CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
***
I.SƠ YẾU LÍ LỊCH
Họ và tên : Nguyễn Thị Tươi
Ngày sinh : 01- 04- 1976
Quê quán : Xã Phù Lưu- Huyện Ứng Hoà- TP Hà Nội
Trú quán : Tổ dân phố 7- Ngõ 12 Quang Trung
Phường La Khê- Quận Hà Đông- TP Hà Nội
Dân tộc : Kinh
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Bích Hoà
Trình độ : Đại học
Năm vào ngành: 2003
Khen thưởng : Chiến sĩ thi đua cấp Cơ sở
năm học 2009 - 2010
1
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1.Tên đề tài:
“PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH KHI DẠY
PHÂN MÔN LỊCH SỬ LỚP 5”
2. Lí do chọn đề tài:
Bác Hồ từng nói “Có tài mà không có đức, là người vô dụng. Có đức
mà không có tài, làm việc gì cũng khó.” Mỗi giáo viên chúng ta cũng nhận
thấy và đang thực hiện: Giáo dục những học sinh vừa có đức có tài để phục
vụ đất nước. Mục tiêu của giáo dục là phát triển toàn diện con người về đạo
đức, trí tuệ, thể chất thẩm mỹ và kỹ năng nghề nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ.
Môn tự nhiên xã hội cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản
và ban đầu về các sự vật, sự kiện, hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng
trong tự nhiên, con người và xã hội, về cách vận dụng kiến thức đó trong đời
sống và sản xuất.
Cùng với môn Tiếng Việt và môn Toán, môn tự nhiên xã hội là môn
quan trọng trong chương trình tiểu học.
Bên cạnh đó, Bác của chúng ta còn dạy rằng:
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”
Lời dạy của Bác đã khẳng định việc học và tìm hiểu lịch sử có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Không hiểu lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc là không hiểu văn hoá dân tộc. Chính vì
vậy mà việc dạy và học môn lịch sử ngay ở cấp Tiểu học là rất quan trọng.
Mặt khác, chương trình lịch sử lớp 5 giúp học sinh lĩnh hội được một
số tri thức ban đầu và thiết thực về xã hội. Đó là các sự kiện và nhân vật tiêu
biểu trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Từ đó hình thành và
phát triển ở học sinh các kỹ năng quan sát, mô tả, phân tích, so sánh, đánh giá
mối quan hệ giữa các sự kiện trong xã hội, đồng thời vận dụng các tri thức đã
học vào thực tiễn cuộc sống. Qua đó khơi dậy và bồi dưỡng tình yêu đất
2
nước, hình thành thái độ đúng đắn đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, kích
thích tính ham hiểu biết khoa học của học sinh. Để từ đó các em có lòng tự
hào dân tộc phát huy mọi khả năng để xây dựng một tương lai xứng đáng với
lịch sử của dân tộc.
Với trăn trở hiện nay, tại sao lớp trẻ rất hiểu về lịch sử các nước nhưng
lại mù mờ về lịch sử của chính dân tộc mình? Chúng ta không trách các em
thờ ơ mà hỏi tại sao chúng ta không đưa lịch sử dân tộc đến với các em bằng
cách nào đó vừa gần gũi, vừa hứng thú để các em tiếp nhận một cách dễ dàng
hơn, không cứng nhắc khô khan? Phải làm sao để các em tự khám phá, để
biết, để hiểu và chắc chắn khi đã biết, đã hiểu thì các em sẽ yêu mến và
những giờ học lịch sử sẽ trở nên hứng thú, say mê hơn. Do đó tôi đã chọn đề
tài: “Phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy phân môn lịch sử lớp 5.”
Hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé, thật nhỏ bé làm rạng danh những
trang sử vàng dân tộc, khơi dậy lòng tự hào về truyền thống đấu tranh của
dân tộc Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu và thời gian thực hiện:
Đề tài được thực hiện ngay từ khi bắt đầu vào năm học 2011-2012 và
được thực hiện tại lớp 5B Trường Tiểu học Bích Hoà.
III. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1.Tình hình thực tế trước khi thực hiện đề tài:
1.1.Thuận lợi:
Ban giám hiệu luôn quan tâm tạo mọi thuận lợi cho giáo viên và học
sinh về cơ sở vật chất cũng như các điều kiện nhà trường hiện có.
Hiện nay các nguồn thông tin từ sách báo, truyền hình, truyền thanh
khá phong phú, nội dung sách giáo khoa phù hợp với trình độ nhận thức của
học sinh.
Đồ dùng dạy học cũng được trang bị, một số đồ dùng tự làm đạt
hiệu quả cao.
2.1.Khó khăn:
3
Lớp có quá nhiều em gia đình chưa có sự quan tâm đến việc học của
học sinh.
Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa có phòng chức năng, đồ dùng dạy
học tuy được trang bị nhưng chưa đủ và phong phú.
Thư viện chưa có nhiều sách báo để tham khảo.
