Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

sự thích ứng với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường cao đẳng sư phạm bạc liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.63 KB, 24 trang )

























BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI






Nguyễn Thiện Thuật










Sự thích ứng
với hoạt động nghiên cứu khoa học
của sinh viên trường cao đẳng sư phạm bạc liêu



LUẬN VĂN THẠC SỸ

Chuyên ngành : Tâm lý học
Mã số : 60. 31. 80




Người hướng dẫn khoa học :PGS - TS NGUYỄN THẠC







Hà nội – 2005















Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn tập thể các thầy, các cô khoa Tâm lý – Giáo
dục trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho em học tập
và nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin thành thật cảm ơn thầy Nguyễn Thạc đã
tận tình giúp đỡ em một cách chu đáo trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này !
Tôi xin cảm ơn các thầy, các cô trường Cao đẳng Sư phạm Bạc Liêu
cùng toàn thể các sinh viên của trường đã giúp đỡ tôi thực hiện việc điều tra
nghiên cứu trong quá thực hiện luận văn này.


Hà Nội, ngày 15 tháng 9 năm
2005


Tác giả
luận văn












Phần mở đầu


1 / LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Trong xã hội, mỗi người mỗi hoạt động, mỗi người mỗi nghề nghiệp khác
nhau. Song có một hoạt động mà mọi người, mọi nghề ở bậc cao đều phải có dù ở
mức độ cao hay thấp, đó là hoạt động nghiên cứu khoa học. Ở xã hội mà khoa học
kỹ thuật và công nghệ phát triển như vũ bão ngày nay thì việc nghiên cứu

khoa học lại càng giữ mét vai trò đặc biệt quan trọng đói với cuộc sống và nghề
nghiệp của mỗi người, đặc biệt là đối với người giáo viên.
Thứ nhất, hoạt động nghiên cứu khoa học giúp cho mỗi cá nhân không

ngừng phát triển về trình độ văn hóa khoa học kỹ thuật, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ . Nhờ có nó mà mỗi chúng ta có thể cập nhật kịp thời những tri thức về
các lĩnh vực văn hóa khoa học kỹ thuật và cuộc sống đang phát triển một cách hết
sức nhanh chóng và mạnh mẽ, mét sù phát triển như vũ bão về khoa học kỹ thuật.
Vì vậy nghiên cứu khoa học là một điều kiện cần thiết để chúng ta sống và tham
gia các hoạt động một cách sáng tạo, một cách có hiệu quả.
Thứ hai, hoạt động nghiên cứu khoa học có tác dụng rút ngắn thời gian
học tập của mỗi cá nhân, rút ngắn thời gian đào tạo của nhà trường. Nếu làm tốt
công tác này thì quá trình đào tạo sẽ nhanh chóng trở thành quá trình tự đào tạo.
Kết qủa của quá trình giáo dục và đào tạo phụ thuộc nhiều vào khả năng nghiên
cứu khoa học của thầy và trò trong công tác giáo dục.
Thứ ba, đối vối người giáo viên, tầm quan trọng của công tác nghiên cứu
khoa học lại càng được khảng định rõ, lại càng có vai trò đặc biệt qyan trọng. Để
có khả năng nghiên cứu khoa học thì bản thân mỗi người thầy, người hướng dẫn
những bước đi ban đầu cho thế hệ tương lai của xã hội phải biết nghiên cứu khoa
học và phải biết làm tốt công việc này, phải biết thể hiện và sử dụng nã ngay trong
hoạt động giảng dạy và giáo dục của mình đối với học sinh. Hoạt động nghiên cứu
khoa học luôn bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động giảng dạy của người giáo viên và hoạt
động học tập của học sinh. Công việc này của người giáo viên đòi hỏi phải được
hình thành, được thích ứng càng sớm càng tốt, đặc biệt là ngay từ khi còn là sinh
viên trong các trường sư phạm. Sự thích ứng là một điều kiện cơ bản để đảm bảo
cho sù thành công trong mọi hoạt động của con người.
Để cho các sinh viên sư phạm sớm thích ứng với hoạt động nghiên cứu
khoa học một cách thuận lợi thì đòi hỏi người giáo viên sư phạm không chỉ biết
nghiên cứu khoa học, nhiệt tình hướng dẫn sinh viên học tập, nghiên cứu khoa học
mà còn đòi hỏi người giảng viên sư phạm phải biết, phải nắm thực trạng sự

thích ứng đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên và những nguyên
nhân của thực trạng đó một cách có cơ sở.
Đối với các trường vùng xa, vùng sâu nơi Ýt có hoàn cảnh học tập qua các

