rắc rối này, hoạt động mua bán
nợ (factoring) trở thành vị cứu tinh khi nó có thể giải quyết được tình trạng bế tắc về nợ nần, giúp
công ty chủ nợ thu hồi vốn để hoạt động. Đối với các công ty hoạt động thường xuyên phát sinh
nợ dài ngày, giải pháp mua, bán nợ là không thể thiếu.
Tại Mỹ và châu Âu, các công ty kinh doanh chuyên mua bán nợ được hình thành từ khá
sớm và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong quản lý nợ khó đòi của các công ty. Họ tạo ra một
thị trường nợ rất sôi động có thể mang lại nhiều lợi nhuận, đồng thời cung cấp nhiều giải pháp
chuyên môn hoá cho cả chủ nợ lẫn khách nợ. Không chỉ có vậy, hoạt động mua bán nợ còn trợ
giúp cho những công ty mới thành lập khỏi e ngại khi tiếp cận với các nguồn vốn vay phục vụ hoạt
động kinh doanh ban đầu. Nhưng ở Việt Nam thì hoạt động này còn rất hạn chế do rất nhiều
nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan. Số lượng đơn vị bao thanh toán khá ít và số doanh
nghiệp sử dụng dịch vụ này càng ít hơn. Tuy nhiên, theo xu hướng chung của sự phát triển nền
kinh tế thì dịch vụ bao thanh toán cũng phát triển trong thời gian tới.
Bài thuyết trình của nhóm 12 nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về dịch vụ bao thanh
toán nội địa ở ngân hàng Á Châu ACB để các bạn và cô có cái nhìn tổng quát về dịch vụ mới mẻ
này ở Việt Nam.
1
NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN (FACTORING)
Khái niệm về Bao thanh toán (BTT)
Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economic – Christopher Pass & Bryan Lones),


“Factoring là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên nghiệp (công ty mua
nợ - factor firm) mua lại các khoản nợ của một công ty với số tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó.
Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được của số nợ đã mua và giá mua thực tế của
món nợ đó. Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả
nợ, hơn nữa lại tránh được những phiền toái và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm
trả”.
Còn theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng – Hans Klaus thì “Factoring là một loại hình tài
trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một công ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ
cho một công ty tài chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ, thông thường là một công ty trực thuộc
ngân hàng). Công ty này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản phải thu để
hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông thường công ty mua nợ phải chịu rủi
ro mất khả năng thanh toán của món nợ”.
Tiến sĩ kinh tế Edward W. Reed và Edward K. Gill cho rằng: “Factoring là việc mua lại
các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua các khoản nợ của khách hàng trên cơ sở không truy đòi
và tiến hành một số các dịch vụ khác ngoài việc ứng trước các khoản nợ. Công ty mua nợ đánh
giá mức tín dụng trong hiện tại và tương lai của khách hàng (người bán) và xác lập các hạn mức
tín dụng ứng trước. Các khách hàng được yêu cầu gửi trực tiếp cho công ty mua nợ bản sao hoá
đơn. Khoản ứng trước thường từ 80% - 90% trị giá hoá đơn. Khoản dự trữ 10% - 20% được công
ty mua nợ giữ lại để phòng ngừa hàng trả lại, hàng giao thiếu, hoặc các yêu cầu khác của người
mua. Thường thường vào cuối tháng, công ty mua nợ tính toán mức phí thu được trên số dư trên
các khoản nợ chưa thu và cấp thêm vốn cho khách hàng”.
Qua các khái niệm về factoring trên đây, chúng ta có thể hiểu factoring là việc chuyển nợ
của người mua hàng (con nợ) từ người bán hay cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang công ty mua nợ
(chủ nợ mới). Công ty mua nợ đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro về không trả nợ hoặc không
có khả năng trả nợ của người mua. Công ty mua nợ có thể trả trước thời hạn toàn bộ hay một phần
2
các khoản nợ của người mua cùng với một khoản hoa hồng tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi ro không
thu được đều do người tài trợ gánh chịu.
Từ đó hình thành một quan hệ tài chính liên quan tới ba bên gồm công ty mua nợ (ngân
hàng, tổ chức tài chính), người bán hàng hoá hay cung ứng dịch vụ và người mua hàng hoá hay