3.1.Thực tế học sinh học môn lịch sử trước khi thực hiện đề tài:
Khi mới nhận lớp, qua trao đổi và thông qua một số tiết dạy lịch sử
đầu năm, tôi nhận thấy thực trạng học sinh ở lớp chỉ có khoảng một vài em
học môn này một cách tích cực, còn lại các em học rất thụ động. Các em
chỉ thụ động nghe và biết những sự kiện, nhân vật lịch sử mà nội dung bài
nhắc đến, các em chưa hứng thú tìm hiểu sâu hơn, rộng hơn về những gì các
em cần phải tìm hiểu, dẫn đến hiện tượng các em: Học trước quên sau.
2. Số liệu điều tra trước khi trực hiện đề tài:
Ngay sau khi nhận lớp tôi đã cho các em làm một bài kiểm tra và
kết quả thu được như sau: Lớp có 25 em trong đó:
Điểm Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm 3-4 Điểm 1-2
Số lượng 0 2 11 7 5
Tỉ lệ 0% 8% 44% 8%
20%
3. Các biện pháp thực hiện:
3.1 Tính thiết yếu của việc dạy môn lịch sử:
Mỗi chúng ta sinh ra và lớn lên trên đất nước Việt Nam. Mỗi người
đều mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, chúng ta đều là con một mẹ, sống
chung một mái nhà nước Việt. Vậy tại sao con em chúng ta không hiểu biết gì
về lịch sử nước ta? Không biết không hiểu sao yêu mến được? Tất cả phải
làm sao cho các em biết - hiểu – yêu mến -tự hào về lịch sử dân tộc. Trách
nhiệm nặng nề vẻ vang này là của mỗi giáo viên chúng ta. Người giáo viên là
người lãnh sứ mệnh cao cả đó. Là cầu nối để đưa các em đến gần hơn với
những trang lịch sử hào hùng của ông cha ta. Nhưng làm được điều đó trước
hết người giáo viên phải có kiến thức, am hiểu về lịch sử dân tộc và bản thân
người giáo viên đã yêu mến -tự hào thì mới thực sự làm tròn trách nhiệm vẻ
4
vang đó.
Trong sự nghiệp giáo dục hiện nay, theo tinh thần đổi mới phương pháp
dạy học, trong đó người giáo viên luôn giữ vai trò tổ chức chỉ đạo, học sinh
tích cực chủ động nắm tri thức, tạo cho học sinh sự tham gia hứng
thú và trách nhiệm. Người giáo viên đảm nhận vai trò xây dựng kế hoạch,
hướng dẫn hoạt động và hợp tác. Người học được người dạy theo sát giúp đỡ
trong quá trình học nên tích cực, tự giác và thể hiện sự năng động trong hoạt
động học tập. Kết quả cuối cùng là học sinh đã tiếp thu được những nguồn tri
thức mới bằng sự khám phá của bản thân, với sự định hướng, giúp đỡ của
giáo viên. Tự mình khám phá ra tri thức, học sinh sẽ cảm nhận được sự hứng
thú say mê và yêu mến môn học hơn ngàn lần những gì học sinh tiếp nhận
một cách thụ động từ giáo viên.
3.2. Đặc điểm môn lịch sử lớp 5 :
Đặc điểm môn lịch sử lớp 5 là cung cấp cho học sinh một số kiến thức
cơ bản thiết thực về các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, sắp xếp theo thứ
tự thời gian, đại diện cho các thời kỳ lịch sử, không chứa đựng huyền thoại,
truyền thuyết hay phóng tác, hư cấu lịch sử. Về mức độ chỉ giới hạn ở mức
biết lịch sử, còn yêu cầu về hiểu lịch sử chỉ ở mức rất sơ đẳng, chủ yếu xem
xét ý nghĩa của các sự kiện, các nhân vật lịch sử đối với xã hội.
3.3.Mục tiêu của môn lịch sử lớp 5:
Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kỹ năng:
-Quan sát các sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ
các nguồn khác.
-Nêu thắc mắc đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để
giải đáp.
-Trình bày lại kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ.
-Vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.
Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen:
-Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về môi trường xung quanh các em.
-Yêu thiên nhiên, con người, quê hương đất nước.
5
-Tôn trọng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, văn hoá gần gũi với học sinh.
Từ những giờ học trên lớp, các em biết, hiểu- yêu mến - tự hào hơn về
đất nước, con người Việt Nam. Từ đó các em thấy được trách nhiệm vinh dự
của người đội viên đối với quê hương đất nước, với tổ quốc thân yêu. Để làm
rạng danh nước Việt trên toàn cầu.
Trên đây là một số cơ sở lí luận và tình hình thực tế dạy học môn lịch
sử lớp 5 mà tôi đã gặp phải. Tất nhiên còn nhiều tồn tại ở giáo viên và học
sinh. Vậy khi hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức môn lịch sử như thế nào
để phát huy được tính tích cực của học sinh là một điều mà tôi rất quan tâm.
3.4.Nguyên nhân những tồn tại trên :
Qua một số năm giảng dạy ở khối lớp 5, trao đổi cùng bạn bè đồng
nghiệp và thăm dò ý kiến của học sinh tôi nhận thấy: Học sinh hiểu biết rất
mơ hồ về lịch sử, thậm chí còn nhầm lẫn giữa nhân vật lịch sử nước nhà với
nhân vật lịch sử trong phim ảnh, không hứng thú khi đến giờ học lịch sử.
