Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

hoàn thiện hoạt động kiểm toán nội bộ ngân hàng nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.54 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


TRẦN THỊ NGỌC TÚ




HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60 34 05



LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.TRỊNH THỊ HOA MAI







Hà Nội – 2008


MỤC LỤC


DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT


DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
Trang


LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN
VÀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
5
1.1.

Những vấn đề cơ bản về Kiểm toán 5
1.1.1.

Khái niệm về kiểm toán
5
1.1.2.

Chức năng của kiểm toán
7
1.1.3.


Phân loại kiểm toán
9
1.2.

Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương 16
1.2.1.

Khái niệm kiểm toán nội bộ NHTW
16
1.2.2.

Vai trò của kiểm toán nội bộ NHTW
17
1.2.3.

Nguyên tắc hoạt động
19
1.2.4.

Quy trình kiểm toán nội bộ NHTW
20
1.2.5.

Nội dung kiểm toán nội bộ NHTW
25
1.3.

Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương một số nước và kinh
nghiệm cho Việt Nam
28

1.3.1.

Kiểm toán nội bộ NHTW một số nước
28
1.3.2.

Một số kinh nghiệm đối với Việt Nam
35
CHƯƠNG 2

HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
38
2.1.

Tổng quan về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 38
2.1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển
38
2.1.2.

Chức năng, nhiệm vụ cơ bản
40
2.2.

Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ NHNN Việt Nam 42
2.2.1

Quá trình phát triển hoạt động Kiểm toán nội bộ NHNN Việt

Nam
42
2.2.2.

Nội dung kiểm toán nội bộ NHNN Việt Nam thời gian qua
56
2.3.

Đánh giá chung 68
2.3.1.

Những kết quả đạt được
68
2.3.2.

Những hạn chế và nguyên nhân
71
CHƯƠNG 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT
ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
79
3.1.

Định hướng hoàn thiện hoạt động kiểm toán nội bộ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam
79
3.1.1.


Nâng cao nhận thức về kiểm toán nội bộ NHTW
79
3.1.2.

Xây dựng môi trường kiểm soát lành mạnh, bộ máy kiểm toán
nội bộ có hiệu quả
80
3.1.3.

Kiểm toán của NHTW phải toàn diện và có trọng điểm
80
3.1.4.

Nghiên cứu và vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm kiểm toán nội
bộ của NHTW các nước
81
3.2.

Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động kiểm toán nội bộ Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam
81
3.2.1.

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN Việt Nam
81
3.2.2.

Đổi mới phương pháp lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán
84
3.2.3.


Hoàn thiện nội dung và phương pháp kiểm toán tuân thủ, kiểm
toán hoạt động
86
3.2.4.

Nâng cao trình độ chuyên môn và phẩm chất nghề nghiệp của
đội ngũ kiểm toán viên
88
3.2.5.

Tiếp tục hoàn thiện Quy chế kiểm soát viên
90
3.2.6.

Mở rộng quan hệ hợp tác trong lĩnh vực kiểm toán nội bộ
93
3.3.

Một số kiến nghị 94
3.3.1.

Kiến nghị với Quốc hội
94
3.3.2.

Kiến nghị với Kiểm toán Nhà nước
95
3.3.3.


Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
95

KẾT LUẬN
97

TÀI LIỆU THAM KHẢO





DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

ADB
Ngân hàng phát triển Châu Á
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
KTNN
Kiểm toán Nhà nước
KTNB
Kiểm toán nội bộ
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTW
Ngân hàng Trung ương
NXB
Nhà xuất bản

TCTD
Tổ chức tín dụng
XDCB
Xây dựng cơ bản










DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU

Thứ tự Tên sơ đồ và bảng biểu Trang
Sơ đồ 2.1

Cơ cấu tổ chức Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
45
Sơ đồ 2.2
Quy trình kiểm toán nội bộ NHNN VN
52
Sơ đồ 3.1
Mô hình đánh giá rủi ro do Vụ Kiểm toán nội bộ sử
dụng khi lập kế hoạch kiểm toán
85
Biểu 2.1

Kết quả thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính từ năm
2003 đến quý II/2008
56
Biểu 2.2
Số lượng các đơn vị áp dụng sai tỷ lệ trích khấu hao từ
năm 2003 đến quý II/2008
57
Biều 2.3
Số lượng các đơn vị mua sắm tài sản sai quy trình từ
năm 2003 đến quý II/2008
58
Biểu 2.4
Kết quả thực hiện kiểm toán xây dựng cơ bản từ năm
2003 đến quý II/2008
59
Biểu 2.5
Kết quả thực hiện kiểm toán tuân thủ và hoạt động từ
năm 2003 đến quý II/2008
61
Biểu 2.6
Kết quả thực hiện kiểm toán tin học từ năm 2003 đến
quý II/2008
63
Biểu 2.7
Kết quả thực hiện kiểm toán kho quỹ từ năm 2003 đến
quý II/2008
66
Biểu 2.8
Số lượng các đơn vị chưa thực hiện nghiêm túc các quy
định an toàn kho quỹ từ năm 2003 đến quý II/2008

67
Biểu 2.9
Số lượng các đơn vị có hệ thống thiết bị kho tiền chưa
đảm bảo quy định từ năm 2003 đến quý II/2008
67



1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong gần 20 năm đổi mới, từ khi chuyển đổi cơ chế hoạt động từ 1 cấp
sang 2 cấp, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh
mẽ góp phần đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, duy trì sự ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tạo môi trường thuậ
n lợi cho hoạt
động kinh doanh và đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đưa kinh tế Việt
Nam phát triển, hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới.
Với vai trò là NHTW, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát
hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền
tệ cho Chính phủ; hoạch định các cơ
chế chính sách quản lý kinh tế vĩ mô
trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; tổ chức
thực hiện và thực thi chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền trong nước,
kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ. Hoạt
động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mang tính đặc thù, vừa thực hiện
chức năng quản lý của Bộ chuyên ngành v
ừa thực hiện các hoạt động có tính
chất kinh doanh được sử dụng như là phương tiện nâng cao hiệu lực quản lý.