nhận dịch vụ. Ngoài ra, nghiệp vụ factoring có thể "biến hoá" thành một số dịch vụ phụ như quản
lý tài khoản phải thu của khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền tệ, tín dụng và thương
mại nhằm tăng thu và giữ tốt mối quan hệ bạn hàng lâu dài.
Sở dĩ nghiệp vụ mua bán nợ được nhiều công ty trên thế giới áp dụng bởi lẽ thông qua
nghiệp vụ này, hoạt động tài chính trong kinh doanh được đa dạng hơn do có nhiều sản phẩm và
dịch vụ hơn. Cụ thể với nghiệp vụ factoring, trên thị trường sẽ có nhiều loại hình dịch vụ mới.
Chức năng của BTT:
BTT có 3 chức năng:
• Chức năng theo dõi và quản lý tiền hàng : đơn vị BTT giữ trọn bộ sổ sách bán hàng của
người bán, phụ trách toàn bộ việc quản lý và theo dõi tiến độ thu nợ tiền hàng của người
bán dựa trên các bản sao tất cả các hóa đơn gửi tới người mua, xử lý các hóa đơn và theo
dõiviệc thanh toán tiền hàng khi đến hạn.
Chức năng tài trợ thuần túy : mỗi khi nhận được hoá đơn của người bán, đơn vị BTT sẽ cấp
ngay cho người bán một số tiền theo tỷ lệ phần trăm xác định của giá trị hóa đơn. Phần còn
lại của giá trị hóa đơn sẽ được tổ chức tài trợ cam kết thanh toán cho người bán sau một
thời hạn thỏa thuận sau khi trừ đi các khoản phí dịch vụ tài trợ và lãi chiết khấu.
Chức năng đảm nhận rủi ro thương mại của người mua : khi bán các khoản phải thu cho tổ
chức tài trợ, người bán đã chuyển giao các rủi ro thương mại của bên mua cho tổ chức này
dựa theo thoản thuận trong hợp đồng.
Các loại BTT:
BTT kỳ hạn (Maturity factoring)
Khi tài trợ dạng này, tổ chức tài trợ BTT không ứng trước tiền hàng cho người bán vào
thời điểm mua các khoản phải thu. Thay vào đó, hai bên thoả thuận kỳ hạn thanh toán bình quân
cho các khoản phải thu của người bán.
Với dạng BTT này, tổ chức tài trợ BTT thực hiện hai chức năng: chức năng quản lý nợ
phải thu và đảm nhận các rủi ro không thanh toán bởi người mua.
3
BTT thông thường (conventional factoring)
Trong BTT thông thường, ngoài hai chức năng quản lý thu nợ và nhận rủi ro thanh toán
như trong BTT kỳ hạn, tổ chức tài trợ BTT còn thực hiện chức năng tài trợ ứng trước cho người

bán một phần giá trị khoản phải thu theo một tỷ lệ nhất định. Khoản tài trợ ứng trước này được
tính lãi căn cứ vào số ngày tài trợ thực tế, với lãi suất thường cao hơn mặt bằng lãi suất tài trợ của
ngân hàng một chút. Sau một thời gian thoả thuận, tổ chức tài trợ BTT sẽ chuyển trả phần còn lại
sau khi trích trừ phí và lãi tài trợ.
Một cách khác là tổ chức tài trợ BTT thực hiện chiết khấu ngay từ đầu các khoản phải thu
của người bán theo lãi suất chiết khấu thích hợp, có tính chung hoặc tách rời với các loại phí dịch
vụ khác. Cần lưu ý rằng việc chiết khấu khoản phải thu của người bán là loại chiết khấu không bảo
lưu, nghĩa là miễn truy đòi khi người mua không thanh toán, khác với chiết khấu thương phiếu
thông thường.
Rủi ro của BTT dạng này là rủi ro vỡ nợ của các công ty lớn có uy tín thay vì các công ty
nhỏ. Dạng BTT này được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển. Điển hình là BTT miễn
truy đòi chiếm 73% các khoản BTT ở Mỹ cho phép các đơn vị BTT cung ứng vốn ít rủi ro cho
những công ty rủi ro cao.
BTT kỳ hạn có truy đòi (With recourse maturity factoring)
Dạng tài trợ này tương ứng như tài trợ các khoản phải thu của các ngân hàng thương mại.
Theo đó, tổ chức tài trợ BTT không mua đứt khoản phải thu mà chỉ dựa vào đó để tài trợ cho
người bán loại cho vay có truy đòi, nghĩa là người bán phải hoàn trả nợ vay cho tổ chức tài trợ
BTT nếu không thu được tiền hàng. Như vậy, trong dạng tài trợ BTT này, tổ chức tài trợ BTT thực
hiện 2 chức năng : tài trợ và cung cấp dịch vụ thu nợ cho người bán.
Dù là BTT có truy đòi vẫn được xem là một nghiệp vụ mua bán các khoản phải thu thật sự
bởi vì quyền sở hữu và thu nợ các khoan phải thu không còn thuộc về người bán nữa mà đã được
chuyển nhượng cho đơn vị BTT
Quy trình thực hiện BTT nội địa :
Quy trình thực hiện BTT trong nước ờ Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB):
4
1.Bên bán hàng và ACB ký kết hợp đồng BTT.
2.Bên bán hàng và ACB cùng gửi thông báo về hợp đồng BTT cho bên mua hàng, trong đó nêu
rõ việc chuyển nhượng khoản phải thu cho ACB.
3.Bên mua hàng xác nhận về việc đã nhận thông báo và cam kết thanh toán cho ACB.
4.Bên bán hàng giao hàng cho bên mua.