Tình trạng trên theo ý kiến bản thân tôi là do những nguyên nhân sau:
Nguyên nhân khách quan: Phim ảnh sách truyện về lịch sử của ta
còn nghèo nàn đơn điệu, không phong phú, sức hấp dẫn chưa cao. Nhiều thể
loại chưa phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi, các em bị ảnh hưởng nhiều bởi phim
truyện nước ngoài….
Nguyên nhân chủ quan: Trang thiết bị phục vụ cho môn học còn
nghèo nàn, giáo viên chưa đi sâu nghiên cứu tài liệu giảng dạy, chưa nhiệt
tình trong bài dạy. Các hình thức dạy học còn đơn điệu, khô cứng. Bản thân
giáo viên có phần xem nhẹ phân môn này so với Toán và Tiếng Việt, chính vì
thế khi tham gia các hội thi giáo viên rất dè dặt khi lựa chọn phân môn Lịch
sử.
3.5.Biện pháp thực hiện:
a.Biện pháp 1: Từ đặc trưng và mục tiêu của phân môn lịch sử trong
6
chương trình tiểu học tôi nhận thấy: Để có một tiết học lịch sử thành công,
phát huy được tính tích cực của học sinh đòi hỏi phải có sự chuẩn bị thật kỹ
của người dạy và người học.
* Về phía giáo viên:
Căn cứ vào mục tiêu và nội dung của bài lịch sử, những yêu cầu cơ
bản của bài, trình độ học sinh, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của trường lớp
để thiết kế bài dạy.
Căn cứ vào dạng bài lịch sử mà giáo viên chuẩn bị ảnh tư liệu, bản
đồ, lược đồ, tìm hiểu thông tư từ nhiều nguồn, tham khảo nhiều kiến thức về
sự kiện lịch sử liên quan đến nội dung bài dạy.
* Về phía học sinh:
Chuẩn bị bài ở nhà như: Xem kỹ nội dung bài học, chú ý trước những
câu hỏi trong SGK.
Tìm hiểu sưu tầm thêm những tư lệu có liên quan đến bài học qua
người thân, qua sách báo…
Để phát huy tính tích cực của học sinh trong phân môn lịch sử lớp 5
thì việc lựa chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học là rất
quan trọng. Giáo viên phải lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp với từng
bài, với từng đối tượng học sinh sao cho học sinh phải tự khám phá ra kiến
thức(dưới sự hướng dẫn của giáo viên) vì hoạt động của trò là quá trình tự
giác, tích cực, tự vận động, nhận thức và phát triển nhưng phải được điều
khiển.
Dạy môn lịch sử người giáo viên cần sử dụng các phương pháp đặc
trưng của nhiều môn học khác nhau. Do chính tính tích hợp của nội dung đề
cao vai trò chủ thể của người học, tăng cường tính tự giác tích cực và sáng tạo
của hoạt động học tập. Giáo viên cần huy động tối đa kinh nghiệm và vốn tri
thức có sẵn của học sinh vào việc dẫn dắt các em tự phát triển tri thức mới
của bài học. Giáo viên thiết kế hệ thống câu hỏi, bài tập giao cho học sinh
thực hiện với sự hướng dẫn cần thiết. Tổ chức các hoạt động như trò chơi học
tập, sắm vai ….Qua đó giúp học sinh lãnh hội kiến thức.
7
Dạy học như vậy thực chất là việc tổ chức cho học sinh học trong
hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực, sáng tạo để học sinh tự phát
hiện và tự chiếm lĩnh tri thức mới, vận dụng linh hoạt vào các tình huống
khác nhau của cuộc sống. Đó là dạy học đề cao vai trò chủ thể nhận thức của
học sinh.
Người giáo viên cần phải dạy tự học cho học sinh. Trong nhà trường
học sinh không thể học hết khối lượng tri thức nhân loại ngày càng tăng
nhanh chóng trong mọi lĩnh vực. Việc học tập cần phải diễn ra suốt đời của
học sinh. Nhà trường cần rèn cho các em khả năng tự học ngay trong qúa
trình học tập ở trên ghế nhà trường. Vì vậy quá trình dạy học bao gồm cả
dạy tự học, đề cao vai trò chủ thể của học sinh trong học tập chính là điều
kiện quan trọng cho việc dạy tự học. Bởi vì học là: “sự biến đổi bản thân
mình trở nên có thêm giá trị, bằng nỗ lực của chính mình để chiếm lĩnh
những giá trị mới lấy từ bên ngoài.”
b. Biện pháp 2: Định hướng về phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học:
Vận dụng và kết hợp các phương pháp trên nguyên tắc: học sinh
được tự hoạt động để phát hiện, nhận thức kiến thức.
Tổ chức học sinh thu nhập, tìm kiếm và chọn lựa các thông tin về lịch
sử. Trên cơ sở các nguồn tri thức( Sách giáo khoa, tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ,
phương tiện nghe nhìn …) Và vốn hiểu biết của học sinh, giáo viên hướng
dẫn học sinh quan sát, phân tích, so sánh, hệ thống hoá kiến thức bước đầu
khái quát hoá, tìm ra mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Lịch sử là việc đã xảy ra, có thật và tồn tại khách quan. Nhận thức lịch
sử phải thông qua các “dấu vết” của quá khứ, những chứng cứ về sự tồn tại
của các sự kiện, hiện tượng, nhân vật đã diễn ra, do đó việc đầu tiên thiết yếu
không thể bỏ qua là cho học sinh tiếp nhận thông tin từ sử liệu ( Hiện vật,
tranh ảnh, bản đồ …) thông qua đó học sinh tái hiện được sự việc đã diễn ra.