phương tiện thông tin đại chúng, nơi Ýt có điều kiện tiếp xúc với sách vở thì việc
sớm hình thành khả năng nghiên cứu khoa học thật sự cho sinh viên ngay từ khi họ
còn ngồi trên ghế nhà trường sư phạm càng là vấn đề có nhiều khó khăn, phức tạp
nhưng lại càng là một yêu cầu bước thiết, cấp bách.
Là một giảng viên dạy Tâm lý học ở Trường Cao đẳng sư phạm của một
tỉnh vùng sâu, nơi công tác nghiên cứu khoa học Ýt được quan tâm, Ýt được chú ý
trong khi nã đòi hỏi phải được quan tâm hơn, tôi thấy mình cũng có phần trách
nhiệm không nhá trong việc tham gia vào quá trình giúp sinh viên nhanh chóng
thích ứng với hoạt động nghiên cứu khoa học. Ý thức được tầm quan trọng của
vấn đề trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của
mình là tìm hiểu: “ Sù thích ứng với hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Bạc Liêu. ”
2 / MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra thực trạng sự thích ứng
với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường C. Đ. S. P tỉnh Bạc-Liêu,
chỉ ra yếu tố cơ bản làm ảnh hưởng đến thực trạng này và trên cơ sở đó xây dựng
mét sè biện pháp cần thiết để tác động đến sinh viên nhằm nâng cao khả năng thích
ứng của họ trong hoạt động nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo của trường.
3 / NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI :
1. Tìm hiểu cơ sở lý luận về sự thích ứng hoạt động nghiên cứu
khoa học của sinh viên.
2. Tìm hiểu thực trạng sự thích ứng đối với hoạt động nghiên cứu
khoa học của sinh viên và các yếu tố làm ảnh hưởng đến thực trạng này.

3. Xây dựng mét sè biện pháp tác động để giúp sinh viên nhanh
chóng thích ứng với hoạt động nghiên cúu khoa học trong quá trình học tập và rèn
luyện ở nhà trường Sư phạm.
4 / GIẢ THUYẾT KHOA HỌC :
Thực trạng sự thích ứng với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên

trường Cao đẳng Sư phạm Bạc Liêu có thể là chưa cao và có sự khác biệt về mức
độ giữa những sinh viên ở các khoa khác nhau, nhưng nếu có biện pháp tác động
thích hợp và có sù quan tâm hướng dẫn học tập, nghiên cứu tốt thì sinh viên cao
đẳng sư phạm cũng có khả năng thích ứng tốt đối với hoạt động này.
5 / KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Khách thể nghiên cứu : Đề tài nghiên cứu trên 291 sinh viên năm thứ III
ở các khoa sư phạm cấp II của Trường C. Đ. S. P tỉnh Bạc - Liêu năm học 2004-
2005 và 26 giảng viên của trường tham gia hướng dẫn sinh viên thực tập và làm
bài tập nghiên cứu khoa học giáo dục cuối khoá.
Đối tượng nghiên cứu : Sù thích ứng của sinh viên với hoạt động nghiên
cứu khoa học.
6 / PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI :
Đề tài chỉ tiến hành tìm hiểu nghiên cứu trên những sinh viên năm thứ III
và những giảng viên hướng dẫn của Trường Cao đẳng Sư phạm Bạc - Liêu trong
năm học 2004 - 2005 và mét sè năm học trước đó. Việc nghiên cứu được tiến hành
chủ yếu qua việc học tập chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và
việc làm bài tập nghiên cứu khoa học giáo dục cuối khoá của sinh viên.
7 / PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
Phương pháp điều tra.
Phương pháp thống kê toán học.
8 / CÁI MỚI CỦA ĐỀ TÀI :

Đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm vấn đề thích ứng của sinh viên cao đẳng
sư phạm đối với hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục. Đề tài cũng góp phần
chỉ ra mét sè biện pháp nhằm nâng cao thích ứng với hoạt động nghiên cứu khoa
học của sinh viên trong quá trình đào tạo ở trường Cao dẳng Sư phạm và có thể
được áp dụng các biện pháp đó vào công tác đào tạo của các trường cao đẳng và
đại học sư phạm trong những điều kiện giảng dạy và học tập tương tự.
















Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TÂM LÝ
HỌC
VỀ THÍCH ỨNG

1. MỘT VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU THÍCH
ỨNG:
Thích ứng là mét trong những vấn đề quan trọng của đời sống tâm lý con
người, nó có mét ý nghĩa to lớn đối với kết quả hoạt động của mỗi con người cụ
thể. Thích ứng không phải chỉ là đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học mà còn là
đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác như Sinh lý học, Y học, Triết
học… Vì vậy vấn đề thích ứng đã được nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau nghiên
cứu từ lâu, song nã lại là vấn đề mới, Ýt được quan tâm nghiên cứu so với

