Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Thực trạng và giải pháp kích cầu đầu tư trong giai đoạn suy thoái kinh tế tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Lai Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.97 KB, 101 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, trong giai đoạn nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề ổn định nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng và phát
triển toàn diện luôn là một trong những yêu cầu cấp thiết được đặt ra. Trong những
năm gần đây trước xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới chúng ta đã có rất nhiều
những cơ hội cho việc phát triển nền kinh tế song bên cạnh đó cũng có không ít khó
khăn mà một trong những khó khăn lớn nhất là phải đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển và hội nhập thành công, đồng thời cũng phải đảm bảo sự vững mạnh, tự chủ.
Hiện tại trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những bước
phát triển vượt bậc với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt ở mức khá cao. Có được
những thành tựu như vậy là do những chính sách tích cực và cụ thể của Đảng và
Nhà Nước ta trong mỗi giai đoạn cụ thể của quá trình phát triển kinh tế. Với mỗi sự
thay đổi của kinh tế thế giới chúng ta đều có những chính sách cụ thể phù hợp với
tình hình nhằm làm cho nền kinh tế ổn định phát triển.
Trong thực tế, chúng ta cũng cần nhận thức rõ ràng rằng không phải trong
mọi trường hợp chúng ta đều có thể thích ứng một cách tốt nhất, bởi lẽ chúng ta cần
hiểu rằng nền kinh tế Việt Nam là một phần của nền kinh tế thế giới. Một trong
những minh chứng rõ ràng là những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới tới nền kinh tế Việt Nam. Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng của thi trường tài chính
Mỹ từ tháng 8 năm 2008 và đã nhanh chóng lan ra các nền kinh tế trên khắp thế
giới. Những ảnh hưởng này chúng ta có thể thấy rõ hàng ngày hàng giờ với việc
hàng chục nghìn lao động bị mất việc làm tại các khu công nghiệp, tốc độ tăng
trưởng kinh tế 6 tháng cuối năm 2008 bị giảm mạnh, thị trường chứng khoán xuống
dốc…. Đến lúc này chúng ta nhận thấy rằng nền kinh tế hiện nay với những quy
luật chung, với quá trình tự điều tiết của nó không còn có tác dụng cho việc bình ổn
thị trường. Chính vì vậy trong lúc này vai trò của nhà nước một lần nữa được khẳng
định với những biện pháp cụ thể để phục hồi nền kinh tế đang bị suy thoái.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Từ đầu năm 2009 khi nhận thấy cần có những chính sách cho việc bình ổn


kinh tế chính phủ các nước đã nhanh chóng thông qua các gói kích cầu, tuy nhiên ở
nhiều nước vẫn chưa có được sự nhất trí trong việc sử dụng chúng vào đâu. Phần
đông các nước đều tìm mọi cách bảo hộ thị trường của mình, cố gắng giảm thiểu
hậu quả xã hội do hiện tượng sa thải nhân công hàng loạt gây ra.
Những gì mà chính phủ các nước, từ các quốc gia đã phát triển đến các quốc
gia đang phát triển, đang cố làm là tìm mọi cách đẩy mạnh lưu thông hàng hóa hòng
tăng sản xuất. Người ta gọi phương án này là kích cầu, tức là bơm ra một lượng tiền
để tăng sức mua. Chỉ riêng nước Mỹ gói kích cầu đã lên đến 800 tỷ đôla. Tổng các
gói kích cầu của một số nước trên thế giới vượt quá 2.000 tỷ đôla, và hiện vẫn đang
không ngừng gia tăng.
Hiện tại với Việt Nam chúng ta cũng đã thực hiện việc kích cầu đầu tư với
gói kích cầu 17.000 tỷ đồng với mục tiêu bù khoảng 40% lãi suất vay thương mại
nhằm huy động một lượng khá lớn vốn tín dụng với lãi suất thấp (khoảng 620.000
tỷ đồng với chu kỳ cho vay 1 năm) để hỗ trợ các doanh nghiệp, các tổ chức trong
nền kinh tế vay đầu tư phát triển nhằm duy trì sản xuất kinh doanh, giữ và tạo thêm
việc làm.
Là một sinh viên năm cuối của trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội thì
những vấn đề kinh tế luôn là mối quan tâm thường trực của bản thân tôi nói riêng,
của toàn thể các bạn sinh viên nói chung. Và hơn nữa với những kiến thức được nhà
trường trang bị thì tôi có thể xem xét các vấn đề này với nhiều góc độ để có thể có
được cái nhìn tổng thể về những vấn đề đang diễn ra.
Sau một thời gian tiếp thu những kiến thức trong nhà trường thì việc đem
những kiến thức đó vào đối chiếu với tình hình thực tế là rất quan trọng. Vì vậy mà
trong giai đoạn cuối của quá trình học tập tại trường thì việc đưa sinh viên đi thực
tập tại các đơn vị, tổ chức luôn được nhà trường coi trọng. Với bản thân tôi thì đây
là một cơ hội quý báu cho việc tiếp thu thêm kiến thức thực tế để hoàn thiện thêm
vốn hiểu biết của bản thân.
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong quá trình thực tập tôi đã được Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam – Chi nhánh Lai Châu tiếp nhận, giúp đỡ trong suốt quá trình thực tập. Có
được cơ hội tiếp xúc với thực tế tại một trong những đơn vị hàng đầu trong hoạt
động tài chính tại Việt Nam tôi đã có thêm được những hiểu biết thực tế quý báu.
Với tình hình chung của nền kinh tế, với những hoạt động đang diễn ra tai đơn vị
thực tập, sau một quá trình thực tập tôi đã chọn đề tài:
“Thực trạng và giải pháp kích cầu đầu tư trong giai đoạn suy thoái kinh
tế tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Lai Châu”
làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình. Việc chọn đề tài này của tôi
xuất phát từ tình hình thực tế của kinh tế nước ta là hiện tại nền kinh tế chúng ta
đang gặp những khó khăn chung của kinh tế thế giới và chính phủ nước ta đang có
những biện pháp kích cầu đầu tư, ngăn chặn suy giảm kinh tế; thêm vào đó Ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói chung, Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh
Lai Châu nói chung là một trong những đơn vị đầu mối thực hiện các chính sách về
kích cầu đầu tư này.
Hoàn thành được chuyên đề thực tập này, tôi xin chân thành cảm ơn:
ThS. Nguyễn Thị Thu Hà – Giảng viên khoa Kinh tế đầu tư – ĐH Kinh tế
quốc dân Hà Nội cùng toàn thể tập thể giảng viên Khoa kinh tế đầu tư.
Ban giám đốc cùng toàn thế cán bộ nhân viên Ngân hàng đầu tư và phát
triển chi nhánh tỉnh Lai Châu
Đã tận tình giúp đỡ trong quá trình thực tập cũng như trong quá trình hoàn
thành chuyên đề này. Tôi hi vọng rằng với đề tài này ngoài việc mang lại những
thông tin cập nhật, những hiểu biết về thực tế cho bản thân tôi thì nó cũng một phần
nào giúp cho quá trình thực hiện việc kích cầu đầu tư đạt được những kết quả như
mong muốn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Lai Châu, ngày 01 tháng 04 năm 2009
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
3