Có thể tổ chức cho học tập cả lớp, theo nhóm hoặc cá nhân với mục
đích tăng cường khả năng độc lập suy nghĩ, sáng tạo của học sinh, đồng thời
8
phát triển mối giao lưu, tương tác giữa thầy và trò, giữa trò và trò.
Cần vận dụng tối đa các điều kiện, phương tiện ở địa phương để tổ
chức cho học sinh học ngoài lớp, cho học sinh tham quan các di tích lịch sử
văn hoá, các dấu vết quá khứ …
c. Biện pháp 3: *Một số phương pháp và hình thức cụ thể khi dạy
môn lịch sử lớp 5:
** Một số phương pháp cụ thể:
- Nêu và giải quyết vấn đề.
- Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ.
- Khai thác kiến thức từ kênh hình.
- Hình thành khái niệm và biểu tượng lịch sử.
- Kể chuyện lịch sử.
- Phương pháp vấn đáp.
Mỗi phương pháp dạy học đều có tác dụng tích cực đối với học sinh,
giúp học sinh nắm vững kiến thức và phát triển kỹ năng thái độ. Không có
phương pháp nào là vạn năng cả, chính vì vậy trong một tiết dạy để đạt hiệu
quả cao nhất đòi hỏi người giáo viên cần phải sử dụng phối hợp hợp lý các
phương pháp dạy học khác nhau. Với điều kiện cơ sở vật chất và trình độ
tiếp nhận của học sinh. Khi dạy lịch sử cần lựa chọn hình thức và phương
pháp phù hợp với tình hình giảng dạy chung và đặc trưng riêng của các
bài lịch sử.
**Một số hình thức cụ thể:
Dạy trong lớp học
- Dạy cả lớp.
- Dạy học theo nhóm.
- Dạy cá nhân.
Dạy ngoài hiện trường
- Dạy cả lớp.
9
- Dạytheo nhóm.
- Dạy cá nhân.
d. Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh cách học bộ môn lịch sử theo
từng loại bài:
Việc hướng dẫn học sinh cách học bộ môn lịch sử theo từng loại bài:
việc thầy và trò chuẩn bị sưu tầm tài liệu, tranh ảnh, tư liệu lịch sử tất cả đều
nhằm phục vụ cho việc dạy học ở trên lớp với mục đích qua bài học học sinh
phát huy được tính tích cực của mình thông qua phân môn lịch sử.
Trước kia chúng ta thường quan niệm học lịch sử là phải học thuộc,
nạp vào bộ nhớ của học sinh theo lối thầy đọc, trò chép, học thuộc lòng theo
thầy, theo sách giáo khoa là đạt yêu cầu.
Nhưng học tập lịch sử theo quan niệm hiện đại không phải là theo
cách trên mà là: học sinh thông qua làm việc với sử liệu mà tạo ra hình ảnh
lịch sử, tự xậy dựng, tự hình dung về quá khứ lịch sử đã diễn ra.
Từ cơ sở nhận thức cá thể, độc lập đó, bằng các biện pháp tương tác
xã hội (học theo nhóm, học cả lớp, đối thoại thầy trò ) mà học sinh xây dựng
sự nhận thức đúng đắn về môn lịch sử. Muốn làm đuợc điều đó khi dạy học
trên lớp, giáo viên cần phải tiến hành qua các bước sau:
Thông thường kết cấu của bài lịch sử lớp 5 gồm ba phần:
- Mục đích (Nguyên nhân ).
- Diễn biến.
- Kết quả và ý nghĩa.
Tuy nhiên với từng mục này giáo viên cũng linh hoạt đặt tên sao cho
thể hiện được nội dung của từng phần và cũng cuốn hút học sinh hơn.
* Với loại bài dạy về sự kiện lịch sử :
Khi dạy dạng bài về sự kiện lịch sử chiếm phần lớn chương trình lịch
10
sử lớp 5, khoảng 29 bài. Tôi tiến hành như sau:
a.*Định hướng mục tiêu bài dạy, xác định nhiệm vụ học tập với học
sinh
(Phần giới thiệu bài).
Giáo viên phải nêu được vấn đề vừa có tính khái quát vừa có tính cụ
thể để học sinh tư duy và nhận thức được vấn đề mà giáo viên đưa ra, hướng
học sinh vào vấn đề cần giải quyết.
Muốn định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập được tốt, phần
nêu vấn đề của giáo viên phải đạt các yêu cầu:
-Lời dẫn phải xúc tích, giàu tính khái quát và giàu hình ảnh. Giáo viên có
thể khéo léo liên hệ giữa bài cũ và bài mới. ( Đây là một trong những yếu tố
lôi cuốn sự hứng thú của người học. )
- Phải đề cập được cốt lõi của bài học.
-Gợi trí tò mò của học sinh.