5.ACB ứng trước cho bên bán hàng.
6.Bên mua hàng thanh toán khoản phải thu cho ACB khi đến hạn.
7.ACB thu phần ứng trước và thanh toán phần còn lại cho bên bán hàng
Lợi ích và nhược điểm của BTT:
Lợi ích của BTT
Lợi ích của BTT đối với người mua
Đơn vị BTT giúp người mua quản lý các khoản phải trả : người mua có thể
giảm được chi phí quản lý và chi phí thanh toán khi thanh toán các khoản phải trả cho ngân
hàng thay vì thanh toán cho hàng trăm nhà cung cấp riêng lẻ.
Người mua có thể phát triển mối quan hệ với người bán : Do người bán có thể
có nguồn tài trợ từ BTT nên người mua có thể dễ dàng thương lượng với người bán kéo dài
thời gian thanh toán. Nhờ vậy sức mua tăng mà không cần dùng đến các hạn mức tín
nhiệm hiện có.
Người mua có thể nhanh chóng nhận được hàng mà không bị chậm trễ, rắc rối
và tốn chi phí mở thư tín dụng : trong nghiệp vụ thanh toán bằng thư tín dụng, để tạo sự tin
tưởng đảm bảo việc thanh toán cho người bán, người mua thường yêu cầu ngân hàng của mình
5
phát hành thư tín dụngcho người bán. Thủ tục mở thư tín dụng rất tốn kém và mất thời gian.
Nhờ BTT mà bên mua sẽ giảm được những chi phí này.
Lợi ích của BTT đối với người bán
Thứ nhất, BTT giúp người bán tăng đơn đặt hàng.
Bán hàng tại các thị trường tăng lên nhờ việc đưa ra chào các điều khoản thanh
toán có tính cạnh tranh.
Các hạn mức tín nhiệm được cấp cho người mua và do vậy có thể đẩy nhanh thời
gian phản hồi đối với các đơn đặt hàng và đơn tái đặt hàng.
Thứ hai, xóa bỏ tình trạng trì hoãn thường hay gặp phải khi thương lượng,
chấp nhận thư tín dụng.
Thứ ba, giảm khối lượng công việc thu nợ.
BTT cung cấp cho khách hàng một dịch vụ thu nợ trọn gói. Người bán sẽ không
tốn chi phí cho nhiều công việc riêng lẻ : gửi hóa đơn, thông báo đòi nợ, thông báo trễ hẹn…

Người bán cũng được hưởng dịch vụ kiểm tra tín dụng người mua miễn phí.
Người bán không chỉ giảm việc thu nợ mà còn giảm được những khó khăn khi vay
nợ và trách nhiệm hoàn trả nợ do BTT là một sản phẩm có thể giúp người bán nhận được tiền
mà không phải đi vay.
Thứ tư, BTT bảo vệ bên bán chống các tổn thất tín dụng.
Trong BTT miễn truy đòi mọi rủi ro tín dụng sẽ do đơn vị BTT đảm nhận. Ngườ
bán có thể giới hạn chi phí thu hồi nợ và chi phí rủi ro ở một tỷ lệ xác định trên doanh thu trả
chậm.
Dù là BTT có truy đòi thì người bán cũng được cấp một dịch vụ thu nợ và thẩm
định tín dụng chuyên nghiệp. Giảm nguy cơ tổn thất tín dụng.
Trong trường hợp không sử dụng BTT thì người bán cũng được cung cấp thông
tin về rủi ro của các khoản phải thu, về người mua, nhất là với các khách hàng mới của doanh
nghiệp. Nhờ đó có những quyết định chính xác hơn khi cấp tín dụng thương mại cho người
mua.
Thứ năm, lưu chuyển tiền mặt được cải thiện nhờ việc thu và chuyển tiền
nhanh:
Trong kinh doanh nhiều khi người bán cần chi trả lương, các hóa đơn đến hạn của
các nhà cung cấp hay người bán cần chi trả một khoản vay ngân hàng nhưng lại không có đủ
6

×