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC KÍCH CẦU ĐẦU TƯ VÀ
SỰ CẦN THIẾT PHẢI KÍCH CẦU ĐẦU TƯ TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trong việc nghiên cứu những vấn đề kinh tế thì những lý luận kinh tế liên
quan có vai trò quan trọng. Đây chính là tiền đề cho việc nghiên cứu được đúng
hướng và đạt được kết quả đề ra. Trong chuyên đề này cũng vây, những lý thuyết về
đầu tư và kích cầu đầu tư chính là cơ sở đầu tiên cho tôi tiến hành xây dựng chuyên
đề. Có thể nói rằng những lý thuyết đó chính là nền móng vững chắc giúp cho việc
xây dựng được thành công. Trong chương I này những vấn đề lý luận về kinh tế, về
kích cầu đầu tư sẽ được nêu ra để làm cơ sở cho việc xây dựng những chương tiếp
sau.
I. LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ
1. Khái niệm về đầu tư
1.1 Khái niệm chung
Hiện nay khái niệm đầu tư đang xuất hiện hàng ngày hàng giờ trong cuộc
sống hiện nay. Theo quan niệm của một số người thì việc bỏ ra những nguồn lực mà
họ có đem vào sử dụng cho việc kinh doanh, buôn bán… nhằm đem lai cho bản
thân những lợi ích sau này. Xét một cách cụ thể thì đó chũng là một hoạt động đầu
tư. Song nếu xem xét cụ thể về bản chất của những hoạt động này thì ta thấy rằng:
“Đầu tư theo nghĩa rộng có nghĩa là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho nhà đầu tư các kết quả nhất định
trong tương lai mà kết quả này thường phải lớn hơn các chi phí về các nguồn lực
đã bỏ ra. Nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là tài sản vật
chất khác hoặc sức lao động. Sự biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra
trên đây gọi là vốn đầu tư .”
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
4

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong các kết quả đạt được có thể là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ, nguồn
nhân lực tăng thêm những kết quả này nếu xét trên góc độ xã hội thì không chỉ
nhà đầu tư được lợi mà cả xã hội cũng có thể có những lợi ích nhất định.
Những kết quả của đầu tư đem lại là sự tăng thêm tài sản tài chính (tiền vốn),
tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, của cải vật chất khác), tài sản trí tuệ (trình độ
văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật của người dân). Các kết quả đã đạt được
của đầu tư đem lại góp phần tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực
ở hiện tại nhằm đem lại cho nhà đầu tư hoặc xã hội kết quả trong tương lai lớn hơn
các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Như vậy, nếu xem xét trên giác độ đầu tư thì đầu tư là những hoạt động sử
dụng các nguồn lực hiện có để làm tăng thêm các tài sản vật chất, nguồn nhân lực
và trí tuệ để cải thiện mức sống của dân cư hoặc để duy trì khả năng hoạt động của
các tài sản và nguồn lực sẵn có. Có thể thấy rằng hoạt động đầu tư là hoạt động tất
yếu và không thể thiếu trong xã hội nó đem lại cho nền kinh tế những động lực phát
triển mới và cùng với đó là cơ sở cho sự duy trì và phát triển đời sống xã hội.
1.2. Khái niệm đầu tư trên góc độ tài chính
Việc xem xét quá trình đầu tư trên góc độ tài chính là một trong những vấn
đề chủ yếu của quá trình đầu tư. Có thể khẳng định như vậy là vì trong hoạt động
đầu tư thì nguồn lực chủ yếu bỏ ra cho đầu tư chính là tiền bạc và các nguồn lực vật
chất khác. Và đây cũng chính là mối quan tâm lớn của các nhà đầu tư vì khi nhà đầu
tư bỏ vốn ra thì việc thu hồi vốn và có lãi là một trong những yêu cầu cần thiết nhất.
Có thể xem xét đầu tư tài chính như sau:
“ Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu trong hiện tại để chủ đầu tư
nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời trong tương lai”.
Trong định nghĩa này thì tất cả những nguồn lực nhà đầu tư bỏ ra xem xét
với góc độ là vốn, là tiền bạc bỏ ra. Nhà đầu tư quan tâm đến các dòng tiền mà mình
bỏ ra và các dòng tiền thu về. Xem xét như vậy thì sau một quá trình đầu tư nếu

Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thành công thì nhà đầu tư có thể thu về dòng tiền lớn hơn dòng tiền mình đã bỏ ra,
sau quá trình đầu tư nhà đầu tư có thể tăng được quy mô tài sản hiện có.
Một trong những hoạt động mà được coi là ví dụ điển hình cho định nghĩa
trên, được các nhà đầu tư xem xét nhiều nhất trên góc độ tài chính là hoạt động đầu
tư trên thị trường chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Trong hoạt động này nhà
đầu tư tiến hành mua cổ phiều của các công ty và với kỳ vọng là sẽ thu về các lợi
ích kinh tế trong tương lai từ chênh lệch giá cổ phiếu, từ hưởng cổ tức chi trả của
các công ty.
Xét với thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay thì việc đầu tư trên thị
trường chứng khoán chủ yếu là với kỳ vọng thu được những nguồn lợi từ chênh
lệch giá cổ phiếu mua và cổ phiếu bán, chứ rất ít nhà đầu tư có thể đầu tư lâu dài
với một loại cổ phiếu để có thể hưởng cổ tức mà các công ty chi trả.
Như vậy với góc độ xem xét hoạt động đầu tư dưới góc độ tài chính thì các
dòng tiền chính là phản ánh chủ yếu lợi ích mang lại cho các nhà đầu tư, cho xã hội;
nhà đầu tư có thể thu được chính là lợi nhuận, xã hội thu được từ việc nhà nước thu
thuế với dự án và từ tiền lương người lao động thu được khi làm việc cho dự án đầu tư.
1.3. Khái niệm đầu tư dưới góc độ tiêu dùng
Ở góc độ này thì có thế thấy như sau:
“Đầu tư là hình thức hi sinh tiêu dùng trong hiện tại để thu về mức tiêu dùng
lớn hơn trong tương lai ”
Nếu xét cho đến cùng thì mục đích của hoạt động đầu tư là kỳ vọng về
những lợi ích lớn hơn mức đã bỏ ra được thu về trong tương lai; và định nghĩa về
đầu tư với góc độ tiêu dùng đã phản ánh phần lớn những mục đích đó của hoạt động
đầu tư. Chúng ta hi sinh những lợi ích của việc tiêu dùng hiện tại nhằm tại dựng,
tích lũy những nguồn lực cho quá trình đầu tư và bằng việc đàu tư và những lợi ích
nó mang lại thì nhà đầu tư cũng như xã hội có được những lợi ích trong tương lai

nhờ đó mà họ có thể có được mức tiêu dùng ở mức độ cao hơn.
Trong thực tế cuộc sống việc các cá nhân, tổ chức thực hiện việc tiết kiệm
tiến hành đầu tư hoặc cho vay đầu tư chính là một trong những ví dụ tiêu biểu của
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quá trình đầu tư khi xét trên góc độ tiêu dùng, bởi vì với hoạt động tiết kiệm này
người tiết kiệm đã hi sinh những nhu cầu tiêu dùng trong hiện tại với kỳ vọng thu
những lợi ích trong tương lai để có thể cải thiện mức tiêu dùng của mình ở một mức
cao hơn.
Như vậy với mỗi góc độ nghiên cứu về khái niệm đầu tư chúng ta đều có
những cái nhìn khác nhau xung quanh vấn đề này. Việc xem xét đầu tư với góc độ
nào còn phụ thuộc nhiều vào quan điểm của mỗi người và trong từng trường hợp cụ
thể. Chính vì vậy mà chúng ta cần xem với từng trường hợp cụ thể mà đứng trên
góc độ nào để xem xét, điều đó sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn đúng đắn và việc
ra quyết định được chính xác hơn.
2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư
Trong việc nghiên cứu hoạt động đầu tư thì người ta có nhiều tiêu chí để
phân loại hoạt động đầu tư và với mỗi tiêu chí thì chúng ta lại phân loại đầu tư ra
thành những dạng đầu tư khác nhau. Song trong bài nghiên cứu này tôi chỉ xin
được phân loại hoạt động đầu tư theo tiêu chí xem xét bản chất của việc đầu tư và
phân loại đầu tư theo ba dạng là: Đầu tư phát triển, Đầu tư tài chính và Đầu tư
thương mại.
Trong ba dạng của hoạt động đầu tư thì đầu tư phát triển là hoạt động chủ
yếu nhất và nó mang đầy đủ các đặc điểm của hoạt động đầu tư thông thường.
Chính vì vậy mà việc nghiên cứu các đặc điểm của đầu tư phát triển cũng đồng
nghĩa với việc nghiên cứu đặc điểm của đầu tư nói chung.
2.1. Đầu tư là hoạt động đòi hỏi huy động các nguồn lực rất lớn
Với mỗi hoạt động đầu tư chúng ta thấy rằng đây là lĩnh vực yêu cầu những