Ví d ụ bài: Khi dạy bài Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Phần giới thiệu giáo viên nói: Đảng ta đã được thành lập trong thời
gian nào? Đảng đã ra đời ở đâu, trong hoàn cảnh như thế nào, ai là người giữ
vai trò quan trọng trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam? bài học
hôm nay sẽ giúp các em trả lời những câu hỏi này. Hoặc tôi cho học sinh
nghe bài hát: “Đảng cho ta cả mùa xuân” và sau đó đi vào giới thiệu bài.
b.* Tổ chức cho học sinh tiếp cận các nguồn sử liệu:
Các sự kiện lịch sử trong chương trình lớp 5 không trình bày theo một
hệ thống chặt chẽ như các cấp học sau. Do đó việc tất yếu không thể không
tiến hành là phần giới thiệu bối cảnh và dẫn dắt sự kiện. Giáo viên trình bày
các sự kiện, các sự việc, hiện tượng bằng phương pháp tường thuật, miêu tả
hay kể chuyện. Đây là một trong những phương pháp đặc trưng dạy lịch sử.
Khi kể chuyện giáo viên cần chú ý:
- Tôn trọng tính chân thật của lịch sử.
- Không kể chuyện quá dài, lấn át cả thời gian học sinh tiếp xúc với cứ
11
liệu lịch sử.
Khi giới thiệu về bối cảnh lịch sử tôi thường kể cho học sinh nghe
một câu chuyện mà phần kết thúc là nội dung mà chính các em sẽ phải tìm
hiểu ở trong bài học nên thời gian kể chuyện chỉ gần 5 phút. Câu chuyện tôi
kể không đòi hỏi các em phải nhớ toàn bộ nội dung, song yêu cầu các em
nắm được những tình tiết chính và đó là cơ sở để tiến hành những hoạt động
kế tiếp.
Học sinh làm việc với SGK (đọc thầm ) để có những hình ảnh cụ
thể về sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Tổ chức đàm thoại để tìm hiểu mục đích hay nguyên nhân diễn ra
sự kiện … Dẫn dắt học sinh đi dần tới nội dung chính của bài. Thường là
những câu hỏi liên quan tới phần mà mà các em vừa đọc thầm, những câu
hỏi tương đối dễ. Vì vậy giáo viên nên ưu tiên cho những học sinh nhút nhát,
học sinh yếu giúp các em mạnh dạn trong giờ học.
Ví dụ : Bài “Thu- Đông 1947, Việt Bắc “ Mồ chôn giặc Pháp ”
Để giảng nguyên nhân xuất hiện chiến dịch, tôi treo bản đồ hành
chính Việt Nam, để học sinh chỉ được 6 tỉnh thuộc căn cứ địa Việt Bắc từ đó
nắm vững được vị trí của căn cứ địa Việt Bắc trên bản đồ Việt Nam.
Học sinh đọc sách giáo khoa, tìm hiểu nguyên nhân, mục đích của
chiến dịch, học sinh trả lời cá nhân.
12
Giáo viên chốt và dẫn dắt học sinh tìm hiểu về diễn biến và ý nghĩa
lịch sử của chiến dịch.
c.* Tổ chức cho học sinh làm việc ( Tự giải quyết các nhiệm vụ học
tập mà giáo viên nêu ra thông qua hoạt động nhóm ).
Quan niệm dạy học mới là: Dạy học là quá trình phát triển, học sinh
tự khám phá, phát hiện, tự tìm ra chân lý nên việc tổ chức cho học sinh trình
bày ý kiến, thảo luận trong nhóm để rút ra những ý kiến chung sẽ làm cho học
sinh hứng thú hơn.
Qua việc học hỏi, hợp tác mà tri thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ
nhớ và nhớ lâu.
Để giảng về diễn biến của chiến dịch: Tôi giới thiệu lược đồ của
chiến dịch để học sinh nắm được. Kết hợp khai thác tranh ảnh, lược đồ, bản
đồ…Vì đó là những phương tiện giúp học sinh tái hiện những sự kiện lịch sử
trong quá khứ. Nhờ tự các em tìm kiếm, diễn tả bằng lời diễn biến chiến dịch
có sự hỗ trợ của kênh hình sẽ giúp các em nhớ kỹ, hiểu sâu, những kiến thức
lịch sử mà học sinh thu nhận được. Góp phần tạo biểu tượng và khái niệm
lịch sử, đồng thời còn phát triển trí óc quan sát, trí tưởng tượng tư duy và
ngôn ngữ của học sinh.
Phát huy tính tích cực chủ động và độc lập suy nghĩ của học sinh, tạo
tính tự tin trong học tập.
d.* Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả thảo luận.
Giáo viên cho học sinh nhận xét đánh giá ý kiến của các nhóm, cần
bổ sung gì hoặc học sinh có thể có câu hỏi giao lưu cùng bạn.
Sau mỗi nhóm thảo luận xong giáo viên nên khéo léo dùng kiến
thức mà học sinh đã biết để liên hệ giữa câu hỏi nhóm này với nhóm khác,
giúp học sinh thấy công việc của nhóm mình và của bạn có liên hệ chặt chẽ
với nhau không thể tách rời công việc mình làm không thể thiếu. Điều này
giúp các em tự tin và mạnh dạn hơn trong giờ học và cử đại diện trình bày lại
diễn biến theo phiếu học tập của nhóm mình. Các nhóm khác nhận xét bổ
sung nếu thiếu.