Để đảm bảo cho hoạt động của NHNN đúng định hướng, an toàn và
hiệu quả, phát huy mạnh mẽ vai trò quản lý Nhà nước và hiệu quả công tác
quản trị điều hành, một trong những điều kiện quan trọng là tổ chức tốt hoạt
động kiểm soát và kiểm toán n
ội bộ đối với toàn hệ thống từ Trung ương đến
các chi nhánh và đơn vị trực thuộc. Qua hơn 17 năm hoạt động, công tác kiểm
soát, kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đóng góp tích
cực vào việc đảm bảo an toàn tài sản của Nhà nước, đảm bảo hoạt động của
NHNN Việt Nam đúng quy định pháp luật. Bên cạnh những mặt tích cực còn
một số t
ồn tại về nội dung, phương pháp kiểm toán nội bộ; về xây dựng các
2
cơ chế, chế độ nghiệp vụ làm cho hoạt động kiểm toán nội bộ của NHNN Việt
Nam chưa phát huy được hết chức năng và vai trò của mình.
Với mong muốn góp phần tìm ra các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện,
đổi mới hoạt động Kiểm toán nội bộ của NHNN Việt Nam nhằm đáp ứng yêu
cầu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế tôi đã ch
ọn đề tài “Hoàn thiện
hoạt động Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” cho Luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về kiểm toán, kiểm soát nội bộ Ngân hàng Trung ương là
một vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với các cán bộ làm công tác kiểm toán
nội bộ cũng như cho hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ của Ngân hàng
Nhà nước Vi
ệt Nam vì vậy đã có một số tác giả nghiên cứu về vấn đề này
như:
“Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam”, luận văn thạc sỹ - Đào Quốc Tính, Học viện Ngân
hàng, năm 2004;

“Giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát nội bộ trong các nghiệp vụ chủ
yếu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”, luận văn thạc sỹ
- Vũ Anh Tuấn,
Học viện Ngân hàng, năm 2006.
Các đề tài này đã phản ánh được một phần thực trạng của hoạt động
kiểm toán, kiểm soát nội bộ NHTW và đưa ra được một số giải pháp nâng cao
hiệu quả cho hoạt động kiểm toán nội bộ NHNN Việt Nam trong những năm
qua.
Tuy nhiên, những thay đổi trong môi trường quản lý do tác động của
hội nhập kinh tế quốc tế
đã đặt ra những yêu cầu mới cho công tác quản trị
điều hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói chung và hoạt động kiểm
toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói riêng. Vì thế, hoạt động kiểm
3
toán nội bộ NHNN cần phải được tiếp tục nghiên cứu nhằm đề ra những giải
pháp phù hợp, nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN trong giai đoạn tới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là phân tích thực trạng của hoạt động kiểm toán
nội bộ NHNN Việt Nam trong những năm qua, nhìn nhận những điểm mạnh,
những tồn tạ
i hạn chế để qua đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt
động kiểm toán nội bộ NHNN trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện mục tiêu trên, tác giả luận văn đã đề ra nhiệm vụ nghiên
cứu của luận văn là:
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về kiểm toán, kiểm toán nội bộ
NHTW và yêu cầu t
ất yếu của hoạt động kiểm toán nội bộ NHTW. Nghiên
cứu kinh nghiệm hoạt động KTNB của NHTW các nước.
- Phân tích đánh giá hoạt động kiểm toán nội bộ của Vụ Tổng kiểm soát
NHNN Việt Nam trong thời qua. Đặc biệt chú trọng phân tích những tồn tại

trong hoạt động để tìm ra những giải pháp hoàn thiện hoạt động kiểm toán nội
bộ của hệ thống NHNNVN, góp phần nâng cao hiệu qu
ả hoạt động, đáp ứng
yêu cầu hội nhập trong giai đoạn mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kiểm toán nội bộ của NHTW
- Phạm vi:
+ Không gian: Hoạt động KTNB Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Thực tiễn hoạt động KTNB ở NHTW một số nước
+ Thời gian: từ năm 2003 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tư duy biện chứ
ng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và đánh giá;
4
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tạp chí và báo cáo khoa học trong
ngành, tác phẩm khoa học, tài liệu lưu trữ…
- Phương pháp xử lý thông tin: bảng số liệu, đồ thị…
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn
- Làm rõ vai trò kiểm toán nội bộ - một công cụ hỗ trợ đắc lực cho công
tác quản trị điều hành hoạt động của NHNN Việt Nam - bảo đảm cho mọi chủ
trương chính sách, chế
độ của Nhà nước và của Ngành được triển khai thực
hiện đầy đủ, an toàn và hiệu quả trong điều kiện hội nhập kinh tế nói chung,
hội nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng.
- Đề xuất các giải pháp đổi mới và tăng cường hiệu quả hoạt động
kiểm toán nội bộ của NHNN Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung cơ
bản của luận văn được chia thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động kiểm toán và kiểm
toán nội bộ Ngân hàng Trung ương.
Chương 2: Hoạt động Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam trong những năm qua.
Chương 3: Định hướng và một s
ố giải pháp hoàn thiện hoạt động
Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn tới.