nguồn lực rất lớn, bởi vì hoạt động đầu tư phát triển nói chung hoạt động đầu tư nói
riêng đều diễn ra trên quy mô lớn, với đặc điểm như vậy thì việc đòi hỏi mức vốn,
vật tư và lao động ở quy mô lớn là một điều tất nhiên. Hơn thế nữa kết quả của mỗi
quá trình đầu tư thường là những lợi ích mà nó mang lại cho chủ đầu tư và xã hội,
nhằm mục tiêu tạo dựng những điều kiện tốt hơn cho phát triển kinh tế và nâng cao
đời sống, chính vì vậy mà nguồn lực cần thiết cho quá trình đầu tư xét trên phương
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
diện cá nhân cũng như xã hội thường có quy mô lớn, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị lâu
dài và kỹ lưỡng.
Thứ nhất với vốn và vật tư huy động cho đầu tư cần có sự chuẩn bị lâu dài và
có kế hoạch kỹ lưỡng. Trong nhiều trường hợp cụ thể thì mức vốn đầu tư có thể lớn
tới mức mà một cá nhân hay một tổ chức thậm chí là một chính phủ không thể đứng
ra tự mình có đủ lượng vốn cần thiết, chính vì vậy mà trong hoạt động đầu tư thì
quá trình huy động vốn cũng đóng một vai trò khá quan trọng. Ngoài ra, với quy mô
lớn như vậy trong đầu tư thì đòi hỏi mỗi nhà quản lý phải có kế hoạch và chiến lược
quản lý nguồn vốn hiệu quả:
- Thứ nhất quản lý nguồn vốn hợp lý, tránh thất thoát lãng phí trong đầu tư.
- Trong quá trình đầu tư nguồn vốn có nguy cơ bị khê đọng cao, chính vì vậy
phải có kế hoạch vận hành kết quả đầu tư sớm nhất tránh để vốn ứ đọng quá lâu.
- Có kế hoạch quản lý sử dụng và thu hồi vốn cụ thể, giảm tối đa các chi phí
về vốn đầu tư (lãi vay, chi phí quản lý vốn…).
Đây chính là những yêu cầu tối thiểu trong quá trình quản lý vốn đầu tư mà
đòi hỏi mỗi nhà đầu tư phải luôn chú ý. Ngoài những yếu tố về vốn, vật tư thì nguồn
nhân lực là yếu tố không thể thiếu, có thể thấy rằng chất lượng nguồn nhân lực là
yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến chất lượng và kết quả của quá trình đầu tư. Việc
chuẩn bị cho nguồn nhân lực tiến hành cho dự án là một quá trình lâu dài, từ khi
tuyển chọn, đào tạo đến khi sử dụng chiếm một thời gian khá lâu. Với nguồn nhân

lực cho dự án thì việc quản trị nhân lực chúng ta cần lưu ý những vấn đề sau:
- Có kế hoạch về tuyển chọn, đào tạo và sử dụng cụ thể.
- Chiến lược sử dụng con người cần được xây dựng dựa trên đặc trưng công
việc và đặc điểm của nguồn lao động.
- Ngoài việc đào tạo ban đầu thì trong quá trình sử dụng chúng ta cần có kế
hoạch bồi dưỡng bổ sung kiến thức kỹ năng liên tục thường xuyên.
Như vậy tầm quan trọng của các nguồn lực cho dự án đầu tư mà chúng ta cấn
chú ý trong việc sử dụng các nguồn lực này một cách hiệu quả nhất.
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2.2. Thời gian đầu tư kéo dài
Với hoạt động đầu tư thời kỳ đầu tư được tính từ khi đi vào thực hiện dự đến
khi hoàn thành và đi vào vận hành các kết quả đầu tư. Do đó nếu như với các dự án
đầu tư có liên quan đến việc xây dựng hay các dự án tiến hành tạo dựng các điều
kiện về cơ sở hạ tầng mới thì việc đầu tư thường kéo dài từ vài năm thậm chí đến
hàng chục năm.
Với những dự án đầu tư như thế thì việc sử dụng vốn đầu tư và quản lý hoạt
động đầu tư theo phân kỳ là rất cần thiết. Với thời kỳ đầu tư kéo dài thì chúng ta
nên phân việc đầu tư thành các thời kỳ nối tiếp nhau, mỗi thời kỳ cần có nguồn lực,
kế hoạch, mục tiêu cụ thể. Việc phân chia này giúp cho các công việc của dự án
được thực hiện một cách khoa học, dứt điểm và mang tính hiệu quả.
Ngoài ra việc phân kỳ dự án đầu tư còn tạo cho chúng ta điều kiện đưa các
hạng mục công trình đã hoàn thành đưa vào vận hành khai thác một phần hoặc toạn
bộ như thế vốn đầu tư bỏ ra ban đầu sẽ sớm được thu hồi, tránh khe đọng vốn và tạo
cho việc tái đầu tư trở lại được nhanh chóng hơn, đây cũng là một biện pháp để nhà
đầu tư khắc phục tình trạng thiếu vốn và giảm được mức vốn đầu tư cần thiết phải
huy động cho toàn bộ dự án.
Hiện nay, nếu xét với thực tế nước ta thì với những công trình lớn mang tầm

cỡ quốc gia chúng ta đã vận dụng khá tốt các biện pháp để nhằm thích ứng với đặc
điểm thời kỳ đầu tư kéo dài với các dự án đầu tư lớn. Ví dụ với công trình thủy điện
Sơn La là một trong những công trình trọng điểm quốc gia lớn của nước ta hiện
nay: Được khởi công vào ngày 2/12/2005 và theo kế hoạch thì dự án sẽ hoàn thành
vào năm 2015. Như vậy thời gian thực hiện dự án hơn 10 năm đã khiến cho việc
quản lý dự án gặp những khó khăn nhất định do thời gian đầu tư kéo dài mang lại:
thư nhất chúng ta mất hơn 1 năm để tiến hành cho việc chuẩn bị thực hiện xây
dựng(di dân, tái định cư với hơn 18.000 hộ dân) ngoài ra thì chi phí lãi vay là khá
lớn với khoảng 6.210 tỷ đồng tiền lãi vay…. Với công trình này ngoài các biện
pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, huy động tối đa các điều kiện cho dự án
được tiến hành thuận lợi chúng ta đã thực hiện phân chia giai đoạn đầu tư thành các
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thời kỳ cụ thể. Theo kế hoạch thì đến hết năm 2005, sẽ hoàn tất các hạng mục phụ
trợ để khởi công ngăn sông đợt 1, phát điện tổ máy đầu tiên vào năm 2012 và hoàn
thành kết thúc công trình vào năm 2015.
Như vậy thì các hạng mục đã hoàn thành của công trình đã được đưa vào vận
hành một cách sớm nhất từ đó tạo điều kiện cho việ thu hồi vốn được nhanh hơn.
2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
Không chỉ thời kỳ đầu tư kéo dài mà thời gian vận hành các kết quả đầu tư
cũng rất lâu dài, hơn rất nhiều so với thời kỳ đầu tư, nó được tính từ thời gian hoàn
thành dự án và đưa công trình vào khai thác đến khi dông trình hết hạn sử dụng và
bị đào thải. Việc vận hành các kết quả đầu tư có thể tính đến đơn vị hàng chục năm.
Với những đặc điểm như vậy chúng ta thấy rằng trong suốt quá trình vận hành các
kết quả đầu tư chịu sự tác động của cả hai mặt, cả tích cực và tiêu cực, của nhiều
yếu tố tự nhiên, kinh tế chính trị xã hội… để thích ứng, trong công tác quản lý cần
chú ý những nội dung sau:
- Cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học cả ở cấp vĩ mô và vi

