Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh theo y học cổ truyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.85 KB, 12 trang )

Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI
1.1.1. Đại cương về mãn kinh
1.1.1.1. Định nghĩa mãn kinh
Ở người phụ nữ và khoảng (40 - 50) tuổi các nang trứng của buồng trứng
giảm phát triển, trở lên không đáp ứng với kích thích của hormon tuyến yên, quá
trình này xẩy ra từ từ dẫn đến giảm chức năng hoạt động nội tiết buồng trứng. Sau
vài tháng đến vài năm các chu kỳ sinh dục ngừng, người phụ nữ hết kinh, không có
hiện tượng phóng noãn, nồng độ các hormon sinh dục giảm thấp. Hiện tượng này
được gọi là mãn kinh [4], [6], [23].
Như vậy mãn kinh được định nghĩa là tình trạng thôi hành kinh vĩnh viễn, một
vô kinh thứ phát do suy giảm tự nhiên hoạt động của buồng trứng và không hồi
phục [23], [ơ61].
1.1.1.2. Nguyên nhân của mãn kinh
Nguyên nhân của mãn kinh: là sự kiệt quệ của buồng trứng, vào thời kỳ tiền
mãn kinh ở buồng trứng, số nang trứng nguyên phát còn rất ít, việc đáp ứng của
buồng trứng với kích thích của Follicle Stimulating Hormon (FSH) và Luteinizing
Hormon (LH) giảm dẫn đến lượng estrogen giảm dần đến mức thấp nhất với hàm
lượng này estrogen không đủ chế tạo một cơ chế feedback âm gây ức chế bài tiết
FSH và LH, đồng thời cũng không đủ để tạo cơ chế feedback dương gây bài tiết đủ
lượng FSH và LH cần thiết làm rụng trứng. Do đó chỉ sản xuất được một lượng nhỏ
hơn estrogen, không còn đủ để làm thay
đổi niêm mạc tử cung tới mức gây được kinh nguyệt [4], [6], [12], [24], [54],
[57].
Trong thời gian dày trước đây, người ta cho rưàng chỉ có estradiol có tác dụng
chính trong điều hoà nồng độ FSH. Nhưng ngày nay người ta đã chứng minh được
hormon Inhibin một loại hormon do buồng trứng tiết ra cũng đóng vai trò quan
trọng. Nú có tác dụng điều hoà nồng độ FSH và có thể gây ra một số tác dụng trực
tiếp tại chỗ đối với buồng trứng khi khả năng của các nang noãn bị giảm, nồng độ


Inbilin cũng giảm theo. Sự giảm Inbilin sẽ gia tăng trong suốt thời kỳ mãn kinh và
gây ra tăng cao nồng độ FSH trong thời kỳ này.
1.1.1.3. Khái quát về đời sống mãn kinh
Sự xuất hiện của mãn kinh rất khác nhau giữa từng cá thể. Giai đoạn tiền món
kinh ghi dấu ấn khoảng 1 - 5 năm. Trước khi mãn kinh thật sự, xảy ra biểu hiện bất
thường của kinh nguyệt mà thường gặp là thiểu kinh, khoảng cách giữa hai kỳ kinh
nguyệt kéo dài và xuất hiện những khoảng vô kinh. Ở một vài phụ nữ tình trạng rối
loạn kinh nguyệt không xảy ra. Sau khi loại trừ những nguyên nhân khác, người
phụ nữ sẽ được chẩn đoán là mãn kinh khi vô kinh trên một năm (12 tháng) [56],
[61]. Theo Nguyễn Khắc Liêu đề nghị tính là 2 năm (24 tháng) [23].
Ở giai đoạn này có thể gặp những thay đổi gây khó chịu như: bốc hoả, chảy
mồ hôi ban đêm, hồi hộp, chóng mặt, lạnh đầu chi, lo lắng sợ sệt, buồn ngủ ban
ngày, mất ngủ ban đêm được gọi là hội chứng mãn kinh [2], [4], [6], [7], [21],
[22], [23], [25], [5], [56].
Các thay đổi ở bộ phận sinh dục, hình thể dần dần xuất hiện phản ánh
những biến động sâu sắc ở hệ thống nội tiết.
Các rối loạn này có thể rút ngắn cuộc sống của người phụ nữ hay làm giảm
chất lượng cuộc sống trong những năm sau đó.
Mãn kinh trước tuổi 40 được xem là mãn kinh sớm, sau 55 tuổi được xem là
mãn kinh muộn [2], [6], [23], [56], [61].
Phản ứng của người phụ nữ trước tuổi mãn kinh cũng khác nhau và phụ thuộc
một phần vào các yếu tố xã hội, văn hoá. Nhìn chung ở những nơi có nền văn hoá,
dân trí cao, có lối sống năng động, trẻ trung, hiện đại như các nước phương Tây,
mãn kinh được xem là một thảm hoạ bởi sự mất đi tuổi xuân, khả năng sinh sản,
ham muốn tình dục và vẻ đẹp bên ngoài. Trong khi đó ở các xã hội có tính truyền
thống người phụ nữ mãn kinh thường được xem là những người khôn ngoan, chín
chắn, có khả năng đảm nhận những vai trò mới [7]. Với truyền thống lâu đời ở
nước ta người phụ nữ luôn đóng vai trò quan trọng trong lao động xã hội. Bước
vào tuổi mãn kinh, rất nhiều phụ nữ vẫn tiếp tục làm việc và chăm sóc gia đình. Do
đó quan tâm và bảo vệ sức khoẻ cho phụ nữ ở lứa tuổi này là phù hợp với tính