các lĩnh vực khác trong Tâm lý học. chúng ta có thể kể đến mét sè tác giả

tiêu biểu với những công trình lớn nghiên cứu về thích ứng trong lịch sử của Tâm
lý học thế giới:
H. Spencer (1820-1903) đã nghiên cứu sự thích ứng trên mối quan hệ mật
thiết giữa con người với môi trường sống. Đó chính là mối quan hệ giữa các yếu tố
bên trong và bên ngòai của con người. Ông đã chú ý nghiên cứu quy luật của sự
thích ứng tâm lý , theo ông thì đó là chọn lọc tự nhiên.
J. Watson (1878-1958), mét nhà tâm lý học hành vi đã cho rằng đứng ở góc
độ thích ứng, cuộc sống của con người là tổng hợp nhiều hành vi khác nhau nhằm
mục đích giúp họ thích nghi được với môi trường sống.
S. Freud (1856-1939), người đại diện cho thuyết Phân tâm học, thì cho rằng
khả năng thích ứng với cuộc sống cá nhân chỉ thể hiện được khi “Cái tôi” có thể
điều hòa được mâu thuẫn giữa cái trung tính và cái “Siêu tôi” .
E.A. Ecmoleava lại chú ý tới thích ứng như là quá trình thích nghi của con
người bắt đầu lao động với các đặc điểm và điều kiện lao động trong mét tập thể
nhất định.
Với nhà tâm lý học A.I. Secbacop và A.V. Mudric thì thích ứng lại được hiểu
là quá trình thích nghi với điều kiện thực tế của hoạt động thể hiện khi con người
mới tham gia họat động trong lĩnh vực nhất định.
Nhìn chung, các tác giả đều chú ý tới bản chất của vấn đề thích ứng và các
lọai hình thích ứng trong thực tiễn. Họ tìm hiểu mối quan hệ giữa con người với
những yếu tố của hoàn cảnh sống cụ thể.
Ở Việt Nam, thích ứng cũng đã được xem xét từ lâu dưới những góc độ khác
nhau. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam, nhiều công trình là các luận văn sau
đại học và nghiên cứu chủ yếu trên bình diện thực tiễn. Có thể kể ra mét sè công
trình tiêu biểu:
“ Bước đầu tìm hiểu sự thích ứng trường đại học của sinh viên khoa Tâm lý-
Giáo dục” năm 1982 Của Nguyễn Thị Trang.
“Thích ứng học tập của sinh viên” Năm 1983 của Hoàng Trần Doãn.

“Tìm hiểu sự thích ứng với đời sống tập thể” của Lã Văn Mến, năm 1987.

“Nguyên cứu sự thích ứng với hoạt động thực tập sư phạm của sinh viên
trường đại học sư phạm Hồng Đức- Thanh Hóa” của Dương Thị Thoan, luận văn
tạc sỹ năm 2001.
“Nghiên cứu sự thích ứng với việc gieo trồng giống lúa mới” của Đặng Thị
Vân. Luận văn thạc sỹ năm 2002.
Điểm qua mét sè công trình trên, ta thấy các tác giả tập trung nghiên cứu về
sự thích ứng nghề nghiệp và chủ yếu ở sinh viên sư phạm. Ngoài các luận án tiến
sĩ, luận văn thạc sĩ và mét sè bài báo thì hình như chưa có một công trình khoa học
nào đi sâu nghiên cứu lý luận về thích ứng ở góc độ cũa Tâm lý học. Với một lực
lượng nghiên cứu về thích ứng quá mỏng và số lượng các công trình rất Ýt này thì
nghiên cứu sự thích ứng với họat động nghiên cứu khoa học của sinh viên là một
việc làm cần thiết và góp phần làm sáng tỏ thêm về thích ứng mà ngày nay nã vẫn
còn là một vấn đề Ýt được khám phá.
Điểm qua mét sè công trình nghiên cứu về thích ứng trên, chúng ta có thể
nói rằng thích ứng là một vấn đề quan trọng đối với cuộc sống của mỗi người và
đối với xã hội. Thích ứng đã được đề cập đến từ lâu trong lịch sử của nhiều ngành
khoa học khác nhau. Trong Tâm lý học, thích ứng được xem xét, nghiên cứu chủ
yếu ở hai góc độ chính: Nghiên cứu về bản chất của thích ứng và nghiên cứu về
các hình thức thích ứng cụ thể với các họat động khác nhau trong thực tiễn cuộc
sống. Mặc dù thích ứng đã được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực, song đến nay nã
vẫn còn là một vấn đề có nhiều phức tạp, vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau về thích ứng. Khái niệm thích ứng vẫn được hiểu là đồng nghĩa với khái niệm
thích nghi trong nhiều trường hợp, đôi khi còn được hiểu là sự thích nghi sinh học.
Với Tâm lý học, thích ứng vẫn còn là một vấn đề mới mẻ, Ýt được quan tâm
nghiên cứu.
2. LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG TRONG TÂM LÝ HỌC.
2. 1 Khái niệm về thích ứng.