mô về nhu cầu của thị trường về sản phẩm dự án trong tương lai, dự kiên khả năng
cung cấp hàng năm và của cả dòng đời dự án, tránh trường hợp dự án khi đã hoàn
thành khi đưa vào khai thác một thời gian thì không còn phù hợp gây sự lãng phí vô
cùng lớn.
- Quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào
sử dụng, hoạt động với công suất tốt đa để thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình.
- Chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong năm
nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà từ
những năm sau đó và kéo dài trong nhiều năm. Chính vì vậy việc tính toán chính
xác yếu tố độ trễ là quan trọng, nó giúp cho chúng ta có thể xây dựng được kế
hoạch vận hành và khai thác hiệu quả và hợp lý.
2.4. Các kết quả đầu tư có ảnh hưởng lớn và nó cũng chịu ảnh hưởng lớn của
các yếu tố kinh tế, xã hội
Với các dự án thì mức ảnh hưởng của nó có thể nói là khá sâu rộng đối với
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khu vực mà dự án tiến hành.
Thứ nhất, dự án đầu tư có mức độ ảnh hưởng tới các mặt khác nhau của đời
sống cũng như điều kiện tự nhiên của khu vực xung quanh: điều kiện ánh sáng,
tiếng ồn… các ảnh hưởng này có thể là tích cực hoặc tiêu cực
Thứ hai, với dự án cũng chịu những tác động từ môi trường xung quanh nhất
là điều kiện tự nhiên và các yếu tố cung cấp trực tiếp cho dự án(nguyên vật liệu, lao
động…)
Chính vì hai đặc điểm trên mà chúng ta cần phải xem xét kỹ các ảnh hưởng
về điều kiện tự nhiên, xã hội mà dự án chịu ảnh hưởng cũng như những ảnh hưởng
của dự án tới môi trường xung quanh. Ngoài ra việc đo lường, lượng hóa những ảnh
hưởng này cũng rất quan trọng vì ta cần có những đánh giá chính xác trước khi ra
quyết định có nên đầu tư hay không. Vì khi đã tiến hành thực hiện đầu tư chúng ta

không thể dễ dàng dời dự án từ nơi này sang nơi khác hoặc việc di dời có thể trở
thành vô cùng tốn kém và dự án trở nên bất khả thi.
Do vậy, trong việc lập kế hoạch, chủ trương đầu tư cúng ta cần căn cứ trên
những thông tin thu thập chính xác để đưa ra quyết định đầu tư vào cái gì? với công
suất là bao nhiêu? do vậy khâu nghiên cứu thị trường và đưa ra dự báo phải tiến
hành chu đáo.
Với việc lựa chọn địa điểm đầu tư phải dựa trên những căn cứ khoa học đó là
những hệ thống chỉ tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, môi trường… để từ đó có
thể xây dựng cho việc lựa chọn dự án các phương án lựa chọn khác nhau; từ đó có
sự so sánh để lựa chọn ra phương án tối ưu. Việc này giúp cho nhà đầu tư có thể
khai thác tối đa thế mạnh của vùng từ đó nâng cao hiệu quả của việc đầu tư.
2.5. Đầu tư là lĩnh vực có độ rủi ro cao
Với quá trình này thì mức độ rủi ro cao mang lại do các nguyên nhân sau:
- Mức vốn đầu tư lớn mang lại những rủi ro về biến động chi phí sủ dụng
vốn, về quản lý sủ dụng vốn, về khả năng thu hồi vốn.
- Thời kỳ đầu tư kéo dài gây khó khăn cho công việc dự báo, quản lý rủi
ro…
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài khiến dự án phải chịu các rủi
ro về yếu tố đầu vào và đầu ra của dự án
- Quá trình đầu tư luôn chịu tác động mạnh của môi trường xung quanh.
Chính vì thế trong quá trình thực hiện đầu tư cũng như vận hành các kết quả
đầu tư, với việc phải đối mặt thường trực với những rủi ro tiềm tàng. Với thực tế
như vậy thì các nhà quản lý cần có những chiến lược về nhận diện và quản lý rủi ro.
Cụ thể trong việc quản lý rủi ro họ cần lưu ý những vấn đề sau:
- Nhận diện rủi ro. Đánh giá đúng các nguyên nhân dẫn đến rủi ro đồng thời
nhận diện nguyên nhân chủ yếu của rủi ro từ đó có chiến lược quản trị đúng đắn.

- Đánh giá mức độ rủi ro. Việc lượng hóa rủi ro cũng quan trọng, đây là việc
cần thiết cho chúng ta đề ra phương pháp phòng ngừa rủi ro. Ta thấy rằng khi rủi ro
xảy ra thì thiệt hại của nó là không nhỏ vì thế đánh giá đúng rủi ro sẽ giúp chúng ta
có biện pháp phòng chống phù hợp.
- Xây dựng phương án phòng chống rủi ro. Với một khả năng xảy ra rủi ro
thì việc xây dựng hơn một phương án phòng chống là cần thiết bởi lẽ trong thực tế
thì mọi chuyện luôn có thể xảy ra không hoàn toàn giống như kịch bản mà ta đã dự
đoán. Với mỗi loại rủi ro đều cần có phương án phòng chống tương ứng, đây chính
là điều kiện để chúng ta giảm thiểu thiệt hại đến mức thấp nhất khi rủi ro xảy ra.
Như vậy, những đặc điểm trên cảu đầu tư phát triển nói chung của đầu tư
nói riêng chính là những cơ sở quan trọng cho việc chúng ta xây dựng nên phương
pháp quản trị trong đầu tư. Ngoài việc tìm hiểu những đặc điểm của đầu tư chúng ta
cần có những hiểu biết thực tế, nó sẽ giúp ta xây dựng phương án khả thi và hiệu quả.
II. LÝ THUYẾT VỀ SUY THOÁI KINH TẾ
1. Khái niệm suy thoái kinh tế
Suy thoái kinh tế đã là cụm từ quá quen thuộc với mọi người thời buổi này,
vậy thực chất suy thoái kinh tế là gì, và nó đang diễn ra thế nào trong bối cảnh nền
kinh tế toàn cầu đang đi qua những ngày ảm đạm nhất.
Suy thoái kinh tế (tiếng Anh: recession/economic downturn) có thể hiểu là
sự suy giảm của Tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
liên tiếp trong năm (nói cách khác, tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai
quý). Tuy nhiên, định nghĩa này không được chấp nhận rộng rãi. Cơ quan nghiên
cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa về suy thoái kinh tế
còn mập mờ hơn “là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều
tháng”.
Suy thoái kinh tế còn liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế

của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, và lợi nhuận doanh nghiệp. Các
thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại tăng nhanh
giá cả (lạm phát) trong thời kì đình lạm.
Một sự suy thoái trầm trọng và lâu dài được gọi là khủng hoảng kinh tế. Sự
tan vỡ tàn phá nền kinh tế là suy sụp/đổ vỡ kinh tế.
Các nền kinh tế theo định hướng thị trường có đặc điểm là tăng giảm theo
chu kỳ kinh tế, nhưng sự suy giảm thực tế (suy giảm các hoạt động kinh tế) không
thường xảy ra.
Kinh tế lâm vào khủng hoảng sẽ kéo theo nhiều mặt khác của xã hội đi vào
con đường suy thoái và khủng hoảng trầm trọng hơn.
Từ khủng hoảng tài chính -> khủng hoảng kinh tế -> khủng hoảng kinh
tế thực -> khủng hoảng an ninh lương thực -> khủng hoảng chính trị.
Nếu nhà nước chính quyền không có biện pháp gì ngăn chặn quá trình của khủng
hoảng thì việc dẫn tới bạo loạn là nhất thiết.
Nhiều tranh luận về việc chính phủ có nên can thiệp để điều hòa kinh tế (học
thuyết kinh tế vĩ mô của Keynes), khuyếch đại chu kỳ kinh tế (lý thuyết chu kỳ kinh
tế thực), hoặc thậm chí là tạo ra chu kỳ kinh tế (chủ nghĩa tiền tệ).
Vậy để hiểu được quá trình suy thoái này, chúng ta cần hiểu được chu kỳ kinh tế là
như thế nào:
Chu kỳ kinh tế, hay là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế
theo trình tự ba giai đoạn: suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Có quan
điểm cho rằng giai đoạn phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai giai
đoạn chính là suy thoái và hưng thịnh.
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Các pha của chu kỳ kinh tế:
- Suy thoái là giai đoạn mà GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người
ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý

liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
- Phục hồi là giai đoạn trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay
trước suy thoái. Thời điểm tiếp giao giữa 2 giai đoạn này gọi là đáy của chu kỳ.
- Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy
thoái, nền kinh tế đang ở giai đoạn hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ).
Dấu hiệu thường thấy nhất là chỉ số chứng khoán có chiều hướng đi lên, sau
đó là bất động sản có chiều hướng ổn định và lên dần… tiếp tới là chỉ số tiêu dung.
Chính vì vậy người ta thường đầu tư chứng khoán vào lúc này, thị trường trở nên
lạc quan.
Kết thúc giai đoạn hưng thịnh lại bắt đầu đợt suy thoái mới. Điểm giao tiếp
từ giai đoạn hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế
khi nền kinh tế đã sang giai đạon kế tiếp với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP
thực tế đổi chiều giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố
tìm cách nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh
tế, xã hội. Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:
- Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong
các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm
sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là
GDP thực tế giảm sút.
- Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động
giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng
cao.
- Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất
giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng
không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái.

- Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường
giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh.
Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều
ngược lại.
2. Quá trình suy thoái kinh tế
Nguyên nhân suy thoái kinh tế
Những nguyên nhân đích thực của suy thoái kinh tế là đối tượng tranh luận
sôi nổi giữa các nhà lý thuyết và những người làm chính sách mặc dù đa số thống
nhất rằng các kỳ suy thoái kinh tế gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố bên trong
(nội sinh) theo chu kỳ và các cú sốc từ bên ngoài (ngoại sinh).
Ví dụ, những nhà kinh tế học chủ nghĩa Keynes và những lý thuyết gia theo
lý thuyết chu kỳ kinh tế thực sẽ bất đồng về nguyên nhân của chu kỳ kinh tế, nhưng
sẽ thống nhất cao rằng các yếu tố ngoại sinh như giá dầu, thời tiết, hay chiến tranh
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
có thể tự chúng gây ra suy thoái kinh tế nhất thời, hoặc ngược lại, tăng trưởng kinh
tế ngắn hạn. Trường phái kinh tế học Áo giữ quan điểm rằng lạm phát bởi cung tiền
tệ gây ra suy thoái kinh tế ngày nay và các thời kỳ suy thoái đó là động lực tích cực
theo nghĩa chúng là cơ chế tự nhiên của thị trường điều chỉnh lại những nguồn lực
bị sử dụng không hiệu quả trong giai đoạn “tăng trưởng” hoặc lạm phát.
Phần lớn học giả theo thuyết tiền tệ tin rằng những thay đổi triệt để về cơ cấu
kinh tế không phải là nguyên nhân chủ yếu; nguyên nhân của các thời kỳ suy thoái
ở Mỹ là bởi quản lý tiền tệ yếu kém
Một trong những hình thức biểu hiện của suy thoái kinh tế là đại khủng
hoảng kinh tế. Trước thời gian Đại khủng hoảng, một làn sóng đầu tư tràn lan trên
thị trường chứng khoán, làm giá chứng khoán cao giả tạo. Quá trình này còn được
đẩy mạnh bằng việc chứng khoán quay lại thế chấp cho những khoản vay để tiếp

tục mua chứng khoán.
Khi nền kinh tế có những dấu hiệu chững lại và giá chứng khoán giảm
xuống, hiệu ứng dây chuyền xảy ra.
Khi các khoản đầu tư mất giá trị danh nghĩa và các khoảng vay trở thành nợ
xấu, rất nhiều tổ chức tài chính sụp đổ, gây ra khủng hoảng tiền tệ.
Phân tích này bị đả kích bởi các học giả theo chủ nghĩa tiền tệ như Milton
Friedman, người viết rằng Đại khủng hoảng chỉ là một cơn suy thoái nếu Cục Dự
trữ Liên bang Hoa Kỳ không thắt chặt cung tiền tệ khi mọi người đổ đến các ngân
hàng để rút tiền. Các khoản đầu tư trở nên không hấp dẫn do hậu quả của thiểu phát,
tăng lãi suất thực và giảm thu nhập cá nhân và doanh nghiệp. Hậu quả là rút tiền
khỏingân hàng làm một số ngân hàng đổ vỡ vì không còn dự trữ trong khi các
khoản nợ chưa thu hồi được. Thực tế này khiến các nhà đầu tư càng sợ hãi và tiếp
tục rút tiền ra khỏi ngân hàng.
Từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, nguồn cung tiền tệ giảm đi một phần ba
buộc sản lượng giảm theo khi giá cả được điều chỉnh, Khi tổng thống Franklin D.
Roosevelt nhậm chức năm 1933, ông bắt đầu chương trình cải cách tích cực “New
Deal” với 3 mục tiêu (1) khẩn trương cứu tế người thất nghiệp, (2) khôi phục kinh
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tế trở lại tình trạng bình thường, và (3) cải cách hệ thống tài chính để Đại khủng
hoảng không bao giờ xảy ra nữa. Roosevelt đưa Tổng sản phẩm quốc gia (GNP) gia
tăng trở lại, đạt mức 11% hàng năm trong giai đoạn 1933-1936.
Cho đến nay, thảm họa như Đại khủng hoảng không xảy ra với các nước
công nghiệp hóa nữa. Tuy vậy nhiều nước Châu Mỹ Latin trải qua suy sụp kinh tế
đi liền với lạm phát cao những năm 1980, Nhật Bản sa vào khủng hoảng thập kỷ
1990, và các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Trung và Đông Âu chìm đắm
trong khủng hoảng kinh tế khi chuyển đổi sang kinh tế tư bản. Thêm vào đó, từ “suy
thoái” có thể sử dụng để mô tả tình hình của rất nhiều quốc gia nghèo thuộc Thế

