Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

một số vấn đề về tiểu loại, bố cục, cú pháp, gieo vần trong phú lí tử tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.66 KB, 16 trang )

Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Di sản Hán văn Việt Nam hiện nay vẫn còn là kho tàng bỏ ngỏ đối với các
nhà nghiên cứu nói riêng, nhiều thế hệ độc giả hiện tại và mai hậu nói chung.Giải
mã ngọn ngành toàn bộ di sản đó chính là mở cánh cửa đểhiểu biết quá khứ, lịch
sử, văn hoá truyền thống của dân tộc. “Ôn cố nhi tri tân”- công cuộc nghiên cứu
này càng có ý nghĩa trong thời kỳ phát triển, hội nhập của đất nước. Do vậy, bảo
tồn và khám phá, tìm hiểu di sản Hán Nôm là một nhiệm vụ quan trọng, thiết yếu,
không chỉ thuần tuý mang tính chất của riêng cá nhân nhà nghiên cứu.
Phú Việt Nam là một thể loại văn học tiếp nhận từ Trung Hoa, bắt đầu phát
triển từ thời Trần, thịnh ở đời Lê và sau đóthời nào cũng có, nói cách khác, đó là
một bộ phận cấu thành tất yếu của nền văn học dân tộc. Không chỉ riêng phú Nôm,
phú chữ Hán tuy chịu ảnh hưởng nặng nề bởi phú Trung Quốc song ít nhiều cũng
có những yếu tố khác biệt, Việt hoá về hình thức thể loại, kết cấu, ngôn ngữ,đề tài,
nội dung… Song thực tế nghiên cứu về thể loại này chưa nhiều, xét cả ởgóc độ
nghiên cứu văn học hay ngôn ngữ, văn bản học… Chúng tôi chọn hướng tiếp
cận đề tài của mình dưới góc độ ngôn ngữ, thể tài nhằm đưa ra một số kiến giải,
suy ngẫm về thể thức phú chữ Hán trong kho tàng Hán Nôm Việt Nam.
“Quần hiền phú tập” là tuyển tập khá đầy đặn các tác phẩm phú thời Trần, Lê
do Hoàng Tụy Phu - một sĩ phu triều Lê tuyển chọn bao gồm hơn một trăm tác
phẩm, trong đó chiếm hầu hết là các tác phẩm phú Lê (93 bài). Tuyển tập này
không thể hiện rõ sự phát triển của thể loại trong chiều dài thời gian song lại mang
tính điển hình rõ nét vì như trên đó đề cập, triều đại nhà Lê chính là thời kỳ
thịnhđạt của phú chữ Hán, vậy nên, những đặc trưng ngôn ngữ thể loại hẳn được
tập trung hội tụ ở đõy. Do đó, chúng tôi giới hạn đề tài nghiên cứu của

Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
mình trong 20 tác phẩm của Lí Tử Tấn được trích tại “Quần hiền phú tập”
(Chúng tôi bỏ qua một tác phẩm chú ghi: Bổ di mang tên: “Du tiên nham phú”,