Như trên đã nói, hiện nay thích ứng vẫn đang còn là mét trong những vấn đề
mới mẻ và có nhiều phức tạp trong Tâm lý học. Khái niệm thích ứng được hiểu với

nhiều góc độ khác nhau, có nhiều quan điểm khác nhau. Ở đây, khái niệm thích
ứng chỉ được bàn đến chủ yếu ở góc độ tâm lý học và trong phạm vi thích ứng với
hoạt động nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, để làm rõ vấn đề, cần làm sáng tỏ thêm
mét sè khái niệm cơ bản của thích ứng ở góc độ Tâm lý học, cần phân biệt sự khác
nhau cơ bản giữa hai khái niệm thích ứng và thích nghi:
1. Theo quan điểm truyền thống của xã hội thì thích ứng được xem như là
một khả năng tự nhiên của con người giúp cho họ có thể họat động đạt kết quả tốt
trong mét lĩnh vực hoạt động nhất định, trong mét điều kiện sống nhất định. Khả
năng này là cấu trúc những đặc điểm tâm sinh lý có sẵn, mang tính tương đối ổn
định ở mỗi cá nhân khác nhau. Đó là những đặc điểm thuận lợi cho họat động sống
của cá nhân trong những hoàn cảnh nhất định. Trước một cá nhân có sẵn những
đặc điểm thuận lợi cho cuộc sống thì người ta thường nói “Thằng này vứt bụi tre
còng sống!”. Đó là lời nhận xét cho mét đứa trẻ xem ra họ có những đặc điểm tâm
sinh lý thuận lợi, có khả năng thích ứng cao với điều kiện cuộc sống vật chất cũng
như xã hội hiện tại. Như vậy, theo quan điểm truyền thống thì thích ứng là những
đặc điểm tâm sinh lý riêng sẵn có của cá thể, nó có được hình thành một cách tự
nhiên, không cần học tập, rèn luyện. Việc học tập và rèn luyện trong môi trường cụ
thể sẽ có tác dụng củng cố, phát triển những khả năng vốn có của cá nhân.
chúng ta dễ nhận thấy quan niệm như vậy thì thích ứng gần nghĩa với tư
chất. Thực tế thì tư chất và năng lực, khả năng hoạt động có mối quan hệ nhất định
với nhau, nhưng tư chất không phải là cái quyết định năng lực. Người có tư chất tốt
chưa hẳn sẽ hình thành năng lực tốt nếu không được học tập, rèn luyện đúng
phương pháp. Ngược lại, người có năng lực phát triển tốt chưa hẳn là người vốn có
tư chất tốt. Chính vì vậy, trong thực tế, có cá nhân sinh ra đã được mang sẵn những
đặc điểm thuận lợi cho họat động nhưng nó vẫn bị thui chét do sù rèn luyện sai
phương pháp. Ngược lại, trong cuộc sống, trong họat động, nhiều cá

nhân hình thành được, nảy sinh được những đặc điểm thuận lợi mà khi sinh
ra vốn không có sẵn những yếu tố tư chất cần thiết.
Tóm lại, những người theo quan điểm này đã phủ nhận tính tích cực hoạt

động của con người trong quá trình thích ứng. Họ mới chỉ thấy ảnh hưởng của yếu
tố sinh học đến con người, chưa thấy được vai trò của các yếu tố xã hội đối với sự
thích ứng của con người. Họ đã đề cao cơ sở sinh học mà lãng quên cơ sở xã hội
của con người vì vậy họ đã rơi vào quan niệm duy tâm khi xem xét về thích ứng
nên đã không giải quyết triệt để được vấn đề. Đây chưa phải là tri thức khoa học,
chưa phải là quan niệm khoa học về thích ứng.
2. Theo quan điểm của các nhà khoa học, các nhà tâm lý học thì thích ứng
mang nhiều khía cạnh, dáng vẻ khác nhau:
* Thuyết Tiến hóa thực chứng luận.
Đại biểu của học thuyết này có thể kể đến H. Spencer (1820-1903). Ông cho
rằng các khái niệm về tiến hóa sinh vật, các quy luật và cơ chế của sự thích nghi
sinh vật về mặt nguyên tắc cũng hoàn toàn đúng với con người. Ông đã không thấy
được mặt xã hội trong hoạt động, trong quá trình thích ứng của con người. Với con
người, ngoài sự tác động của môi trường tự nhiên giống với sinh vật, còn có môi
trường xã hội làm ảnh hưởng đến đời sống của họ. Điều này cũng đã được Spencer
lưu ý đến, nhưng ông cho rằng chính vì vậy mà cơ chế thích ứng ở con người có
phần phức tạp hơn. Ông cho rằng “ khi chuyển từ động vật lên người, cácquá
trình thích nghi – loài và cá thể – chỉ phức tạp thêm về mặt số lượng. ” [6, 52].
Nếu cho rằng thích ứng ở con người chỉ phức tạp hơn ở con vật về mặt số lượng thì
quả là một hạn chế lớn. Ông đã đánh đồng sự thích ứng của con người với con vật.
* Chủ nghĩa Hành vi:
Những người theo chủ nghĩa Hành vi, đại diện là J. Watson (1878-1958) cho
rằng cuộc sống của con người là tổng hợp nhiều hành vi khác nhau giúp họ thích
nghi với môi trường sống xung quanh. Họ cho rằng mối quan hệ giữa hành vi và
ngọai cảnh được thể hiện bằng công thức S > R. Khi có kích thích từ bên