5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN VÀ
KIỂM TOÁN NỘI BỘ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

1.1. Những vấn đề cơ bản về kiểm toán
1.1.1. Khái niệm về kiểm toán
Kiểm toán có gốc từ Latinh “Audit”, nguyên bản Auditing gắn liền với
nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại. Từ “Audit” có nguồn gốc từ động từ
Latinh “Audire” nghĩa là “nghe”. Hình ảnh ban đầu của kiể
m toán cổ điển là
việc kiểm tra được thực hiện bằng cách người soạn thảo báo cáo đọc to lên
cho một bên độc lập nghe rồi chấp nhận. Kiểm toán dần hình thành và gắn
liền với quá trình phát triển của kế toán.
Ở nước ta, thuật ngữ kiểm toán thực sự mới xuất hiện và được sử dụng
từ hơn chục năm cuối thế kỷ XX. Tuy nhiên, cho đế

n nay, vẫn còn nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm kiểm toán.
Theo quan điểm thứ nhất, kiểm toán được hiểu theo đúng thời cuộc của
nó, phát sinh cùng với cơ chế thị trường. Theo quan niệm này thì Kiểm toán
là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của
một công ty do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công
việc
đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan.
Kiểm toán cũng có thể được hiểu là một quá trình mà qua đó một
người độc lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về thông tin có thể
lượng hóa có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích xác
định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hóa với những
tiêu chuẩn đã được thiế
t lập.
Ngoài ra, Kiểm toán còn được xem là việc nghiên cứu và kiểm tra các
tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là
6
kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh
đúng đắn tình hình tài chính thực tế, không che dấu sự gian lận và được trình
bày theo mẫu chính thức của luật định.
Các khái niệm nêu trên tuy có khác nhau về từ ngữ, song đều bao hàm
5 yếu tố cơ bản, đó là: Chức năng của kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến;
Đối tượng trực tiếp của kiểm toán là các báo cáo tài chính; Khách thể kiểm
toán đượ
c xác định là thực thể kinh tế hay một tổ chức; Chủ thể (người thực
hiện) kiểm toán là những kiểm toán viên độc lập có nghiệp vụ và Cơ sở thực
hiện kiểm toán là những luật định, tiêu chuẩn hay chuẩn mực chung.

Theo quan điểm thứ hai, kiểm toán lại được đồng nhất với khái niệm
kiểm soát. Theo quan điểm này, kiểm soát được thực hiện đối với các đơn vị

hành chính sự nghiệp, còn kiểm toán được thực hiện với các đơn vị sản xuất
kinh doanh. Nhưng phạm vi kiểm toán ở đây đã được mở rộng hơn, nó liên
quan đến cả lĩnh vực tài chính và lĩnh vự
c phi tài chính. Chủ thể thực hiện
kiểm toán có thể là kiểm toán viên độc lập và cũng có thể là những cán bộ
thuộc chính đơn vị được kiểm toán.
Theo xu hướng phát triển, quan điểm hiện đại về kiểm toán cho rằng
kiểm toán không chỉ giới hạn ở kiểm toán báo cáo tài chính hay tài liệu kế
toán mà còn thâm nhập vào nhiều lĩnh vực khác nhau như hiệu quả của hoạt
động kinh tế, hiệ
u năng của quản lý xã hội, hiệu lực của hệ thống pháp lý
trong từng hoạt động,…
Qua các quan điểm khác nhau về kiểm toán, ta có thể thấy quan điểm
đúng nhất về kiểm toán qua khái niệm sau: "Kiểm toán là một chức năng của
quản lý, là một quá trình các kiểm toán viên có thẩm quyền, những người
được đào tạo để có trình độ thích hợp tiến hành một cách độc lập việc thu
thập, xác minh, đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng liên quan
đến các hoạt động kinh tế - tài chính của một đơn vị và tổ chức kinh tế nhằm
7
xác định và báo cáo mức độ phù hợp của các thông tin số lượng đó với các
chuẩn mực về kinh tế, về tài chính và kế toán đã được thiết lập và được pháp
luật thừa nhận. Qua đó, kiểm toán còn đánh giá tính kinh tế, tính hiệu lực và
hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính cũng như hiệu năng quản lý của cá
nhân, tổ chức." [5,tr 24]
Theo khái niệm này thì kiểm toán được áp dụng
đối với cả các đơn vị
sản xuất kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp. Phạm vi của kiểm
toán cũng rất rộng, bao trùm cả lĩnh vực tài chính và phi tài chính vì nó đánh
giá tính kinh tế và tính hiệu quả hoạt động của một tổ chức hay một đơn vị.
Chủ thể thực hiện kiểm toán có thể là cả Kiểm toán viên độc lập và có thể cả

Kiểm toán viên nội bộ.
Trên cơ sở đồng tình với quan điểm trên về khái niệm kiểm toán và bản
thân khái niệm đó cũng rất phù hợp với thực tế của Việt Nam nên trong phạm
vi luận văn này, tác giả đề cập những vấn đề về kiểm toán theo khái niệm đó.
1.1.2. Chức năng của kiểm toán
Từ khái niệm của kiểm toán có thể thấy kiểm toán có chức năng cơ bản
là xác minh và bày tỏ ý kiến.
Chức năng xác minh: nhằm khẳng định mức độ trung thực của số liệu,
tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các Báo cáo tài
chính.
Xác minh là chức năng cơ bản nhất gắn liền với sự ra đời, tồn tại và
phát triển của hoạt động kiểm toán. Bản thân chức năng này không ngừng
phát triển và được thể hiện khác nhau tùy
đối tượng cụ thể của kiểm toán là
báo cáo tài chính hay nghiệp vụ kinh tế cụ thể hoặc toàn bộ tài liệu kế toán.
Đối với các báo cáo tài chính, việc thực hiện chức năng xác minh này trước
hết được thực hiện ở sự xác nhận của người kiểm toán độc lập ở bên ngoài.
Đối với các thông tin đã được lượng hóa, việc xác minh được thực hiện trước
8
hết thông qua hệ thống kiểm soát nội bộ. Kết quả cuối cùng khi đã xác minh
được điều chỉnh trực tiếp để có hệ thống thông tin tin cậy và lập các báo cáo
tài chính. Đối với kiểm toán các nghiệp vụ, cũng qua lịch sử phát triển lâu dài,
lúc đầu kiểm toán các nghiệp vụ giới hạn trong hoạt động tài chính dần được
mở rộng sang các lĩnh vực hiệu năng và hiệu quả ho
ạt động.
Chức năng bày tỏ ý kiến: có thể hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về
chất lượng thông tin và cả pháp lý, tư vấn xác minh. Nếu kết luận về chất
lượng thông tin có quá trình phát triển lâu dài từ chỗ chỉ có từ “xác nhận” đến
hình thành báo cáo kiểm toán theo chuẩn mực chung thì kết luận về pháp lý
hoặc tư vấn cũng có quá trình phát triển lâu dài. Trong quá trình đó, sản phẩm