trong tuyển tập được xếp ở vị trí thứ 2 trong loạt 21 bài tuyển của Lí Tử Tấn, do
vậy, trong tất cả các phầm thống kê và nghiên cứu phía sau, chúng tôi không đề
cập đến tác phẩm nào mang kí hiệu số 2); một mặt, bởi vì đõy là tác giả khá tiêu
biểu của giai đoạn văn học thời Lê, mặt khác, số lượng tác phẩm của ông được
trích trong tuyển tập đảm bảo tính vừa sức đối với khuôn khổ nghiên cứu của một
luận văn thạc sĩ. Nghiên cứu thể thức phú chữ Hán thời Lê thông qua các tác phẩm
của Lí Tử Tấn trong “Quần hiền phú tập” là việc làm có ý nghĩa giúp người tiếp
cận hiểu rõ hơn những đặc trưng về bố cục, cú pháp, ngôn ngữ… của một thể loại
vốn được coi là rườm rà, hóc hiểm, lắm điển nhiều tích này, qua đó độc giảcòn có
thể thấy được phần nào hiện tượng “bứng trồng” thể loại, sự ảnh hưởng cũng
nhưquá trình Việt hoá, chọn lọc của phú Việt Nam so với phú của người Hán - một
gợi ý để khám phá sự giao lưu văn tự, văn học trong khu vực các nước đồng văn.
2. Lịch sử vấn đề:
Như một tất yếu lịch sử, xuất phát điểm của nghiên cứu bao giờ cũng muộn
hơn bản thân đối tượng nghiên cứu, song không vì thế mà quá trình nghiên cứu thể
loại phú lại được xem là một diễn biến ngắn ngủi. Từ rất lâu, người ta đó xem phú,
cùng với thơ, từ và các thể văn khác là những đối tượng tìm hiểu, khám phá đầy
thú vị. Ở Trung Quốc, nghiên cứu, nghị luận, phê bình về phú ra đời từ rất sớm.
Ngay từ thời Tiên Tần, người ta đó bàn về nguồn gốc, đặc điểm của phú (Mao
truyện, Tả truyện), đến đời Hán, những luận điểm khái quát đó được trình bày cụ
thể hơn (Nghệ văn chí, Mao thi). Triều Tấn, nhà phê bình Chấp Ngu trong “Văn
chương lưu biệt luận” cũng đưa ra một số điểm cơ bản về thể loại này. Lưu Hiệp
với “Văn tâm điờu long” có hẳn một phần về phú Hán mang tên Thuyên phú (“Văn
tâm điờu long” - Phan Ngọc dịch, giới thiệu & chú thích - phần Thuyên phú, tr41-
44), trong đó, thể thức phú được đề cập đến khá bao quát: “Xét về hình thức thì lời
nói của nú(chỉ phú) cốt tỉ mỉ, đầy đủ. Xét về

Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
trình bày thì nú cốt nói dồi dào. Nú lại thiên về chỗ kỹ xảo, tủn
mủn”. Nhữngđời sau, rất nhiều nhà phê bình các triều đại đó đỳc rút một cách toàn

diện và chi tiết những đặc điểm về nguồn gốc, phân loại, hình thức, ngôn ngữ của
thể loại này (Từ Sư Tăng, Chương Học Thành…). Thực tế là, nghiên cứu về phú ở
Trung Hoa phát khởi sớm và phát triển khá đầy đặn,đó chính là cơ sở, nền tảng cho
nghiên cứu thể loại tương ứng xuất hiện ở khu vực các nước đồng văn, trong đó có
Việt Nam. Chính vì thế, những tìm hiểu sơ thảo hay công phu về phú ở
Việt Namchắc chắn ít nhiều chịu ảnh hưởng, chi phối từ các kết quả nghiên cứu
của Trung Quốc.
Nghiên cứu về thể thức phú trong Hán văn Việt Nam xuất hiện khá sớm.
Thưmục tài liệu về lịch sử, văn học, ngôn ngữ cho thấy từ các triều đại phong kiến
Trần, Lê, phú đó trở thành một thứ văn chương cử tử, nghĩa là một phần bắt buộc
cho mỗi khoa thi. Cứ theo logic mà suy, hẳn thể thức phúđó được nghiên cứu và áp
dụng để giảng dạy cho sĩ tử từ thời bấy giờ. Song vềnhững văn bản thành văn tìm
hiểu về phú còn để lại, phạm vi kiến thức của chúng tôi xin được xuất phát từđầu
thế kỷ XX, trong các tư liệu bằng chữ quốc ngữ. Ngay từViệt Hán văn khảocủa
Phan Kế Bính (Nxb Trung Bắc tân văn, 1918, Nxb Editions Nam Kỳ, 1938), tác
giả đó nêu ra một số nét khái quát về đề tài, bố cục, số câu, số chữ, hạn độ về vần
của thể loại phú (3; 23). Đến Văn chương thi phú An Nam của D. Hồ Ngọc Cần
(Hong Kong, 1923), Quốc văn cụ thể của Bùi Kỷ (Nxb Tân Việt Nam thư xã,
1932), các tác giả đó tỡm hiểu cụ thể hơn về thể loại này, trước tiên là khái niệm,
thứ đến phân loại (Bùi Kỷ chia 2 loại: Cổ thể và Đường phú), cách gieo vần trong
tương quan phân biệt với thơ (Độc vận- liên vận, hạn vận- phóng vận), cách đặt
câu cho từng loại (Bát tự, song quan, cách cú, hạc tất), hai loại bố cục (Tràng thiên
và phân đoạn)… Trong đó, nhà nghiên cứu còn cụ thể hoá ở một số ví dụ trong phú
thời Trần Lê. (13; 67). Đầy đủ và chi tiết hơn, Dương Quảng Hàm
trong ViệtNam văn học sử yếu (In lần đầu năm 1943) có bàn đến câu đối phú với 3
lối câu: Song quan, cách cú, gối hạc và luật bằng trắc trong mỗi lối đối này. Ông
cũng đưa ra những đặc điểm tương tự về phân loại,

Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
hiệp vần, đặt cõu… và cụ thể hoá 6 phân đoạn trong bố cục phú: Lung, biện

nguyên, thích thực, phu diễn, nghị luận, kết (7; 128-129). Chúng tôi cũng thu thập
tài liệu trên Internet và tìm thấy trong trang web địa chỉ
ệthọc.org/Việt học thư quán còn lưu trữ tác phẩm Hán văn lược
khảo của Phan Thế Roanh, ở đó, chương 3: Từ ngữ và văn cú có giới thiệu sơ lược
về thể loại phú với những điểm cơ bản đáng lưu ý. Những công trình mang tính
chất tổng quát trênđõy là những gợi ý đúng đắn để chúng tôi định hướng tập
trung vào những phương diện cơ bản cần khai thác để làm sáng rõ thể thức đặc
trưng của thể loại phú, đồng thời đó cũng chính là những cơ sở lí thuyết cho các
chuyên khảo, tài liệu nghiên cứu về phú xuất hiện về sau sẽ được đề cập đến ngay
ở dưới đõy:
Tác giả của Luận án PTSKH Ngữ văn mang tên: Vận dụng quan điểm thể
loại vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam thời Lí Trần - Nguyễn Phạm Hùng -đó
dành chương V để tìm hiểu về đặc trưng phú ở 4 tiểu loại: Phú tao thể, phú tán thể
(Cổ thể), phú biền lệ và phú luật thể của người Hán, rồi vận dụng chúng vào xem
xét, tìm hiểu các tác phẩm phú thời Trần (10; 139- 159). Công trình này tiếp cận
thể loại dưới góc độ lí luận văn học, phạm vi đối tượng nghiên cứu lại là phú Trần,
song tổng quan chứa đựng những điểm khả dĩ có thể vận dụng cho đề tài nghiên
cứu của chúng tôi.
Sách Ngữ văn Hán Nôm của Đại học Sư phạm Hà Nội (Đặng Đức Siêu-
Nguyễn Ngọc San, tập 2), bộ sách Ngữ văn Hán Nôm của Viện KHXHVN, viện
NCHN (tập 3) đều có những tổng kết khái quát về đặc trưng ngôn ngữ, thể loại của
phú nói chung, phú Việt Nam nói riêng. Sách của ĐHSPHN không tách riêng thể
loại mà xếp phú vào nhóm biền văn, bao gồm cả phú, chiếu, hịch, cỏo…(20;
63) Còn sách của Viện KHXHVN thì phân loại phú thành cổ phú, bài phú, luật phú
và văn phú, thêm vào đó, có những nhận xét xác đáng về phú Trần, Lê: Đời Trần
phú thường viết theo thể văn phú lưu thuỷ, đến thời Lê, các bài luật phú xuất hiện
nhiều hơn…nhờ vần và sự đối lập bằng- trắc trong thanh điệu

Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
Hán Việt mà người Việt Nam làm phú Đường luật thành thạo không kém gì