ngoài tới(S) thì sẽ tạo ra hành vi tương ứng(R). Mối quan hệ giữa S và R là
mối quan hệ một chiều. Sự tác động của ngọai cảnh dần hình thành ở cá thể hệ
thống những hành vi tương ứng, phù hợp với môi trường. Đây là điều kiện đảm
bảo sự tồn tại của con người cũng như con vật. Theo Watson thì học tập, thích ứng

là quá trình hình thành phản xạ có điều kiện. Nó là hiện tượng sinh lý chứ không
phải hiện tượng tâm lý. “Theo J. Watson, việc học diễn ra bằng phương pháp điều
kiện hóa: nhờ lặp đi lặp lại phản ứng cơ bắp được gắn với các kích thích nhất
định, kìch thích này sau đó sẽ gây ra phản ứng. Ông cho rằng, các quy luật lĩnh
hội kinh nghiệm ở động vật và ở con người là như nhau, còn kinh nghiệm – sù
thích ứng sinh học bị tước mất ý nghĩa và nội dung tâm lý. ” [9,89].Ông chưa thấy
rõ bản chất tâm lý của thích ứng ở con người.
Mét nhà tâm lý học Hành vi người Mĩ là B.F. Skinner, người đã từng được
coi “là nhà tâm lý học Mĩ nổi tiếng nhất trên thế giới” [9,123]. Ông đã trực tiếp kế
thừa, phát triển quan điểm của Watson và đã đưa ra khái niệm Hành vi xã hội. Ông
cho rằng cái cơ bản trong hành vi xã hội của con người là sự thích nghi của cá thể
trên cơ sở các phản ứng để cân bằng với môi trường sống.
Theo Skinner thì: “Bằng cách thay đổi hoàn cảnh mà chúng tôi thay đổi
cách nhìn nhận sự vật của con người chứ chúng tôi không thay đổi cái gọi là nhận
biết. Chúng tôi thay đổi cường độ của trả lời bằng cách sử dụng các phản ứng
khác nhau chứ không thay đổi cái gọi là coi trọng điều này hơn điều kia. chúng tôi
thay đổi xác xuất các cử động bằng cách thay đổi các điều kiện thỏa mãn nhu cầu
hay làm mất đi các lích thích khó chịu chứ không thay đổi nhu cầu. Chúng tôi củng
cố hành vi bằng con đường đặc biệt chứ không gán cho con người ý định hay
phương hướng. Chúng tôi thay đổi hành vi bằng cách thay đổi phương hướng của
hành vi tới vật thể chứ không bằng lập trường đối với vật thể” [5,61]. Theo
Skinner thì ở động vật và cả ở người đều có 3 dạng hành vi: hành vi không điều
kiện, hành vi có điều kiện và hành vi tạo tác gắn với tên tuổi những người phát
hiện ra chóng: I. Pavlov và B. F. Skinner [9,127]. Mặc dù Skinner đã kế thừa và
phát triển quan niệm của của nhà tâm lý học hành vi là

Watson, nhưng ông và các nhà Hành vi học vẫn có sai lầm là đã đánh đồng
con người với con vật trong quá trình hình thành hành vi, kinh nghiệm sống. Với
quan niệm của Tâm lý học hành vi thì sự thích ứng được hiểu là sù quy định một
chiều từ hoàn cảnh sống tới cá thể. Người có khả năng thích ứng là người có được