cụ thể của bày tỏ ý kiến thấy rõ nhất là ở cuối thế kỷ XX. Tuy nhiên, cách
thức thực hiện chức năng bày tỏ ý kiến về trách nhiệm và tư vấn cũng rất khác
biệt giữa các khách thể kiểm toán và giữa các nước có cơ sở kinh tế và pháp
lý khác nhau.
Ở khu vực các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp hay các cơ
quan hưởng lương từ ngân sách đều đặt dướ
i sự kiểm soát của Kiểm toán Nhà
nước. Trong quan hệ này, chức năng xác minh và kết luận về chất lượng
thông tin của kiểm toán được thực hiện tương tự nhau. Tuy nhiên, chức năng
“bày tỏ ý kiến” về pháp lý và tư vấn kiểm toán lại rất khác nhau. Ở mức độ
cao của chức năng này là sự phán quyết như các quan tòa, ta có thể thấy thể
hiện rõ nhất ở các nước Tây Âu. Đối vớ
i nhiều nước ở khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương, chức năng “bày tỏ ý kiến” lại được thực hiện bằng phương
thức tư vấn. Chức năng tư vấn còn bao trùm cả việc phác thảo và xem xét
những dự kiến về luật trước khi đưa ra Quốc hội.
Ở khu vực kinh doanh, chức năng bày tỏ ý kiến cũng được thực hiện
qua phương thức tư vấ
n. Tuy nhiên, do khách thể chủ yếu là các doanh nghiệp
nên chức năng tư vấn chủ yếu được biểu hiện dưới hình thức các lời khuyên
9
hoặc các đề án. Do đó, trong trường hợp này, nếu sản phẩm của bày tỏ ý kiến
kết quả xác minh về độ tin cậy của thông tin là “Báo cáo kiểm toán” thì sản
phẩm của bày tỏ ý kiến dạng tư vấn là “Thư quản lý”.
Trong kiểm toán nội bộ, trước những năm 1960, phạm vi kiểm toán còn
giới hạn chủ yếu trong lĩnh vực kế toán – tài vụ. Khoảng 3 thập niên gần đ
ây,
kiểm toán nội bộ đi sâu vào các lĩnh vực hiệu năng và hiệu quả của hoạt động.
Từ đó chức năng tư vấn cho quản lý của kiểm toán có điều kiện phát huy đầy
đủ tác dụng trong thực tiễn.

1.1.3. Phân loại kiểm toán
Tùy theo các tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân ra nhiều loại
kiểm toán khác nhau:
1.1.3.1. Theo chủ thể thực hiện kiểm toán
a. Kiểm toán Nhà nước
Kiểm toán Nhà n
ước là hệ thống bộ máy chuyên môn của nhà nước thực
hiện các chức năng kiểm toán tài sản công. Ở thời kỳ trung đại, kiểm toán nhà
nước đã xuất hiện để đối soát tài sản của vua chúa. Qua quá trình phát triển
cho đến nay kiểm toán nhà nước ở các nước phát triển đều thực hiện chức
năng kiểm toán các đơn vị ở khu vực công cộng. Kiểm toán Nhà nước thường
tiến hành các cuộc ki
ểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính
sách, luật lệ và chế độ của Nhà nước tại các đơn vị có sử dụng vốn là kinh phí
của Nhà nước và kiểm toán hoạt động các đơn vị nói trên.

Ở Việt Nam, kiểm toán Nhà nước được thành lập theo Nghị định 70/CP
ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ để giúp Thủ tướng Chính phủ thực
hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số
liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự
nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước và đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội
sử d
ụng kinh phí do Ngân sách Nhà nước cấp. Kiểm toán Nhà nước thực hiện
10
kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách của các Tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương trước khi trình Hội đồng nhân dân và tổng quyết toán ngân sách
Nhà nước của Chính phủ trước khi trình lên Quốc hội. Kiểm toán nhà nước
cũng thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán của các Bộ, các cơ quan thuộc
Quốc hội, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các đơn vị sự nghiệp
công, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí Nhà