13
Có thể cho các học sinh thi đua với nhau bằng cách trực tiếp lên chỉ
lược đồ để nói lại diễn biến của chiến dịch theo lời văn của mình.
Giáo viên làm trọng tài đánh giá hướng dẫn các em tới nhận định
đúng và chốt lại vấn đề cần nắm chắc. Giáo viên cần có tranh ảnh tư liệu sưu
tầm được để làm bằng chứng cho những báo cáo của học sinh, điều này làm
các em sẽ vô cùng thích thú, sự khen ngợi của giáo viên cũng tạo hưng phấn
giúp học sinh học tốt hơn.
e.*.Liên hệ mở rộng và giáo dục tư tưởng.
Sau mỗi hoạt động để giúp học sinh khắc sâu kiến thức đồng thời
kiểm tra xem có bao nhiêu em đã nắm chắc vấn đề, bao nhiêu em chưa nắm
chắc được nội dung cần đạt? Tôi thường cho các em làm một hoặc hai bài tập
trắc nghiệm. Đồng thời chốt nội dung cần nhớ trên bảng, sau các hoạt động
thì toàn bộ nội dung chính của bài đã có sẵn trên bảng lớp. Hình thức này tôi
áp dụng cho mọi loại bài của phân môn Lịch sử.
Cuối tiết học, giáo viên có thể đặt những câu hỏi về nguyên nhân thất
bại hay thành công của chiến dịch. Từ bài học, giáo dục học sinh những suy
nghĩ và tình cảm đúng đắn, khơi gợi trong các em lòng tự hào dân tộc và xây
dựng cho các em ý thức học tập để sau này lớn lên em sẽ làm gì để xứng đáng
với những gì mà cha ông đã để lại cho các em.
Ví d ụ : Ở phần củng cố: Tôi yêu cầu các em lên thuyết minh về những bức
tranh hay những bài thơ các em đã sưu tầm được theo nhóm có liên quan đến
chiến khu Việt Bắc để các em có thể hình dung được căn cứ địa kháng chiến
nơi Bác Hồ- Đảng- Chính phủ đã hoạt động lâu dài để chỉ huy cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp.
Chính nhờ việc sử dụng phong phú đồ dụng dạy học giúp học sinh
gần gũi với các sự kiện, nhân vật lịch sử hơn dễ gây cho các em ấn tượng sâu
sắc, hứng thú tìm tòi, học tập. Nó tạo điều kiện cho học sinh dễ nhớ, nhớ lâu
phát triển năng lực chú ý quan sat, óc tò mò khoa học.
* Với loại bài dạy về nhân vật lịch sử :
Loại bài này chỉ khoảng 6 bài trong chương trình.
14
Để học tốt bài Lịch sử dạng này, giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm tranh
ảnh hoặc tư liệu về cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử đó. Kết hợp
với đọc sách giáo khoa trước ở nhà để nắm được nội dung của bài mới về
cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử trước khi đến lớp. Với loại bài
này, tôi tiến hành như sau:
a.*Định hướng mục tiêu bài dạy, xác định nhiệm vụ học tập với
học sinh.
Bằng cách dẫn chuyện, giáo viên trước khi nhắc đến nhân vật lịch sử
nào đó cần cung cấp để học sinh biết được những nét sơ lược về bối cảnh lịch
sử (không gian, thời gian) mà nhân vật hoạt động. Thường là kết mở rộng
bằng một số câu hỏi gợi sự hứng thú, trí tò mò ở học sinh: Nhân vật đó là ai?
Đã có cống hiến gì cho đất nước? Những việc Ông làm có ảnh hưởng gì đến
công cuộc giải phóng đất nước? Chúng ta cùng tìm hiểu qua bài …
Ví dụ : Khi dạy bài: Phan Bội Châu và phong trào Đông Du
Ở phần này giáo viên có thể nêu: Ông sinh năm 1867 mất 1940. Quê
Ông ở làng Đan Nhiệm, tỉnh Nghệ An. Ông lớn lên khi đất nước đã bị
thực dân Pháp xâm lược. Ông là người thông minh, học rộng, tài cao, có ý
đánh đuổi giặc Pháp. Với suy nghĩ của ông: Nhật Bản là một nước châu Á
“ Đồng văn đồng chủng”, nên hy vọng vào sự giúp đỡ của Nhật để đánh
Pháp. Vậy Ông đã làm gì để thực hiện được mong ước đó? Ông là ai? Chúng
ta cùng tìm hiểu qua bài: Phan Bội Châu và phong trào Đông Du.
b.* Tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của nhân vật, những ảnh hưởng
của nhân vật đối với công cuộc giải phóng đất nước.
Thường cho học sinh tìm hiểu nội dung sách giáo khoa và hiểu biết
đã có của mình về nhân vật lịch sử đó.
Cần nêu rõ những việc nhân vật đã làm. Những việc làm đó có mục
đích gì? Có ảnh hưởng gì đến nhân dân, đến xã hội lúc bấy giờ?