người Hán (26; 331).
Phong Châu - Ngô Văn Phú với Phú Việt Nam- cổ và kimlại bàn về quá trình
hình thành và phát triển của phú Việt Nam, một số đặc điểm về ngôn ngữ, bố cục,
vần điệu của thể loại này ở mỗi thời kỳ khác nhau.
Gần đõy nhất,Luận án TS Ngữ văn của Phạm Tuấn Vũ với đề tài Thể phú
trong văn học Việt Nam trung đại (2002) đó cung cấp rất nhiều tri thức, kiến giải
cụ thể, bổ ích về nguồn gốc, đặc điểm, biễn tiến, thi pháp miêu tả và biểu hiện…
của phú Trung Hoa, từ đó làm sáng rõ những vấn đề cơ bản của phú Việt Nam.
Tuy là một chuyên khảo mang tính lí luận văn học, song luận án này có những
phần trình bày hết sức cụ thể về đề tài, ngôn ngữ, bố cục, cách gieo vần của phú
chữ Hán Việt Nam trong các giai đoạn Trần - Hồ, Lê sơ… tương thích với việc tìm
hiểu phú dưới góc độ ngôn ngữ, thể tài. Theo đó, luận án này là một cơ sở quan
trọng cho việc triển khai đề tài của chúng tôi, kế thừa những kết luận đó có, chúng
tôi có thể bổ sung và hoàn thiện hơn những vấn đề về thể thức phú chữ Hán thời
Lê, bởi công trình này mới chỉ chú trọng đến vấn đề văn thể (bao gồm bố cục, vần
và tiểu loại phú được sử dụng), chứ chưa đề cập đến toàn bộ thể thức phú.
Trên đõy đó hệ thống lại những nghiên cứu đáng chú ý về thể thức phú chữ
Hán trung đại Việt Nam. Bên cạnh những tác phẩm đó trình bày, còn rất nhiều
những bài viết, cuốn sách khác ít nhiều bàn đến những vấn đềcó liên quan: Tìm
hiểu văn phú thời kỳ Trần- Hồ (Trần Lê Sáng. Tạp chí văn học), Mấy vấn đề thi
pháp văn học trung đại Việt Nam (Trần Đình Sử)…Tựu chung lại, tìm hiểu về phú
Việt Nam nói chung, phú chữ Hán nói riêng có một lịch sử khá phong phú,
songthực tế, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở những biểu hiện chung nhất
của thể loại, nhiều khi không có sự phân tách rạch ròi giữa phú Trung và Việt,
hoặc cóđi sâu phân tích thì chỉ ở những khớa cạnh riêng lẻ của thể thức: bố cục,
vần. . chứ chưa mang tính chất toàn diện. Do vậy, những nghiên cứu trên là chính
nền tảng, cơ sở vững chắc để người viết cụ thể và khái

Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
quát hoá những vấn đề của thể thức phú trong giới hạn một số lượng tác phẩm

cụ thể và tiêu biểu, từ đó đưa ra những kết luận đầy đủ hơn về đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích, phạm vi tư liệu nghiên cứu:
3. 1 Mục đích nghiên cứu:
Mụcđích nghiên cứu của luận văn là phiên õm, khảo sát, thống kê, phân tích
và kết luận về những vấn đề thể thức phú trong 20 tác phẩm phú của Lí Tử Tấn
trích trong quyển 2 Quần hiền phú tập 群賢賦集 nói riêng, thể thức phú thời Lê
nói chung, bao gồm các vấn đề: Cách đặt tên bài, thể loại, bố cục, cú pháp, từ
ngữ(thực từ, hư từ), cách gieo vần, các thủ pháp chủ yếu: đối, khoa trương, thậm
xưng, sử dụng điển cố, điển tớch… Từ đó, phân tích những điểm cơ bản về đề tài,
nội dung, tưu tưởng chủ yếu của phú đời Lê, phú chữ Hán Việt Nam. Trong quá
trình tìm hiểu ít nhiều cóso sánh với phú Trung Hoa dựa vào những kết luận đó có
của các nhà nghiên cứu phú Trung Quốc đề người đọc tham khảo.
3. 2 Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
Luận văn tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích trên 20 đơn vị tác phẩm phú
của tác giả Lí Tử Tấn được trích trong toàn bộ quyển 2, bộ sách Quần hiền phú
tập 群賢賦集 (Quyển này bao gồm 21 đơn vị tác phẩm, chúng tôi loại bỏ một bài
bổ di là bài thứ 2: Du tiên nham phú). Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi
có tham khảo thêm các tác phẩm khác cũng nằm trong tập tuyển này. Cụ thể 20 bài
phú như sau:
(1). Chí Linh sơn phú 至靈山賦
(2). Du tiên nham phú 遊仙巖賦 (Bỏ qua)
(3). Hội anh điện phú 會英殿賦
(4). Xương giang phú 昌江賦
(5). Tiền tinh phú 前星賦.
(6). Hà thanh phú 河 清賦
(7). Dưỡng chuyết phú 養拙賦
(8). Đại bảo phú 大 宝賦

Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
(9). Quân chu phú 君舟賦

Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
Luận văn cấu trúc 3 phần, bao gồm phần mở đầu, phần kết luận và phần nội
dung với 3 chương như sau:
Chương I: Những vấn đề lý thuyết chung và khảo sát văn bản
Chương II: Một số vấn đề về tiểu loại, bố cục, cú pháp, gieo vần trong phú Lí
Tử Tấn
Chương III: Từ ngữ và nội dung phú Lí Tử Tấn