nướ
c; Báo cáo quyết toán của các chương trình, các dự án, các công trình đầu
tư của nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước.
Theo Luật Kiểm toán Nhà nước có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006, Kiểm
toán Nhà nước chính thức là một cơ quan của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công tối cao,
KTNN thực hiện 4 nhiệm vụ quan trọng:
Mộ
t là, KTNN phải báo cáo và tư vấn cho Quốc hội về những vấn đề có
liên quan trong quá trình ra các quyết định của Quốc hội, không những ở
chừng mực Quốc hội là cơ quan giám sát cơ quan hành pháp mà cả trong việc
thực hiện nhiệm vụ của mình với tư cách là cơ
quan ban hành Luật Ngân sách
nhà nước và các đạo luật chuyên môn có hiệu lực tài chính.
Hai là, KTNN phải báo cáo, tư vấn và giải toả trách nhiệm cho Chính
phủ, cụ thể là cho các cấp quản lý hành chính Nhà nước, các Bộ, Ban, Ngành
trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, cũng như v
ề tác động tài chính của
những biện pháp đề ra.
Ba là, KTNN thực hiện chức năng phòng ngừa và răn đe những biểu hiện
tham nhũng, lãng phí và những hành vi lạm dụng nguồn lực tài chính của Nhà
nước.
Bốn là, KTNN cần thông báo công khai trước công luận về việc sử dụng
các nguồn lực tài chính của Nhà nước.
11
Qua hơn 10 năm hoạt động, Kiểm toán Nhà nước đã bước đầu ổn định
về tổ chức và cơ chế hoạt động. Kiểm toán Nhà nước đã trở thành một công
cụ quan trọng nhằm tăng cường chức năng kiểm tra giám sát việc chi tiêu, sử
dụng tài nguyên, công sản quốc gia. Hoạt động của KTNN đã góp phần tiết
kiệm và tăng thu cho ngân sánh Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng, góp phầ

n thiết
lập trật tự và kỷ cương quản lý nền kinh tế tài chính, hướng tới mục tiêu hiệu
quả.
b. Kiểm toán độc lập
Kiểm toán độc lập là hoạt động đặc trưng của nền kinh tế thị trường.
Đây là các tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của
khách hàng. Ở các nước sớm phát triển theo cơ chế thị trường, ki
ểm toán độc
lập đã hành nghề trước khi có những chuẩn mực chung (về kiểm toán viên) và
chuẩn mực chuyên ngành (về công tác kiểm toán). Cho đến nay, trên thế giới
đã có hàng trăm ngàn tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động trong lĩnh vực
kiểm toán và tư vấn tài chính. Kinh nghiệm ở các nước có lịch sử phát triển
kiểm toán lâu dài cho thấy trong những năm phát triển, việc hành nghề riêng
biệt của từng ki
ểm toán viên hoặc của một nhóm nhân viên trong lĩnh vực
kiểm toán, tư vấn tài chính khá phổ biến.
Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc
tế, Kiểm toán độc lập ở nước ta đã hình thành và phát triển nhanh chóng.
Ngày 29/11/1994, Chính phủ đã ban hành Quy chế kiểm toán độc lập trong
nền kinh tế quốc dân (kèm theo Nghị định số 07/CP), cơ sở pháp lý đầu tiên
cho hoạt động Kiể
m toán độc lập ở Việt Nam.
Trong quy chế này, Kiểm toán độc lập được định nghĩa “Kiểm toán độc
lập là việc kiểm tra và xác nhận của các Kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc
các tổ chức Kiểm toán độc lập về tính đúng đắn, hợp lý của các tài liệu, số
liệu và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức đoàn
12
thể, tổ chức xã hội (gọi tắt là các đơn vị kế toán) khi có yêu cầu của các đơn
vị này”.
Hoạt động kiểm toán độc lập giúp các cơ quan chức năng và những

người sử dụng thông tin tài chính của các đơn vị được kiểm toán có những
căn cứ chắc chắn để khẳng định những thông tin mà họ đang sử dụng là trung
thực, khách quan và hợp pháp. Từ đó h
ọ có thể đưa ra những quyết định quản
lý, kinh doanh phù hợp.
Hoạt động kiểm toán độc lập còn giúp các đơn vị được kiểm toán phát
hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai sót do vô tình hay cố ý, kiểm soát các rủi
ro trong kinh doanh.
Hoạt động Kiểm toán độc lập do các Kiểm toán viên chuyên nghiệp
thực hiện, tuân theo các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán, kiểm toán nhất định
do các cơ quan có thẩm quyền quy định. Các kiểm toán viên độc l
ập là đội
ngũ hành nghề chuyên nghiệp, có đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, phải trải
qua các kỳ thi quốc gia và đạt được các tiêu chuần nhất định về bằng cấp và
kinh nghiệm.
Kiểm toán độc lập chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo
tài chính. Ngoài ra còn tuỳ thuộc yêu cầu của khách hàng, kiểm toán viên độc
lập còn có thể thực hiện kiểm toán hoạt động, kiể
m toán tuân thủ hoặc tiến
hành các dịch vụ tư vấn tài chính kế toán khác.
c. Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là loại kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn
vị tiến hành. Phạm vi của kiểm toán nội bộ rất biến động và tùy thuộc vào quy
mô, cơ cấu của doanh nghiệp cũng như yêu cầu của các nhà quản lý đơn vị.
Nhiệm vụ của kiểm toán n
ội bộ:
13
- Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ có liên
quan, giám sát sự hoạt động của các hệ thống này cũng như tham gia hoàn
thiện chúng.