những hành vi cần thiết giúp họ có được những phản ứng trả lời hợp lý những kích
thích từ bên ngòai. Nếu hiểu như vậy thì sự thích ứng của con người là một hiện
tượng thay đổi thụ động, thiếu tính tích cực. Về bản chất, thuyết Hành vi xã hội của
Skinner còng không khác thuyết hành vi cổ điển. Quan niện này của Skinner không
hoàn toàn đúng với thực tiễn, không phù hợp với quan điểm tâm lý học hiện đại.
* Quan niệm của Phân tâm học:
Người sáng lập ra thuyết Phân tâm học là một bác sỹ người Áo, Sigmund
Freud (1859-1939). Ông cho rằng toàn bộ họat động sống của con người được quy
định bởi ba yếu tố cơ bản: Vô thức, tiền ý thức và ý thức. Trong 3 yếu tố này thì vô
thức giữ vai trò quan trọng nhất. Trong vô thức thì chủ yếu là bản năng tình dục.
Đây là nguồn gốc tạo ra những năng lượng điều khiển, điều chỉnh hành động của
con người. Ông cho rằng “ Về nguồn gốc, mọi hành vi phải được bắt đầu từ vô
thức. ” [9,247]. Nã tạo ra mối tương quan giữa ý thức và vô thức, tạo ra sù điều
hòa giữa cái vô thức và ý thức - đó chính là sự thích ứng. “. . . mối tương quan
giữa ý thức và vô thức, mối tương quan vốn đặc trưng cho nhân cách. Cái
“libiđo” do Freud tách ra không những chỉ là một nguồn gốc có tính chất năng
lượng sinh vật của tính tích cực họat động, mà còn là một cấp độ đặc biệt trong
nhân cách - cấp “nó”, đối lập với cấp “tôi” và cấp “siêu tôi”. ” [6,249]
Tóm lại: Phân tâm học coi con người thực chất là “con người bản năng”
luôn độc lập với môi trường xung quanh. Như vậy khả năng thích ứng với cuộc
sống của cá nhân được thể hiện khi họ biết kìm nén, chế ngự các bản năng vô thức
luôn bùng phát, luôn đòi hỏi được thỏa mãn. Phân tâm học đã quá đề cao

Khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa học là những khái niệm được sử
dụng khá phổ biến trong cuộc sống, trong các nhà trường đặc biệt là trong các
trường chuyên nghiệp ngày nay. Tuy nhiên để cho việc xem xét vấn đề một cách
Phương pháp trưng cầu ý kiến là phương pháp chủ yếu để tìm hiểu về thực
trạng thích ứng với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên, cụ thể là tìm
hiểu về các mặt của thích ứng: Mặt nhận thức, mặt thái độ và mặt kỹ năng của sinh
viên, đồng thời cũng tìm hiểu những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thích

chọn. Số giảng viên này cùng ngồi nghe giảng với sinh viên trong quá trình
giảng viên Tâm lý học lên lớp phần lý thuyết chuyên đề Phương pháp nghiên cứu
khoa học giáo dục và hướng dẫn sinh viên làm bài tập nghiên cứu khoa học giáo
dục cuối khoá. Việc giảng viên cùng sinh viên nghe báo cáo như vậy để đảm bảo
sự
: K là điểm kỹ năng.
Điểm thích ứng (Q) cũng được chia thành ba mức : “TỐT” , “TRUNG
BÌNH” và “YẾU”. với các điểm số được tính tương tự như các mức đã tính ở trên
với mặt nhận thức, thái độ và kỹ năng.
Điểm bài làm của sinh viên cũng được coi là kết quả của sự thích ứng. Điểm
thích ứng và điểm bài làm của sinh viên được xem xét trong mối tương quan với
nhau theo công thức hệ số tương quan của Spearson để xác định mối
Thứ sáu : - Lựa chọn vấn đề nghiên cứu.
- Lựa chọn các phương pháp nghiên cứu.
- Vận dụng các phương pháp nghiên cứu.
Thứ bảy (thấp nhất): Viết kết quả nghiên cứu (Bài viết hoàn chỉnh)
Như vậy, nếu tính theo thứ tự những công việc cần thực hiện thì càng những
công việc về sau, sinh viên càng khó nhận thức hơn. Mức độ khó của công việc đã
tăng dần theo thứ tự và thời gian. Điểm trung bình cho phần nhận thức của tất cả
sinh viên là 2.0, đạt mức trung bình. Ta thấy sinh viên tỏ ra khó hiểu những công
việc có liên quan đến thực tiễn hơn những công việc mang tính lý luận. Điều này
cho thấy sinh viên chỉ được tiếp xúc với lý thuyết nhiều nhưng vẫn lại xa rời với
thực tiễn cuộc sống và hoạt động.
Tóm lại sinh viên có khả năng nhận thức tương đối tốt về các công việc cụ
thể của quá trình làm bài tập nghiên cứu khoa học cuối khoá. Việc nhận thức của
sinh viên về các công việc này có chịu ảnh hưởng bởi hoạt động dạy học các môn
học, bởi sù quan tâm của các các bộ giảng dạy bộ môn ở nhà trường sư phạm.
2 . Thái độ đối với hoạt động nghiên cứu khoa học
của sinh viên.
Thái độ của sinh viên đối với hoạt động nghiên cứu khoa học cũng là một