Do đó việc sưu tầm tranh ảnh tư liệu là rất quan trọng để các em dễ
hình dung, dễ nhớ, nhớ lâu các sự kiện đó. Chính vì vậy học sinh phải sưu
tầm tranh ảnh từ ở nhà, đọc trước sách giáo khoa kết hợp với những tư liệu
15
sưu tầm được hoặc do giáo viên cung cấp để nắm vững được nội dung bài.
Giáo viên cần đối chiếu với những phương tiện mà nhà trường đã trang bị để
giáo viên và học sinh chủ động trong bài học, cùng phối kết hợp với phụ
huynh học sinh trong việc sưu tầm, đóng góp cho nhà trường. Khác với cách
dạy học trước đây, giáo viên là người cung cấp thông tin, còn học sinh là đối
tượng thụ động tiếp nhận thông tin. Dạy học ngày nay là tổ chức để học sinh
tìm hiểu, phát hiện kiến thức và tự giác chiếm lĩnh kiến thức đó.
Những bài học lịch sử trong đó các nhân vật có những lời đối thoại
thể hiện phẩm chất cao quí của nhân vật, có thể cho một hai nhóm tự đóng vai
để diễn lại, hoặc mỗi nhóm có thể có cách trình bày khác nhau như: Nói, viết,
vẽ Các nhóm trình bày, nhận xét bổ sung, giáo viên chốt lại nội dung cần đạt.
c.* Liên hệ mở rộng: Tổ chức trò chơi học tập.
Việc giáo viên chốt lại kiến thức, khẳng định kiến thức hoặc liên hệ
mở rộng là việc làm rất cần thiết. Bởi vì: những thông tin học sinh thu lượm
được còn rời rạc, kiến thức mà các em thu lượm được khác nhau, đôi khi sai
lệch hoặc chưa chuẩn. Chính vì vậy, giáo viên phải chốt lại chuẩn kiến thức,
từ đó mở rộng cho học sinh, gây cho các em sự hứng thú trong giờ học.
Thông qua trò chơi học tập giúp các em khắc sâu hơn kiến thức vừa
đạt được, đồng thời phát triển ở các em sự tìm tòi khám phá tri thức mới.
Giúp các em có năng khiếu được thể hiện mình. Tạo cho các em tính tự tin
năng động hơn.
Các nhóm sưu tầm tranh ảnh,bài thơ, bài hát về nhân vật.
Ví dụ: Khi dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” Tôi cho các nhóm
tự thể hiện khả năng của mình như:
Nhóm 1: Sắm vai lại cuộc đối thoại giữa Bác và anh Lê.
Nhóm 2: Trò chơi phóng viên hỏi –đáp những hiểu biết về Bác,
những địa danh nào mang tên Bác? những tổ chức hay giải thưởng nào được
vinh dự mang tên Bác, hoặc nói về Bác
Nhóm 3: Thi hát, đọc thơ những bài có nội dung về Bác.
Qua những tình huống đó, giáo dục lòng biết ơn và tự hào về những
16
anh hùng dân tộc. Học sinh có thái độ trân trọng, bảo vệ những di tích lịch sử.
Một khi tự mình khám phá các em sẽ hiểu-yêu mến hơn.
Dù dạy dưới hình thức nào khi dạy Lịch sử giáo viên cần chú ý:
- Tập trung vào dạy cách học lịch sử cho học sinh.
- Giúp học sinh có nhu cầu học lịch sử và biết cách học.
- Coi trọng và khuyến khích học tập tích cực môn lịch sử.
- Tôn trọng sự chủ động và sáng tạo của học sinh.
- Không biến giờ học lịch sử thành giờ chính trị.
IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ.
1.Kết quả về chất lượng thu được:
So với đầu năm chất lượng của các em về môn lịch sử trong năm đã
tiến bộ rõ rệt. Tất cả các bài kiểm tra đột xuất, báo trước, kiểm tra miệng các
em đều đạt từ trung bình trở lên.
Sau đây là kết quả mà các em đã đạt được sau khi áp dụng các biện pháp
của SKKN:
*Đầu năm:
Điểm Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm 3-4 Điểm 1-2
Số lượng 0 2 11 7 5
Tỉ lệ 0% 8% 44% 28% 20%
* Cuối năm:
Điểm Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm 3-4 Điểm 1-2
Số lượng 7 9 9 0 0
Tỉ lệ 28% 36% 36% 0% 0%
Như vậy số điểm giỏi đã tăng 28%, điểm khá tăng 28%, số điểm dưới
trung bình không còn. Kết quả trên cho thấy chất lượng đã tiến bộ rõ rệt.
2.Kết quả về tình cảm với bộ môn:
Trước đây, lớp tôi các em rất sợ khi đến giờ lịch sử và không thích
học. Còn đến nay, các em chờ đón được học một tiết sử hiếm hoi trong tuần
với tất cả lòng nhiệt tình và hào hứng của mình.
17
3.Kết quả năng lực học tập của học sinh:
Từ sự tự tin, từ năng lực chủ động, phát huy tính tích cực của mình
trong giờ lịch sử, các em đã coi mỗi tiết sử là một cuộc tranh tài, một cuộc thi
nho nhỏ để tìm ra kiến thức mới, được trở lại khí thế hào hùng của dân
tộc trước kia đã cách xa các em rất lâu. Từ đó làm cho các em thêm yêu quê
hương, yêu đất nước hơn.