- Kiểm tra lại các thông tin tác nghiệp và thông tin tài chính bao gồm
việc soát xét lại các phương tiện đã sử dụng để xác định để tính toán, phân
loại và báo cáo những thông tin này, thẩm định cụ thể các khoản mục cá biệt.
- Kiểm tra tính hiệu lực, tính kinh tế và hiệu quả các hoạ
t động trong
đơn vị.
Lĩnh vực chủ yếu của kiểm toán nội bộ là kiểm toán hoạt động để đánh
giá tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị. Bên
cạnh đó, các kiểm toán viên nội bộ cũng tiến hành các cuộc kiểm toán tuân
thủ để xem xét việc chấp hành các quy chế, chính sách trong nội bộ đơn vị
.
Báo cáo kiểm toán nội bộ được Thủ trưởng đơn vị tin tưởng nhưng chỉ
có giá trị nội bộ, giá trị pháp lý không cao. Báo cáo KTNB cũng là tài liệu
tham khảo cho Kiểm toán Nhà nước hoặc Kiểm toán độc lập trước khi tiến
hành kiểm toán tại đơn vị đó. Chất lượng báo cáo kiểm toán nội bộ tốt sẽ
giảm khả năng kiểm toán bên ngoài, tiết kiệm chi phí cho kiểm toán.
Kiểm toán nội bộ do các Kiểm toán viên nội bộ thực hiện, tuân theo các
nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán do Ban lãnh đạo quy định. Đồng thời những
nguyên tắc, chuẩn mực đó phải phù hợp với thông lệ quốc tế về nguyên tắc,
chuẩn mực kiểm toán.
Sự khác biệt cơ bản giữa Kiểm toán nội bộ với Kiểm toán Nhà nước và
Kiểm toán độc lập là: KTNB có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính
hiệu lực và tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
KTNB thường liên quan đến các hệ thống trong một đơn vị (ví dụ: hệ thống
tiền mặt, hệ thống kế toán, hệ thống tin h
ọc ).
14
Trên thế giới, Kiểm toán nội bộ đã trở thành một nghề có tính chuyên
nghiệp. Hiệp hội các Viện Kiểm toán viên nội bộ đã được thành lập năm
1941. Hiện nay Hiệp hội đã có hơn 100 tổ chức quốc gia tham dự với số thành

viên khoảng 50.000 Kiểm toán viên nội bộ.
1.1.3.2. Theo nội dung kiểm toán
Tuỳ theo mục đích của người sử dụng thông tin, một cuộc kiể
m toán có
thể tiến hành đồng thời hoặc một trong ba loại kiểm toán sau:
a. Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động là quá trình kiểm toán nhằm đánh giá tính kinh tế,
hiệu quả và hiệu lực của việc sử dụng các nguồn lực trong hoạt động của đơn
vị. Đồng thời Kiểm toán hoạt động cũng đánh giá hiệu quả hoạt động của các
bộ phận ch
ức năng trong việc thực các mục tiêu kinh doanh của đơn vị.
Kiểm toán hoạt động quan tâm đến những hoạt động quản lý và kinh
doanh đang tiếp diễn để lượng đoán một kết quả trong tương lai. Nó liên quan
đến toàn bộ cơ cấu tổ chức của một đơn vị, bao gồm rất nhiều các lĩnh vực,
các yếu tố (bao gồm cả những lĩnh vực phi tài chính).
Báo cáo kiể
m toán hoạt động chủ yếu đánh giá tiềm năng nên không
mang tính công khai. Vì vậy các tổ chức Kiểm toán độc lập thường không
thực hiện loại kiểm toán này. Nhưng kiểm toán hoạt động thường lại là những
nội dung không thể thiếu được trong kế hoạch kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán khó lượng hoá. Chúng ta có thể
lượng hoá được các tiêu thức về tính hiệu lực và hiệ
u quả của việc sử dụng
các nguồn lực. Nhưng đối với mối quan hệ giữa các chức năng và hiệu quả
hoạt động của từng chức năng thì lại rất trừu tượng, khó lượng hoá. Vì vậy,
hiện nay các cuộc kiểm toán hoạt động chưa được thực hiện thường xuyên.


15
b. Kiểm toán tuân thủ

Kiểm toán tuân thủ là quá trình kiểm toán nhằm xác định xem đơn vị
được kiểm toán trong quá trình hoạt động có tuân theo các nguyên tắc, quy
định của cấp trên và các chế định pháp luật của Nhà nước hay không. Đồng
thời kiểm toán tuân thủ cũng xem xét xem các quy trình hoạt động có được
xác lập và thực hiện không.
c. Kiểm toán báo cáo tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính là quá trình các Kiểm toán viên có thẩm
quyền thực hiện kiểm tra một cách độc lập các thông tin liên quan đến báo
cáo tài chính của m
ột đơn vị, tổ chức để xác nhận tính trung thực, hợp pháp
và phù hợp với các nguyên tắc quản lý tài chính và hạch toán kế toán của các
thông tin đó.
Kiểm toán báo cáo tài chính là khái niệm kiểm toán gần nghĩa nhất với
khái niệm kiểm toán cổ điển. Thông thường nói đến kiểm toán là người ta
nghĩ ngay đến kế toán, hạch toán và chỉ những gì liên quan đến kế toán. Do
vậy, ở nước ta Kiểm toán độc lập là tổ
chức kiểm toán đầu tiên được thành lập
và chỉ thực hiện nhiệm vụ Kiểm toán báo cáo tài chính. Sau này, khi khái
niệm về kiểm toán đã đi dần vào thực tiễn thì mới có những văn bản pháp quy
quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Kiểm toán Nhà nước và KTNB. Các
tổ chức kiểm toán này thực hiện cả kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt
động.
Trong điều kiện hiệ
n nay khi các đơn vị chưa hoạt động theo nề nếp,
chưa tuân theo những nguyên tắc quản lý tài chính và hạch toán kế toán thì
kiểm toán báo cáo tài chính là rất cần thiết.
Kiểm toán báo cáo tài chính không chỉ xác nhận tính trung thực của các
thông tin trên báo cáo tài chính mà còn xác nhận cả tính hợp pháp và phù hợp
16
của các loại thông tin. Do vậy, khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính là