tiêu chuẩn để đánh giá khả năng thích ứng của các em. Để tìm hiểu thái độ của sinh
viên, chúng tôi dưa ra 7 nội dung là 7 công việc cụ thể trong quá trình học tập, sinh
hoạt và cuộc sống hàng ngày có liên quan chặt với các công việc cụ thể của hoạt
động làm bài tập nghiên cứu khoa học cuối khoá của các em. Những nội dung này
trong phiếu trưng cầu ý kiến được xác định 3 mức độ thực hiện khác nhau để sinh
viện tự chọn 1 trong 3 mức độ đó là mức độ có thực hiện thường xuyên, đôi khi có
thực hiện hoặc chưa bao giờ thực hiện.

Bảng 2 : Thái độ của sinh viên đối với hoạt động NCKH :
nghiên cứu bởi họ chưa thể khảng định chắc chắn rằng vấn đề mình sẽ chọn
có thể nghiên cứu được hay không, dễ hay khó. Những sinh viên này chủ yếu rơi
Kết quả điều tra được theo trong bảng 3b, có 4.12% tổng số sinh viên gặp
khó khăn trong việc thu thập tri thức lý luận có liên quan, nhưng lại có tới 48.45%
sè sinh viên gặp khó khăn trong việc tìm hiểu thực tiễn. Như vậy, sinh
tra thì lực lượng sinh viên tham gia hoạt động này đông đảo nhất là sinh viên năm
thứ 3 nhưng cũng chỉ có 30.25% tổng số sinh viên năm thứ 3 tham gia. Những bài
báo này cũng được lựa chọn để đăng trên bảng tin của trường nhưng việc tham gia
viết bài này chỉ được coi như trách nhiệm của sinh viên và được tính vào điểm thi
đua của các lớp, các chi đoàn chứ nhà trường vẫn chưa có những hình thức khuyến
khích một cách thích hợp.
Việc tổ chức cho sinh viên học tập chuyên đề Phương pháp nghiên cứu
khoa học chưa được chú ý quan tâm nhiều. Thời gian học được tiến hành trong thời
gian chuẩn bị cho công tác thực tập của sinh viên. Điều này khiến mọi người hiểu
đây là một nhiệm vụ trong các nhiệm vụ của thực tập sư phạm mà nhiệm vụ thực
tập lại được hiểu chủ yếu là hoạt động giảng dạy chuyên môn. Trong khi hướng
dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ liên môn thì nhà trường vẫn giao
cho giáo viên Tâm lý - Giáo dục độc lập đảm nhiệm. Khi nghe giảng, sinh viên tập
trung học trên hội trường với số lượng rất đông. Có tới 42.96% tổng số sinh viên
cho rằng tổ chức như vậy làm hạn chế nhiều đến sự thích ứng của họ, là rất khó
cho việc học tập của sinh viên. Học như vậy dẫn đến tình trạng sinh viên hái ý kiến

của các thầy, các cô cũng gặp nhiều trở ngại do không đúng chuyên môn, không
đúng trách nhiệm.
* Việc dạy học của giảng viên nhà trường nói chung ở nhiều phân môn kể cả
chuyên đề Phương pháp nghiên cứu khoa học vẫn theo phương pháp thầy
chưa thật sự chú ý đến tình hình thực tế của sinh viên, cho thấy sự chưa
đồng bộ trong tổ chức và hướng dẫn sinh viên thực hiện đề tài nghiên cứu. Sinh
viên được quan tâm, nhắc nhở nhiều về thái dộ, về tri thức nhưng lại Ýt có điều
kiện để được thực hành, để tiếp xúc với thực tế cuộc sống. Trong việc đào tạo
ngành nghề ngày nay, điều kiện thực hành của sinh viên ở trường sư phạm vẫn còn
nhiều hạn chế. Mặc dù trường Cao đẳng sư phạm cũng đã có trường thực hành sư
phạm nhưng nó lại vẫn nằm ngoài mối quan hệ cần thiết với nhà trường, với sinh
viên.
Khả năng thích ứng của sinh viên với hoạt động nghiên cứu khoa học phụ
thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau trong đó có những yếu
tố thuộc phạm vi hoạt động của trường, có những yếu tố thuộc khả năng, thái độ và
nhận thức của đội ngũ cán bộ giảng dạy của nhà trường. Điều kiện học tập và