PHẦN NỘI DUNG
Chương I
Những vấn đề về lí thuyết chung và khảo sát văn bản

1. Những vấn đề lí thuyết chung
1.1Nguồn gốc, khái niệm và đặc điểm thể loại phú:
Phú là thể loại văn học xuất hiện từ thời Chiến quốc, thời Tiên Tần, phú có
hai nghĩa: thứ nhất, phú tức là bố 布: phô bày ý nghĩ ra. Mao truyện viết: Phú, bố
dã 賦 布 也 . Tả truyện cũng ghi lại: Phỳ… bố, âm tương cận, nghĩa tương loại.
賦….鈽,音相近義相類. Nghĩa thứ hai của phú là tụng (đọc): Cổ thiên tử thính
chính, sử công khanh chí vu liệt sĩ hiến thi… tẩu phú mông tụng. 古天子听政,使公
卿至于列士獻詩…瞍賦 矇誦 (Quốc ngữ 國語). Phú thường dùng thủ pháp khoa
trương, phô bày sự vật, không dùng để hát mà chỉ đọc: Bất ca nhi tụng vị chi phú
不歌而誦謂之賦 (Nghệ văn chí. Hán thư). Theo cách giải thích đời Hán, trong bài
tựa Mao thi (Kinh thi- bản do Mao Tường biên tập), thì kinh thi có sáu nghĩa, nghĩa
thứ hai chính là phú: Cổ thi hữu lục nghĩa yên: Nhất viết phong, nhị viết phú, tam
viết tỉ, tứ viết hứng, ngũ viết nhó, lục viết tụng. 古詩有六義焉,


Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
一曰風二曰賦三曰比四曰興五曰雅六曰頌.Như vậy, phú bắt nguồn từ cổ
thi (bao gồm Kinh thi và Sở từ). Chấp Ngu 縶虞, nhà phê bình đời Tấn, trong Văn
chương lưu biệt luận, có viết: Phú là một dòng thơ cổ: Phú giả, phu trần chi xưng,
cổ thi chi lưu dã 賦 者 敷 陳 之 稱 , 古 詩 之 流 也 . Lưu Hiệp với Văn tâm điờu
longcũng nhận định: Kinh thi có sáu nghĩa, nghĩa thứ hai là phỳ… Phú tức
là phô ra,phô màu trình văn để miêu tả sự vật, thể hiện chí (Thi hữu lục nghĩa, kỳ
nhị viết phú. Phú giả, phô dã, phô thái xi văn, thể vật, tả chí dã 詩有六義, 其二曰
賦 . 賦 者 , 鋪 也 , 鋪 采 文摛 , 体 物 , 舄志 也 ). Chương Học Thành, đời Thanh,
trong Văn sử thông nghĩa, phần Thi giáo, ghi nhận nguồn gốc của phú là Kinh
thi: Cổ chi phú gia giả lưu, nguyên bản “Thi”古之賦家者流原本詩.
Tuân Huống (298- 1239) được xác nhận là người đầu tiên viết phú, mục Thi
phú lược trong Hán Thư- Nghệ văn chí viết Tuân Huống có 10 bài phú. Trong bộ
Tuân Tử hiện còn có một phần gọi là Phú thiên 賦篇 gồm 5 thiên: Lễ, Tri, Vân,
Tàm, Châm. Lưu Hiệp cho rằng xét về nguồn gốc rõ ràng phú bắt nguồn từ thờiSở
và thịnh lên ở đời Hán: Thảo kỳ nguyên lưu, tín hưng Sở nhi thịnh Hán hỹ 討其源
流,信興楚而盛漢矣. Như vậy, cổ thi (bao gồm cả Kinh thi và Sở từ)đều góp phần
hình thành thể phú. Dấu tích về nguồn gốc thể loại này còn lưu lại trong một
sốđặc điểm về thể thức của nú: Loại câu chủ yếu của Kinh thi gồm 4 tiếng, loại câu
chủ yếu của Sở từ là 6 tiếng, thỉnh thoảng có tiếng đệm Hề 兮 đó được bảo lưu
trong thể phú (nhất là phú Hán). Cách gieo vần chân, nếu có hư từ thì gieo vần của
từ trước hư từ mà chúng ta thấy ở thể phú cũng là sự bảo lưu cách gieo vần của
hailoại cổ thi này. Thủ pháp phô bày của Kinh thi, phong cách trữ tình nồng đượm
và sự tưởng tượng phong phú của Sở từ cũng có vai trò trong việc hình thành thể
phú. Sở từ và phú gần gũi tới mức có người cho rằng chúng cùng một thể loại văn
học, sự thực thì khác biệt giữa hai loại thể không lớn lắm, đặc biệt phú tao
thể cóhình thức giống với Sở từ.
Văn xuôi Tiên Tần cũng là một cội nguồn quan trọng đánh dấu sự ra đời của
phú. Những bài phú của Tuân Huống đều dùng thủ pháp giảm bớt từ ngữ để ý tứ
sâu sắc, khó thấy, đõy chính là thủ pháp “độn từ dĩ ẩn ý, quyệt tí dĩ chỉ sự”


Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
遁詞以隱意譎臂以指事 của ẩn ngữ - một loại văn xuôi thời Tiên Tần. Thêm
vàođó, hình thức đối thoại rất phổ biến trong trước tác của chư tử Tiên Tần đó
thành lối chủ khách vấn đáp trong thể phú, hình tượng mang tính chất ngụ ngôn
của văn chư tử cũng được các tác giả phú tiếp thu. Nói tóm lại, phú là một thể văn
chương có tính trung gian giữa thơ và văn xuôi, tác phẩm trữ tình như thơ tươngđối
ít, tác phẩm mô tả sự vật, thuyết lý để bộc lộ tâm, chí nhiều hơn, chất thơtương đối
ít, chất văn xuôi nhiều hơn, nhất làở loại văn phú vừa trình bày.
Phú tập trung vào những đề tài như tụng ca công đức, phúng gián, ngôn chítrữ
tình và vịnh vật. Những hình tượng nghệ thuật xuất hiện trong phú mang tính
tượng trưng cao độ, tính triết lí nghị luận. Vì thế, nghệ thuật phú thiên về kỹ xảo
khoa trương, ngôn ngữ dồi dào, nhiều điển tích, điển cố (nhất là phú Hán), kiểu
câu, vần nhịp biến hoá linh hoạt, đa dạng… Tập trung vào tìm hiểu thể thức phú
cũng là một cách thức thấu tỏ nội dung của thể loại này.
1.1Phú chữ Hán Việt Nam và phú đờiLê:
Theo Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi , bài phú chữ Hán cổ
nhất của ta còn truyền lại là Bạch vân chiếu xuân hải phú 白 雲 照 春 海 賦 của
Khương Công Phụ (780- 805)- người Giao Chõu, làm quan đời Đường, tác phẩm
này chứa đựng lời lẽ tao nhã mà thoát sáo, được người Đường xưng phục, chép lại
trong Văn uyển anh hoa 文苑英花.Bước sang thời kỳ phong kiến tự chủ, từ đời
Lí,tài liệu lịch sử cho thấy thể phú đó xuất hiện nhưng hiện không còn lưu lại tác
phẩm nào. Thời Trần - Hồ còn lưu lại 16 bài phú chữ Hán, chủ yếu mang nhãn
quan Nho giáo, theo Lê Quý Đôn (trongKiến văn tiểu lục, mục Thiên chương)
thìđời Trần có những bài phú lạ kỳ, hùng vĩ, trôi chảy, tốt đẹp, bố cục và cách điệu
gần được như lối phú của đời Tống. Các tác phẩm phú tiêu biểu của giai đoạn
này:Bạch đằng giang phú, Ngọc tỉnh liên phú, Thang bàn phú, Thiên thu giám
phỳ…

Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa

Song phải đến triều Lê sơ, phú chữ Hán mới phát triển đạt tới độ hưng thịnh
nhất với số lượng tác phẩm lớn (RiờngQuần hiền phú tậpđó ghi chép lại 93
bàiphú Lê), đề tài tập trung, hình thức thể tài thống nhất. Các bài luật phú
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
Đại 3, làm đến chức Hàn Lâm thị chế, có sách ghi làm quan đến Hoàng môn
thị lang.
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
3.Đôi nét về tiểu sử Lí Tử Tấn:
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
Bốnđiều cốt yếu của thể thức phú là: Thể loại, bố cục, cú pháp, từ ngữ, do
vậy, chúng tôi khảo sát và thống kê theo từng cấpđộ lớn nhỏ trong
các vấnđề cơbảnđó:
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
quan trọng trong phú Lí Tử Tấn; - Phương diệnngữõm: Chỉ tập trung
vàovấnđề gieo vần, các nhúm vần và chữ nằm trong mỗi nhúm vần.
Trong quá trình phiên õm và thống kê, khảo sát, chúng tôi
gặp phải một sốtrường hợpmột chữ có thể có hai cách đọc: hưng/ hứng, qua/ quá,
thăng/ thắng,
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
cuối vế. Như thế, nếu 4 vế khảo sát làm thành hai cõu tứ tự,
luật B- T ứng với4 chữ cuối vế sẽ như sau:
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
(Trờiđấtbày nên hiểm trở,- Núi sông hết sứcứng linh.)(Xương giang phú)
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
Ký phi truyền thế chi bảo, 既非傳世之宝
Diệc vô tuyệt tục chi kỳ. 亦無絕俗之奇
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
(Chí Linh sơn phú)
Cầm Thôi Tụ, 扲崔聚
Trảm Liễu Thăng, 斬柳昇

Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
trong những bài phú mà chúng tôi được tỡm hiểu, nhận thấy có hai
biểu hiệnchủ yếu: thứ nhất, tình yêu thiên nhiên trong phú củaông
thường gắn vớinhữngđịa
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
Thực ra, niềm ham thớch với núi cao sông dài của Lí Tử Tấn,
thúẩn dật củaLí Tử Tấn, tháiđộ an nhiên vui vớiđạo trời của Lí Tử Tấn hẳn không
phải tõm língơi nghỉ của kẻ trượng phu đóthoả chí tang bồng,
có lẽđólà hệ quảcủa tư tưởngcả một thờiđại phức tạp mà tác giảđó sõu
sắc thấu hiểu vàthích nghi. Như trên dótrình bày, sau chiến thắng Lam Sơn
lẫy lừng, những nhà nho chõn
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Bì

13 1
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Doanh

6 1
2. Doanh

3, 17 2
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Khoan

3, 4, 9, 10, 13, 17, 19 7
2. Khoảnh

9 1
3. Khoảnh


16 1
4. Khoát

17 1
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Phất

3 1
2. Phất

3 1
3. Phật

14 1
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Quân

13, 15 2
2. Quân

13 1
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Sàm

13 1
2. Sán

5, 15(2), 18(20 5
3. Sang


3 1
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Sương

20(2) 2
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Tăng

4, 5, 17, 21 4
2. Tằng

18 1
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Tỉ

3, 11, 14, 16, 17 5
2. Tí

3, 8, 19 3
3. Tí

4 1
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Tiêu

5, 13, 14, 1 4
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Tộc


3, 18 2
2. Tôn

1, 8(3), 12, 13(2), 17 7
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Tuy

8, 13 2
2. Tuỳ

11(2),14,16(2) 5
3. Tuỵ

6, 20 2
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Tước

7 1
2. Tước

9 1
3. Tương
漿
9 1
4. Tương

11 1
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Thanh


3(3),4(3),5(2),6(5),7,12(5),13,14,
15,16,17,19(4),20(5),21(4)
37
2. Thanh

1, 3(2), 4, 6(2), 12, 13, 14 9
3. Thanh

9, 19, 20 3
4. Thành

1,4,5,7,8(2),12(2),13,17,18(2) 12
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Thấu

19 1
2. Thấu

19 1
3. Thê

9, 11 2
4. Thể

8(2),9(2),14(2),15,17(2) 9
5. Thế

1(2),3(2),4(2),5,6,8,11(4),13(3),15, 28
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Thiệp


8, 9, 11 3
2. Thiết

10, 15, 17 3
3. Thiết

4, 11 2
4. Thiết

16 1
5. Thiều

1(2), 3 3
6. Thiều

1 1
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Thú

6, 10, 12, 16, 19 5
2. Thú

10 1
3. Thú

19 1
4. Thụ

12, 13(2), 15, 21 5

5. Thụ

15 1
6. Thụ

18 1
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa
1. Thực

16 1
2. Thực

20(2) 2
3. Thước

7 1
4. Thước

10 1
5. Thược

15 1
6. Thược

3 1
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Thanh Hoa

×