giới thứ ba (dù rằng trong nhiều trường hợp, các quốc gia này chưa hề có được giai
đoạn phát triển kinh tế).
Thời gian Đại khủng hoảng ở Châu Âu là một trong những nguyên nhân cho
sự chấp nhận Adolf Hitler và các nhóm phát xít cực đoan. Sự hoành hành của chúng
là nguyên nhân chủ yếu của Thế chiến thứ hai, cuộc chiến mà đến lượt nó là gốc
gác cho sự kích thích phát triển kinh tế sau này.
3. Những hệ quả mang lại của suy thoái kinh tế
Kinh tế suy thoái mang lại những hậu quả phức tạp, song cũng là cơ hội tái
xây dựng một nền tảng phát triển bền vững.
Suy thoái kinh tế hiện đang là một vấn đề làm đau đầu các nhà điều hành,
chuyên gia kinh tế và người dân trên toàn nước Mỹ. Suy thoái gây ra tình trạng thất
nghiệp, giá cổ phiếu sụt giảm và kinh tế đi xuống. Tuy nhiên có ba lý do chúng ta nên
lạc quan khi suy thoái xảy ra.
Sự suy thoái giúp nền kinh tế tái lập một nền vững chắc để tăng trưởng
Dù muốn hay không, nền kinh tế của chúng ta không thể lúc nào cũng đi lên
suôn sẻ. Sau một thời gian vận hành suôn sẽ, cỗ máy kinh tế sẽ gặp phải những vấn
đề nhất định. Các nhà hoạch định chính sách cần phải nhận thức rõ ràng vấn đề đó
và tìm cách giải quyết.
Vào cuối những năm 1990, thị trường chứng khoán gặp phải một vấn đề lớn
khi giá cổ phiếu nhóm ngành công nghệ bị đẩy cao quá mức. Gần đây, cuộc khủng
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hoảng nhà đất và tín dụng lớn diễn ra trên phạm vi rộng đã xảy ra khi tỷ lệ lãi suất liên
bang đứng ở mức quá thấp hồi đầu thập kỷ, giá nhà đất tăng rất cao. Một nguyên
nhân khác của tình trạng trên là những công ty cho những đối tượng không đủ khả
năng trả nợ vay tiền.
Khi kinh tế đi xuống, những bong bóng và vấn đề còn tồn tại như trên sẽ
được thanh lọc và nền kinh tế sẽ lại có một cái nền vững chắc để tăng trưởng. Cũng

giống như một bệnh nhân đi khám răng, người đó sẽ phải chịu đau khá lâu, nhưng
cuối cùng người đó sẽ có sức khỏe tốt hơn. Một nền kinh tế tăng trưởng tốt sẽ đi lên
từ sự giải quyết triệt để những vấn đề còn tồn tại hiện nay.
Thị trường chứng khoán trong thời kỳ suy thoái mang đến những cơ hội mới
Thị trường chứng khoán là một trong những hàn thử biểu về sức khỏe của
nền kinh tế, những thời kỳ suy thoái kinh tế thường đi kèm với giá cổ phiếu hạ
mạnh. Phần lớn nhà đầu tư đều hoảng sợ khi điều này xảy ra và sự đi xuống của thị
trường chứng khoán đồng nghĩa với việc chứng khoán bị bán ra ồ ạt.
Trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng, cả những cổ phiếu tốt và cổ phiếu xấu đều bị
bán ra và vì thế giá những cổ phiếu này hạ mạnh. Như vậy những cổ phiếu có triển
vọng đầu tư lâu dài hiện đang đứng ở mức giá rất thấp. Thị trường tài chính có thể
chấn động, song những lĩnh vực khác của nền kinh tế vẫn tăng trưởng tốt và vì thế
mang đến nhiều cơ hội mới cho nhà đầu tư.
Ví dụ như gần đây trên TTCK Mỹ, cổ phiếu nhóm ngành công nghệ bị bán ra
hàng loạt và cổ phiếu của nhiều công ty danh tiếng hiện đang được giao dịch tại mức giá
cực rẻ so với trước đây.
Điểm mặt những cổ phiếu lớn trên TTCK Mỹ như Google, Apple, hai cổ
phiếu này từ đầu năm cho đến nay đã hạ 25%. Cổ phiếu Dell, Oracle và Microsoft
từ đầu 2008 hạ 9 đến 18%. Trong lĩnh vực công nghệ họ là những tên tuổi lớn và
tiềm năng phát triển tốt. Khi cổ phiếu của họ đang hạ như hiện nay, đó là cơ hội
mua vào những cổ phiếu tốt cho nhà đầu tư.
Suy thoái kinh tế không thể kéo dài mãi
Điều này là hoàn toàn chính xác. Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, kinh tế
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thế giới đã trải qua 10 lần suy thoái và sau đó đã phục hồi trở lại. Tuy rằng hiện nay,
mỗi ngày chúng ta lại nghe thêm một tin tức xấu về nền kinh tế, tính từ sau Cuộc
Đại Chiến Thế Giới đó, mỗi lần suy thoái kinh tế trung bình chỉ kéo dài khoảng 10

tháng.
Trong phần lớn những thời kỳ suy thoái này, thị trường chứng khóan thường
phục hồi trước khi suy thoái kinh tế kết thúc. Như vậy cũng có thể coi thị trường
chứng khoán như một công cụ để dự báo về tương lai. Nói cách khác thời gian giá cổ
phiếu đi xuống sẽ không dài như thời gian kinh tế suy thoái, đây là một tín hiệu đang
để lạc quan.
Như vậy qua những nghiên cứu trên cho thấy những đặc điểm, quá trình
cũng như những hệ quả mang lại của suy thoái kinh tế. Đây chính là những thông
tin quý báu để chúng ta có thể tiến hành đối mặt với khủng hoảng và có thể đẩy lùi
được khủng hoảng kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ
Đây chính là phần trọng tâm của chương I, nó chính là cơ sở cho việc đề ra
các chính sách kích cầu đầu tư trong giai đoạn hiện nay của nền kinh tế nước ta.
1. Khái niệm về kích cầu đầu tư
Trong quá trình nghiên cứu, bản thân tôi đã nhiều lần đặt ra việc định nghĩa
thế nào cho đúng về kích cầu đầu tư, và liệu trong trường hợp nào là kích cầu?
trường hợp nào là không?
Như vậy trong thực tế thì có nhiều vấn đề không hoàn toàn giống như lý
thuyết. Chính vì vậy việc có thể nhận diện và hiểu được bản chất của mỗi vấn đề
trong cuộc sống có thể nói là thành công lớn nhất của quá trình thực tập của mỗi
sinh viên. Sau một quá trình nghiên cứu lý thuyết và tìm hiểu thực tiễn tôi xin đưa
ra quan điểm cá nhân về kích cầu đầu tư như sau:
“ Kích cầu đầu tư là một hệ thống các chính sách và biện pháp hỗ trợ trong
một khoảng thời gian liên tục và lâu dài nhằm mục tiêu nâng cao số lượng và chất
lượng của hoạt động đầu tư cá nhân và xã hội”
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Có thể rằng quan điểm trên còn chưa hoàn toàn đầy đủ song nó có thể phản