Kết luận

1. Kết luận.
Tõ việc phân tích kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn trên, có thể rút ra
mét sè kết luận sau:
1. Sù thích ứng với hoạt động nghiên cứu khoa học nói chung và sự thích
ứng với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên cao đẳng sư phạm nói riêng
có mét ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả lao động, với giảng dạy và học tập,
nhưng nó lại là một vấn đề còn rất Ýt được quan tâm, nghiên cứu.
Nhờ vậy mà hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên đuợc định

hướng, điều khiển và điều chỉnh bởi chính ý thức tự giác của họ.
2. Thực trạng sự thích ứng với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh
viên trường Cao đẳng sư phạm Bạc Liêu là ở mức trung bình-khá. Trong đó nhận
thức và thái độ đối với hoạt động nghiên cứu khoa học tương đối tốt, kỹ năng còn
yếu. Cụ thể là:
Về nhận thức: Hầu hết mọi sinh viên đều có khả năng nhận thức được các
công việc cụ thể của hoạt động nghiên cứu khoa học trong đó có nhiều người nhận
thức một cách chắc chắn. Chỉ có mét sè Ýt sinh viên chưa nhận thức được những
công việc này.
- Giảng viên thiếu khả năng nghiệp vụ.
- Sinh viên chưa thấy rõ vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học.
- Nhà trường tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học cho sinh viên chưa
thật hợp lý.
- Điều kiện học tập và đời sống của sinh viên còn khó khăn.
- Giảng viên thiếu nhiệt tình.
- Nhà trường Ýt tạo điều kiện, Ýt quan tâm tới công tác nghiên cứu khoa
học của sinh viên.
- Giảng viên chưa yêu cầu cao với sinh viên.
Với những kết quả nghiên cứu trên về thực trạng thích ứng của sinh viên với
hoạt động nghiên cứu khoa học, chúng tôi mạnh dạn đưa ra mét sè ý kiến đề xuất
sau nhằm đáp ứng tốt cho việc học tập và nghiên cứu của sinh viên, cho nhu cầu
đào tạo của nhà trường cũng như những đòi hỏi của xã hội đối với đội ngũ giáo
viên giảng dạy ở phổ thông ngày nay:
a) Nhà trường cần gắn hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên vào các
môn học, vào các hoạt động giảng dạy hàng ngày của trường, của giảng viên. Việc
nghiên cứu khoa học phải là hoạt động thường xuyên của cả thầy và trò trong
trường. Sinh viên cần sớm được hợp tác với các giảng viên nhà trường
đến chất lượng của công việc. Đây là một chuyên đề độc lập nên nó phải được học
tập và tính điểm như mọi chuyên đề khác chứ không nên tính chung vào điểm thực
tập sư phạm.

e) Nhà trường cần bố trí thời gian và hoạt động hợp lý cho sinh viên tập làm
quen với những công việc cụ thể của hoạt động nghiên cứu khoa học có sự kết hợp
giữa yêu cầu của chương trình đã quy định với tình hình thực tế của trường, của địa
phương.
g) Nhà trường phải đặc biệt coi trọng và quan tâm đến công tác nghiên cứu
khoa học của đội ngũ cán bộ, giảng viên nhà trường. Đây phải là mét trong những
hoạt động trọng tâm của trường, nó không chỉ thể hiện trình độ chuyên




Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bernhard Muszynski. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Tài
liệu dùng cho học viên cao học. ĐHSP Hà Nội - 2003
2. Phạm Hoàng Gia . Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục.Nhà
xuất bản giáo dục - 1972.
3. Golomoste A.E. Quan niệm giáo dục và lý thuyết về sự thích hợp
nghề nghiệp. N.X.B. Giáo dục, 1970.
4. Vò Cao Đàm . Phương pháp nghiên cứu khoa học. N. X. B Khoa học
và Thống kê , 1996


Phiếu trưng cầu ý kiến
(Dùng cho sinh viên)


Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác hướng dẫn sinh viên nghiên cứu
khoa học (làm bài tập nghiên cứu khoa học giáo dục cuối khóa) và nâng cao hiệu
Các công việc Thường
xuyên

Đôi
khi
Chưa
bao giờ
1. Ghi chép bài đầy đủ khi nghe giảng về phươngpháp
nghiên cứu khoa học

2. Hăng hái xây dựng bài trong học về phương pháp nghiên
cứu khoa học

3. Đọc và thu thập các tài liệu khoa học
4. Tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường
5. Viết bài báo khoa học cho báo trường


Nguyên nhân
Hạn chế
nhiều
Hạn chế
Ýt
Không
hạn chế
1. Sinh viên chưa có kỹ năng và hiểu biết cần thiết
2. SVÝt được bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên
3. Giáo viên chưa yêu cầu cao với sinh viên
4. Giáo viên thiếu khả năng nghiệp vụ.
4. Xây dựng đề cươmg nghiên cứu
5. Lựa chọn các phương pháp nghiên cứu
6. Thu thập các kiến thức liên quan
7. Thu thập thông tin thực tiễn

8. Vận dụng các phương pháp nghiên cứu
9. Xử lý và trình bày thông tin
10. Viết phần lý luận của vấn đề nghiên cứu

×