chúng ta đã thực hiện cả kiểm toán tuân thủ dưới một góc độ nhất định.
1.2. Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương
1.2.1. Khái niệm Kiểm toán nội bộ NHTW
Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương là loại hình kiểm toán nội bộ,
ra đời từ sự đòi hỏi khách quan trong hoạt động của Ngân hàng Trung ương.
Thuật ngữ “nội bộ” là
để nói rõ đó là công việc kiểm toán do một tổ
chức và nhân viên của tổ chức đó tiến hành. Như vậy, công việc kiểm toán
nội bộ NHTW khác với công việc kiểm toán của các tổ chức và nhân viên bên
ngoài NHTW tiến hành như Kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập.
Tính độc lập của kiểm toán nội bộ NHTW được xác định bởi các công
việc của kiểm toán viên không bị những ràng buộc có thể hạn ch
ế đáng kể
phạm vi và hiệu quả của việc thẩm tra hoặc làm chậm trễ việc báo cáo những
phát hiện và kết luận. Kiểm toán nội bộ NHTW có vai trò xem xét, đánh giá
và xác nhận, phát hiện sự việc. Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ
NHTW là tất cả các hoạt động nghiệp vụ của NHTW, đồng thời giúp đỡ và hỗ
trợ cho hoạt động của NHTW và các thành viên của NHTW.
Kiểm toán nội bộ NHTW là quá trình các Kiểm toán viên nội bộ có
thẩm quyền kiểm tra, đánh giá một cách độc lập về tính đúng đắn, trung thực,
hợp pháp của các thông tin trên báo cáo tài chính hoặc đánh giá tính tuân thủ,
tính kinh tế và tính hiệu quả hoạt động của một NHTW.
Nhiệm vụ mà Kiểm toán nội bộ NHTW phải tiến hành:
- Đánh giá độ tin cậy của hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Kiểm tra hệ
thống kế toán (mà dựa vào đó người ta lập các báo cáo kế
toán) để đánh giá tính đúng đắn, trung thực, hợp pháp của các thông tin trên
báo cáo tài chính.
17
- Kiểm tra việc tuân thủ luật pháp, tuân thủ các chính sách thủ tục của

ban lãnh đạo cũng như của các đơn vị, bộ phận của Ngân hàng.
- Đánh giá độc lập về tính kinh tế, hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực
cũng như bảo vệ nguồn lực.
Để thực hiện tốt những nhiệm vụ trên, phạm vi hoạt động của KTNB
Ngân hàng Trung
ương rất rộng, không chỉ liên quan đến lĩnh vực tài chính
mà còn liên quan đến cả lĩnh vực phi tài chính, đến các chức năng và mối liên
hệ qua lại giữa các chức năng đó.
1.2.2. Vai trò của kiểm toán nội bộ NHTW
Mỗi tổ chức khác nhau có những rủi ro khác nhau nhưng hầu hết họ
quan tâm đến những rủi ro về tiền bạc và rủi ro về uy tín.
Với Ngân hàng Trung ương thì rủi ro về tiền xét cho cùng lạ
i dẫn đến
những rủi ro về uy tín bởi chức năng ổn định tiền tệ là chức năng quan trọng
của Ngân hàng Trung ương. Những thiệt hại về tiền của Ngân hàng Trung
ương thường là tiền của Nhà nước hoặc là tiền của Nhà nước sử dụng để bồi
thường cho những thiệt hại đã xảy ra. Những điều đó liên quan rất nhiều đế
n
công chúng và nó sẽ làm giảm uy tín của Ngân hàng Trung ương. Uy tín của
NHTW có thể bị đe doạ trong mọi trường hợp.
NHTW trong quá trình hoạt động gặp rất nhiều rủi ro, có những rủi ro
bên ngoài nhưng cũng có những rủi ro ngay trong nội bộ Ngân hàng, có
những rủi ro định lượng và cả những rủi ro định tính. Những rủi ro chủ yếu
của Ngân hàng Trung ương bao gồm: sai lầm, gian lận, rủi ro danh tiếng,
những ý kiế
n tham mưu kém chất lượng dẫn đến quyết định quản lý sai;
những kế hoạch kém chất lượng; sự hỗ trợ cho hệ thống máy tính kém hiệu
quả; vi phạm luật; mất dữ liệu, mất mát tài sản, lộ thông tin quản lý
Kiểm toán nội bộ NHTW được sinh ra từ yêu cầu của quản lý ngân
hàng và phục vụ cho hoạt động quản lý ngân hàng của các nhà lãnh đạo ngân

18
hàng NHTW. Kiểm toán nội bộ do một bộ phận của NHTW thực hiện. Bộ
phận này độc lập với các hoạt động quản lý và điều hành của NHTW và tuân
theo những nguyên tắc, chuẩn mực mà NHTW quy định phù hợp với thông lệ
quốc tế và có vai trò đặc biệt quan trọng:
- Kiểm toán nội bộ NHTW giúp ngăn ngừa thiếu sót trong hệ thống xử
lý nghiệp vụ: các thủ tục kiểm soát ph
ải được thiết kế sao cho có thể hướng
các nghiệp vụ kinh tế được thực hiện đúng nguyên tắc quy định nhằm ngăn
chặn kịp thời các sai sót, nhầm lẫn vô tình hay có thể cố ý gây thất thoát tiền
bạc hoặc tài sản của ngân hàng. Ví dụ: để ngăn chặn thất thoát tiền bạc, ngân
hàng quy định mọi khoản thu chi trước khi thủ quỹ thực hiện đều phải qua xét
duyệt c
ủa kế toán, kiểm soát viên, kế toán trưởng…
- Kiểm toán nội bộ NHTW giúp bảo vệ ngân hàng trước những thất
thoát tài sản có thể tránh. NHTW phải giữ gìn một lượng tiền mặt lớn đủ loại,
bao gồm tiền mặt, các phương tiện chuyển nhượng và chứng từ, đòi hỏi phải
được bảo quản trong khâu lưu trữ cũng như khi chuyển tiền. Vì lý do này,
NHTW cần thiết phải lậ
p các quy trình hoạt động, xác định rõ giới hạn cho cá
nhân và lập ra một hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ.
- Kiểm toán nội bộ cung cấp cho nhà quản lý NHTW thông tin trung
thực thông qua báo cáo kiểm toán các đơn vị trong hệ thống từ đó góp phần
trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật hay chính sách
kinh tế nói chung. Kiểm toán nội bộ có vai trò là thông qua kiểm toán để cải
tiến và hoàn thi
ện hoạt động ở các đơn vị, góp phần nâng cao hiệu quả cuối
cùng, khắc phục những khâu yếu, giúp thủ trưởng đơn vị phát hiện, ngăn chặn
và xử lý các gian lận, sai sót trong hoạt động của đơn vị. Kiểm toán nội bộ
giúp NHTW đảm bảo việc chấp hành chính sách chế độ của pháp luật.