ánh khá toàn diện về những giải pháp kích thích đầu tư đã và đang diễn ra.
Trong thực tế có thể có nhiều biện pháp mà chúng ta còn đang tranh cãi là
kích cầu hay kích cung? Xin đơn cử như giải pháp hỗ trợ lãi suất cho vay hiện nay
của chính phủ nước ta đang được nhiều cá nhân cho rằng đây thực sự có phải là
biện pháp kích cầu cho nền kinh tế? Xin trích dẫn bài viết “ Kích cầu hay kích
cung?” của tác giả Hải Anh – Trang 2 thời báo Ngân hàng ngày 28/02/2009 như
sau:
“Trong thời gian gần đây, trên một số phương tiện thông tin đại chúng có
đưa ra nhiều ý kiến băn khoăn rằng, các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ đưa
ra như hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng 4%/ năm, giảm thuế VAT cho 19 nhóm
hàng hóa dịch vụ… thực chất là kích cung chứ chưa kích cầu tiêu dùng.”
Với những ý kiến nhận định của một số cá nhân như vậy tác giả đã đưa ra
những ý kiến xác thực dựa trên thực tế về chủ trương hỗ trợ của Chính phủ: “ Gói
kích cầu của chính phủ hiện nay tập trung chủ yếu vào hỗ trợ giảm chi phí đầu vào
cho doanh nghiệp. Việc làm này sẽ kích thích sản xuất, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp giảm giá thành sản phẩm đầu ra”… “ Từ đó kích thích sản xuất trong nước,
tạo công ăn việc làm cho người lao động. Người lao động có việc làm có thu nhập
cộng với chính sách giãn thuế thu nhập cá nhân, các chính sách hỗ trợ người lao
động trong khi gia cả hạ chắc chắn cầu tiêu dùng sẽ tăng.”
Như vậy qua ví dụ trên tôi có thể nhận thấy rằng trong nền kinh tế thị trường
hiện nay thì nhiều khi chúng ta không nên chỉ nhìn vào một phía để đánh giá vấn
đề, chúng ta nên nhìn vào kết quả chứ không nên nhìn vào quá trình để đánh giá
một chính sách là đúng hay là sai, thêm vào đó với mỗi chính sách đưa ra thì độ trễ
thời gian là luôn luôn có chính vì thế mà chúng ta cần có một thời gian để kiểm
định.
Như vậy quá trình kích cầu đầu tư nói riêng và kích cầu nền kinh tế nói
chung là những giải pháp mang tính lâu dài. Chính vì thế trong quản lý, các nhà
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
lãnh đạo cần đề ra các chính sách chiến lược trước mắt và lâu dài nhằm thực hiện
các mục tiêu đã đề ra.
2. Những nhân tố tác động đến kích cầu đầu tư
Việc đánh giá những nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến kích cầu đầu tư là một
trong những căn cứ để chúng ta đề ra các chính sách phù hợp và đạt hiệu quả. Nếu
đánh giá những nhân tố đó thì hiện tai chúng ta có thể thấy rằng những nhân tố của
chính nội tại nền kinh tế ảnh hưởng nhiều nhất đến các chính sách của nền kinh tế
đó. Chính vì vậy chúng ta sẽ đặt những yếu tố của nội tại nền kinh tế vào vị trí đầu
tiên khi xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến kích cầu đầu tư
2.1. Những nhân tố của nền kinh tế
Với vai trò là nhân tố trực tiếp chịu tác động của chính sách kích cầu, nền
kinh tế đóng vai trò chủ yếu trong việc quyết định là chính sách có phù hợp hay
không.
- Thứ nhất, với quy mô của nền kinh tế sẽ quyết định mức độ và quy mô ảnh
hưởng của các chính sách kích cầu. Với nền kinh tế lớn thì việc kích cầu đòi hòi
quy mô lớn và những hiệu ứng lan tỏa của nó cũng xảy ra trên diện rộng hơn và
ngược lại. Với việc kích thích nền kinh tế thì những hiệu ứng: số nhân chi tiêu, kích
thích dây chuyền sẽ có những hiệu quả lớn hơn so với những nền kinh tế nhỏ xét
trên quy mô toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy, khi xem xét có nên kích cầu nền
kinh tế ở mức độ nào thì chúng ta cần căn cứ trên quy mô phát triển của nền kinh tế.
- Thứ hai, mức độ phát triển cúng ảnh hưởng rất nhiều với các chính sách
kích cầu. Bởi vì nền kinh tế có phát triển hay không nó sẽ quy định những ngành
kinh tế đóng vai trò chủ đạo và vai trò của chúng trong nền kinh tế. Vì thế cho nên
việc xác định mức độ, trình độ phát triển của nền kinh tế chính là cơ sở cho việc
chọn lựa những ngành kinh tế chủ đạo là đối tượng của kích cầu nền kinh tế.
- Thứ ba, cơ cấu ngành kinh tế - đây là một kết quả trình độ phát triển nền
kinh tế, xác định thành phần kinh tế giúp cho việc đề ra chiến lược phát triển và
kích cầu được trọng tâm và đạt hiệu qua cao.
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D

21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Thứ tư, thành phần các chủ thể trong nền kinh tế. Đây là nhân tố giúp đề ra
biện pháp thực hiện chính sách. Xác định mục tiêu và chiến lược kích cầu chưa phải
là tất cả mà chúng ta cần đưa chính sách vào thực tế, muốn vậy cần xác định đúng
biện pháp thực hiện chính sách với từng đối tượng trong nền kinh tế. Việc xác định
đúng đối tượng sẽ tạo cho chính sách kích thích mang tính thực tế cao và đem lai
hiệu quả như mong muốn.
2.2. Nhân tố kinh tế xã hội
Các nhân tố mang tính xã hội tuy không mang vai trò quyết định trong việc
thực hiện chính sách song chúng ta cần hiểu rằng mọi chính sách đề ra đều vì mục
đích phục vụ tốt hơn cho cuộc sống con người. Chính vì thế các đặc điểm xã hội
cần được lưu ý khi đề ra chính sách.
- Thứ nhất, thành phần cơ cấu dân cư là nhân tố đầu tiên cần phải xem xét.
Cơ cấu về lao động, độ tuổi, mức sống … đó chính là căn cứ để xác định thành
phần chủ yếu trong xã hội từ đó mà cần hướng chính sách tới những đối tượng chủ
yếu này. Việc xác định đúng đối tượng chủ yếu chịu tác động của chính sách là việc
quan trọng cần làm để đưa ra chính sách, và nó cũng là cơ sở để cho ta thu thập
thông tin để xây dựng chính sách cho hợp lý. Việc kích cầu có hiệu quả hay không
nó phụ thuộc nhiều vào tính đúng đắn của chính sách đã đề ra. Do vậy nhân tố
thành phần, cơ cấu dân số cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kích cầu đầu
tư.
- Thứ hai, về trình độ dân trí của đại đa số người dân. Đây là yếu tố quyết
định cho việc triển khai các biện pháp của chính phủ có được nhanh chóng hay
không. Với những nước có trình độ dân trí cao thì việc xây dựng và triển khai chính
sách nói chung là khá nhanh chóng và thuận lợi. Vì thế cho nên mà nhân tố dân trí
có ảnh hưởng nhiều tới việc triển khai chính sách. Tuy nhiên nhân tố này có tốt hay
không là do quá trình lâu dài chứ không phải là có thể có ngay được.
- Thứ ba, tình hình chính trị xã hội của địa phương, của quốc gia. Việc duy