Và đặc biệt trong dịp 26-3 vừa qua, dưới sự chỉ đạo của Ban giám
hiệu nhà trường, Chi đoàn phối hợp với TPT Đội có tổ chức cuộc thi “Tìm
hiểu lịch sử Việt Nam”, các em đã tham gia sôi nổi và đầy hứng thú, các em
đều trả lời được các câu hỏi mà Ban tổ chức đưa ra và cuộc thi đã thành công
rực rỡ. Điều đó cho thấy năng lực học tập của các em đã tiến bộ rõ rệt.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
1.Bài học rút ra qua thực nghiệm đề tài:
Tóm lại, để phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy phân môn
lịch sử lớp 5, người giáo viên cần phải phối hợp các phương pháp và các hình
thức tổ chức dạy học lịch sử rất đa dạng. Muốn làm được điều đó, giáo viên
phải thực hiện:
- Nắm vững chương trình.
- Nắm vững đặc trưng phương pháp bộ môn.
- Sưu tầm tư liệu, tranh ảnh để minh hoạ.
- Chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc dạy học.
Giáo viên cần hướng dẫn khích lệ động viên các em học còn yếu,
nhút nhát bằng sự yêu thương gần gũi và cái tâm của người thầy.
Tạo hứng thú và niềm tin cho các em trong quá trình học tập.
Nêu cao những tấm gương điển hình về tinh thần cố gắng vươn lên
trong học tập để học sinh noi theo.
Có như vậy thì học sinh mới hứng thú, tạo hiệu quả cao trong những
tiết lịch sử.
Qua thực tế, tôi nhận thấy mỗi tiết dạy lịch sử áp dụng phương pháp
18
này, tiết học sôi nổi, hứng thú hơn, các em ham tìm hiểu, yêu mến và tự hào
hơn về truyền thống của dân tộc ta.
VI. KẾT LUẬN.
Bậc tiểu học là bậc quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh. Người thầy phải khơi dậy và
truyền lửa cho học sinh đảm bảo sự kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc
và làm nổi bật được những đặc trưng riêng của phân môn lịch sử mà những
môn học khác không có được.
Để có được những lớp thanh niên đầy đủ nhân cách, người giáo viên
phải không ngừng trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức. Vì:
“ Cây tốt sẽ sinh trái tốt ”. Nhu cầu phát triển của xã hội nói chung, nghành
giáo dục nói riêng đòi hỏi chúng ta không ngừng học tập, vươn lên nâng cao
tri thức để xứng đáng với sứ mệnh cao cả “trồng người” của đất nước.
VII. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ NGHỊ
Sở và Bộ cần tạo điều kiện trang bị cho nhà trường các bộ tranh ảnh
lịch sử dạng dùng cho tiểu học, các loại băng hình, tư liệu về các chiến dịch,
để giúp cho việc dạy và học phân môn lịch sử đạt hiệu quả cao hơn
Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được trong nhiều
năm giảng dạy phân môn lịch sử lớp 5. Song những kết quả đạt được chỉ là
bước đầu. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các ban ngành và các đồng
nghiệp để SKKN của tôi được hoàn thiện hơn.
19
Tôi xin cam đoan bản sáng kiến kinh nghiệm do tôi viết, không sao
chép của người khác, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Xin chân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2012
Người viết
Nguyễn Thị Tươi
Ý kiến nhận xét đánh giá và xếp loại của
Hội đồng Khoa học cấp trường
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
Chủ tịch Hội đồng
(Kí tên, đóng dấu)
Ý kiến nhận xét đánh giá và xếp loại của
Hội đồng Khoa học cấp Cơ sở
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
20
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
Chủ tịch Hội đồng
(Kí tên, đóng dấu)
Ý kiến nhận xét đánh giá và xếp loại của
Hội đồng Khoa học cấp Thành phố
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
Chủ tịch Hội đồng
(Kí tên, đóng dấu)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình phương pháp dạy học môn tự nhiên xã hội.
2. Dạy tự nhiên và xã hội ở trường tiểu học (lớp 4 - 5).
3. Đổi mới việc dạy môn tự nhiên và xã hội ở tiểu học.
21
4. Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kì 2003 – 2007.
5. Sách giáo viên , sách giáo khoa lịch sử lớp 5.
6. Dạy học lấy học sinh làm trọng tâm.
7. Giáo trình Tâm lý học tiểu học.
MỤC LỤC
STT Nội dung Trang
22
I Sơ yếu lý lịch. 1
II Nội dung đề tài 2
1. Tên đề tài 2
2. Lý do chọn đề tài 2
3. Phạm vi nghiên cứu và thời gian thực hiện 3
III Quá trình thực hiện đề tài 3
1. Tình hình thực tế trước khi thực hiện đề tài 3
2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài 4
3. Các biện pháp thực hiện 4
IV Đánh giá kết quả 17
1.Kết quả về chất lượng thu được 17
2. Kết quả về tình cảm với bộ môn 18
3. Kết quả năng lực học tập của học sinh 18
V Bài học kinh nghiệm 18
VI Kết luận 19
VII Kiến nghị và đề nghị 19
23