Tính toàn diện trong kiểm toán nội bộ đã khẳng định được vai trò độc
l
ập và không thể thiếu trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước.
19
1.2.3. Nguyên tắc hoạt động
1.2.3.1. Nguyên tắc độc lập
Hoạt động kiểm toán bị chi phối bởi nguyên tắc độc lập. Không có tính
độc lập thì những báo cáo của kiểm toán không có giá trị trong xã hội. Tính
độc lập của kiểm toán có nghĩa là không một tổ chức, cá nhân nào có quyền
can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kiểm toán. Kiểm toán có quyền sử dụng
các biện pháp kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn để hoàn thành kiểm toán, tạ
o
lập bằng chứng và đưa ra những nhận xét độc lập, khách quan của mình. Điều
đó thể hiện ở chỗ các kiểm toán viên và đoàn kiểm toán phải có quan điểm vô
tư khi thực hiện kiểm toán, đánh giá kết quả và công bố kết quả kiểm toán.
Tính độc lập cần thiết từ phía cơ quan lập pháp, hành pháp và cả từ phía đối
tượng kiểm toán. Tính độc lập được th
ể hiện ở cả cơ quan kiểm toán và các
kiểm toán viên. Tính độc lập phải được xem là một trong những phẩm chất
chủ yếu của kiểm toán viên.
1.2.3.2. Nguyên tắc trung thực và khách quan
Tính trung thực và khách quan nêu rõ: kiểm toán không được chủ tâm
phản ánh sai sự thật (tính trung thực), kiểm toán viên không được để sự phán
xét của mình bị hạn chế, lệ thuộc vào người khác.
Nguyên tắc này xuất phát từ chính bản chất và chức năng c
ủa kiểm toán.
Kiểm toán ra đời là do yêu cầu khách quan kiểm soát trở lại các hoạt động
kinh tế được ghi nhận, phản ánh khách quan công tác kế toán đã bao hàm hai
chức năng phản ánh và giám đốc, kiểm tra. Sự tách ra, thậm chí tách theo một
hệ thống tổ chức được pháp luật định chế của chức năng giám đốc kiểm tra để

tình hình công tác kiểm toán mang tính độc lập là một yêu cầu của quản lý
kinh tế song còn mang bản chấ
t kinh tế và tính lịch sử của nó. Nguyên tắc
trung thực quy định khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán viên được đề nghị các
cơ quan thẩm quyền giám định về mặt chuyên môn hoặc tư vấn khi cần thiết.
20
Kiểm toán viên có quyền được đề nghị các cơ quan thẩm quyền giám định về
mặt chuyên môn hoặc làm tư vấn khi cần thiết. Nguyên tắc này chỉ ra kiểm
toán viên và các cơ quan kiểm toán phải có trình độ và khả năng đáp ứng yêu
cầu để đảm bảo thực hiện một cách khách quan, công bằng, có hiệu quả các
trách nhiệm đối với các báo cáo kiểm toán.
1.2.3.3. Nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật
Để đảm bảo tính
độc lập, trung thực và khách quan của kiểm toán, vấn
đề quan trọng và cần thiết là dù đặt ở đâu cũng phải đảm bảo nguyên tắc chỉ
tuân theo pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Bản thân ngành kiểm
toán cũng là một khách thể tồn tại trong xã hội, là kết quả của một quá trình
phát triển của loài người trước hết là lịch sử của hoàn thiện quá trình quản lý.
Kiểm toán đượ
c pháp luật thừa nhận và bảo hộ nên việc tuân theo quy luật,
luật pháp là điều tất yếu. Bất kỳ một Công ty kiểm toán nào có sự vi phạm
pháp luật cũng sẽ bị xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Mọi tổ chức
kiểm toán và kiểm toán viên đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
những đánh giá nhận xét của mình.
Chính hoạt động kiểm toán có bản chấ
t và chức năng là kiểm tra nên mọi
hoạt động của kiểm toán đều xuất phát từ nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật quy định rằng, mọi chủ thể, khách thể đều
tham gia vào các hoạt động kiểm toán đều phải tuân thủ các quy định của
pháp luật. Đó là thẩm quyền, là chức năng, là nhiệm vụ, là trách nhiệm của cả

tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên và nhữ
ng đối tượng kiểm toán.
1.2.4. Quy trình kiểm toán nội bộ NHTW
Dù có nhiều loại hình KTNB khác nhau trong hoạt động của NHTW,
nhưng quy trình thực hiện KTNB của NHTW đều bao gồm 4 bước cơ bản
sau:
1.2.4.1. Chuẩn bị kiểm toán

×