trì một chế độ chính trị với tình hình chính trị ổn định là nhân tố giúp cho việc thực
hiện chính sách được thông suốt và liên tục. Hiện tại với tình hình chính trị của Việt
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nam được đánh giá là ổn định, không có biến động; đây chính là nhân tố quan trọng
cho việc thực hiện các chiến lược của quốc gia được thành công.
Ngoài ra còn có những nhân tố khác như: phong tục tập quán vùng miền, yếu
tố về lịch sử… cũng có những ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả của các chính sách
nói chung, chính sách kích cầu nói riêng. Chính vì vậy mà việc kết hợp các biện
pháp thực hiện phù hợp với điều kiện chính trị, xã hội là một trong những yếu tố
quyết định cho việc thực hiện có thành công chính sách đã đề ra hay không.
2.3. Hệ thống pháp luật và hiệu quả của quản lý nhà nước về đầu tư
Việc nêu lên yếu tố này trong đánh giá nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư là vì
trong điều kiện của nền kinh tế hiện nay thì việc điều tiết nền kinh tế có sự kết hợp
giữa những quy luật vốn có của nền kinh tế đồng thời với đó là sự điều tiết của
chính phủ. Vì thế cho nên việc đảm bảo cho hiệu quả của kích cầu về đầu tư được
cao thì một trong những nguyên nhân chủ yếu mang lại chính là hệ thống pháp luật
của nhà nước được phù hợp và bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực này cần
được kiện toàn về năng lực quản lý điều hành. Vì vậy để tạo những điều kiện tốt
nhất cho quá trình kích cầu đầu tư nói riêng và kích cầu kinh tế nói chung thì các
nhà quản lý cần lưu ý những vấn đế chủ yếu say:
- Về việc xây dựng hệ thống pháp luật, việc xây dựng các văn bản luật cần có
một quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng từ việc xây dựng đội ngũ nhân sự cần thiết cho quá
trình thu thập ý kiến của nhiều đối tượng, tầng lớp trong xã hội. Việc thu thập ý
kiến là nhân tố giúp cho quá trình xây dựng luật được phù hợp với nguyện vọng
chung của đại đa số người dân. Ngoài ra để một văn bản luật được thông qua và đưa
vào cuộc sống thì sau khi xây dựng đề cương luật thì cần một lần nữa xin ý kiến của
các tầng lớp dân cư từ đó có những điều chỉnh cho phù hợp. Với việc xây dựng hệ

thống pháp luật, hiện nay chúng ta đã có những bước tiến bộ rõ rệt và thực hiện
thường xuyên việc điều chỉnh các văn bản luật được phù hợp. Đây cũng là một
trong những nhân tố giúp cho việc thu hút đầu tư và kích thích đầu tư của nước ta
trong những năm gần đây đạt hiệu quả cao và làm cho việc kích thích đầu tư thực sự
là nhân tố quan trọng thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Một trong những nhân tố tiếp theo chính là hệ thống quản lý của nhà nước
về đầu tư. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực quản lý điều hành được các
nhà đầu tư đánh giá cao và cũng là nhân tố để các nhà đầu tư quyết định là có nên
đầu tư hay không. Hiện nay với thực tế nước ta đã và đang hoàn thiện bộ máy quản
lý nhà nước về đầu tư, cụ thể một số địa phương như: TP.Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Hải Phòng… đã có được đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực nhờ đó mà
nguồn vốn đầu tư thu hút vào những địa phương này liên tục tăng nhanh và uy tín
của các địa phương này được nâng cao trong con mắt các nhà đầu tư trong nước và
quốc tế.
- Nhân tố ảnh hưởng tới kích cầu đầu tư tiếp theo chính là hệ thống các chính
sách ưu đãi đầu tư của chính phủ và của các địa phương. Tuy đây không phải là
những yếu tố có tính chất lâu dài vì những chính sách ưu đãi này với một nhà đầu tư
chỉ được thực hiện trong một thời gian nhất định, song đây cũng là một nhân tố tạo
thuận lợi cho nhà đầu tư trong giai đoạn đầu tiến hành sản xuất kinh doanh, vì thế
mà chính sách ưu đãi cũng chính là nhân tố thu hút và kích thích đầu tư. Hiện nay
những chính sách ưu đãi đã được chính phủ áp dụng như miễn thuế TNDN, hỗ trợ
các điều kiện về cơ sở hạ tầng… còn về phía mỗi địa phương đều có xây dựng
những chính sách ưu đãi riêng phù hợp với tình hình thực tế của địa phương nhằm
thu hút đầu tư kích thích kinh tế phát triển
2.4. Tình hình kinh tế quốc tế và trong nước
Với những diễn biến của kinh tế toàn cầu trong những năm gần đây và những

ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế trong nước nói chung và thu hút đầu tư nói riêng.
Hiện nay với xu thế hội nhâp kinh tế toàn cầu thì thực sự nền kinh tế Việt Nam đã
và đang trở thành một phần của nền kinh tế toàn cầu. Với thực tế của nền kinh tế
nước ta đang là một trong những nước có kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng ở
mức cao trên thế giới và thêm vào đó hiện nay khu vực kinh tế có vốn nước ngoài
chiếm tỷ trọng không nhỏ trong đóng góp cho tăng trưởng kinh tế nước ta. Vì thế cho
nên những ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới tới kinh tế Việt Nam là không nhỏ.
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Trước hết, xem xét với nền kinh tế nước ta hiện nay đã và đang có một sự
đóng góp không nhỏ của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào tăng trưởng
chung của nền kinh tế. Chính vì thế cho nên nếu có những biến động dẫn đến việc
rút vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ gây những ảnh hưởng không nhỏ
tới kinh tế nước ta. Vì vậy một trong những yêu cầu đặt ra là cần xây dựng nền kinh
tế tự chủ và chúng ta đã phần nào làm được việc này, cụ thể là hiện nay Nhà Nước
ta đã xây dựng được một số tập đoàn, tổ chức kinh tế thuộc những thành phần kinh
tế khác nhau và những tập đoàn, tổ chức kinh tế này đang nắm giữ những ngành
kinh tế trọng yếu quốc gia và có thể duy trì sự ổn định của những ngành kinh tế này,
từ đó tạo sự ổn định chung cho nền kinh tế trước những biến động bất lợi.
- Tiếp nữa, xét trong hoàn cảnh kinh tế nước ta hiện nay đang có kim ngạch
xuất khẩu một số mặt hàng về nông sản, công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế
biến… cao so với các nước trên thế giới. Hiện nay thị trường chủ yếu của chúng ta
đang là thị trường Hoa Kỳ, Tây Âu… chính vì thế cho nên nếu có những biến động
về kinh tế của các thị trường này thì chúng ta sẽ chịu những ảnh hưởng rất lớn trong
đó có cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực.
- Một trong những bộ phận của nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng lớn của
kinh tế thế giới là thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán. Cho đến
nay thị trường tài chính nước ta đã và đang hình thành các điều kiện chủ yếu để có

thể phục vụ cho phát triển kinh tế. Song thực tế cho thấy rằng thị trường tài chính
nước ta còn chịu ảnh hưởng của thị trường tài chính quốc tế. Đây không phải là
nhân tố đáng lo ngại nhất vì thực tế cho thấy đối với các nền kinh tế đặc biệt là các
thị trường kinh tế lớn đều chịu ảnh hưởng lớn khi có những biến động chung. Mà
vấn đề chúng ta cần xây dựng thị trường tài chính thực sự có được nội lực của nó
tránh trường hợp thì trường phát triển theo “xu hướng bong bóng” – sau một thời
gian phát triển quá nóng lại đi vào suy thoái – một ví dụ tiêu biểu là thị trường
chứng khoán Việt Nam hiện nay đã suy giảm nhanh sau một thời gian phát triển.
Như vậy đánh giá chung thấy những biến động kinh tế thế giới có những ảnh
hưởng ở những mức độ nhất định đến kinh tế nước ta. Chính vì thế nó là nhân tố
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
25

×