nhân văn cũng phòng trào giải phóng phụ nữ.
1.1.2. Trục vùng dưới đồi - Tuyến yên - buồng trứng
1.1.2.1. Vùng dưới đồi và hormon Gonadotropin Releasing Hormon
* Vùng dưới đồi [12], [42]
- Vùng dưới đồi (Hypothalamus) là một cấu trúc thuộc não trung gian nằm
quanh não thất ba và giữa hệ viền (limbic) vùng dưới đồi có đường liên hệ trực tiếp
theo 2 hướng:
+ Hướng đi lên qua nhiều vùng của não, đặc biệt là vùng đồi thị (thalamus)
trước và vùng vỏ của hệ viền.
+ Hướng đi xuống qua thân não, chủ yếu đến cấu trúc lưới của não giữa cầu
não và hành não.
Ở vùng dưới đồi các neuron tập trung thành nhiều nhóm nhân, tạo nên phần
trước, giữa và sau.
Các neuron ngoài chức năng dẫn truyền xung động thần kinh như các neuron
của các cấu trúc thần kinh khác. Ngoài tham gia vào sự kiểm soát thân nhiệt, chỉnh
hợp nhiều loại quá trình vật lý và hoá học để sinh nhiệt và mất nhiệt là một chức
năng của các trung tâm của não nằm ở vùng dưới đồi [33]. Còn có chức năng tổng
hợp và bài tiết hormon [12].
* Hormon Gonadotropin Releasing Hormon (GnRH) [12, [42]
GnRH được bài tiết từ các tận cùng thần kinh vùng lồi giữa thân của nhưũng
neuron này khu trú ở nhân cung (arcuate nuclei) của vùng dưới đồi:
Có tác dụng kích thích tế bào thuỳ trước tuyến yên bài tiết cả FSH và LH. Tuy
nhiên nhịp bài tiết LH liên quan chặt chẽ với nhịp bài tiết GnRH hơn là FSH.
Điều hoà bài tiết GnRH theo cơ chế feedback: vòng dài do hormone sinh dục
nữ điều khiển, vòng ngắn do FSH và LH điều khiển và vòng cục ngắn do chính
GnRH điều khiển.
1.1.2.2. Tuyến yên và các hrrmon kích thích tuyến sinh dục FSH, LH.
a) Tuyến yên: gồm 2 phần:
Thuỳ trước liên quan với vùng dưới đồi qua đường mạch máu là hệ thống cửa
dưới đồi - yên (hệ cửa popa - Fielding) nú có khả năng tổng hợp và bài tiết

hormone kích thích tuyến sinh dục. Thuỳ sau tạo thành từ tế bào giống như tế bào
thần kinh đệm, không có khả năng chế tiết.
b) Hormon kích thích tuyến sinh dục FSH và LH.
FSH và LH đều được bài tiết từ thuỳ trước tuyến yên.
FSH kích thích các nang noãn dang phát triển, đặc biệt kích thích tăng sinh
lớp tế bào hạt để từ đó tạo thành lớp vỏ (lớp áp) của nang trứng. LH phối hợp với
FSH làm phát triển noãn nang tới chín và gây hiện tượng phó noãn, kích
thíchnhững tế bào hạt và lớp vỏ còn lại phát triển thành hoàng thể, kích thích lớp tế
bào hạt của nang trứng và hoàng thể bài tiết estrogen và progesterone.
Điều hoà tài tiết FSH và LH.
Theo cơ chế feedback âm của estrogen và prpgrsteron, cả estrogen và
progeron đều gây ức chế bài tiết FSH và LH, tuy nhiên khi có mặt của
progesterone thì tác dụng tức chế của estrogen đượcnhõn lên nhiều lần. Estrogen
và progesterone điều hoà bài tiết FSH và LH bằng cách tác dụng trực tiếp lên tuyến
yên, còn tác dụng lên vùng dưới đồi thì yếu, chủ yếu để làm thay đổi nhịp bài tiết
GnRH.
Tác dụng ức chế của Inhibin: Inhibin do tế bào hạt của hoàn thể bài tiết có tác
dụng ức chế bài tiết FSH.
2.1.2.3. Buồng trứng và các hormone sinh dục nữ
Mỗi phụ nữ có 2 buồng trứng, kích thước mỗi buồng trứng trưởng thành là 2,
5 x 5 x 2, 1 cm và nặng từ 4-8g. Các nang noãn của nang trứng ngày càng bị thoái
triển khiến số lượng nang noãn ngày càng giảm đi theo thời gian (theo tuổi già),
những nang chưa bị teo thì dần dần cùng giảm nhạy cảm với FSH và LH của tuyến
yên.
Hormon estrogen [12], [42].
Estrogen có nguồn gốc chủ yếu từ buồng trứng do các tế bào hạt hợp áo trong
nang trứng bài tiết vào nửa đầu chu kỳ kinh nguyệt và nửa sau do hoàng
thể bài tiết. Một lượng rất nhỏ còn có nguồn gốc từ vỏ thượng then, khi có
thai rau thai bài tiết một lượng lớn estrogen.
Có ba loại estrogen tự nhiên là: ừ estradiol, estron và estriol. Trong đó chủ

yếu là ừ ẻtadiol và cũng là loại tác dụng mạnh nhất. Cả ba loại đều là các hợp chất
Steroid và được tổng hợp ở buồng trứng từ cholesterol và cũng có thể từ acetyl -
coenzyme A.
Tác dụng làm xuất hiện bảo tồn các đặc tính sinh dục nữ thứ phát từ tuổi dậy
thì. Bao gồm làm: phát triển các cơ quan sinh dục, phát triển lớp mỡ dưới da, giọng
nói trong, dáng mềm mại, cách mọc lông, tóc [6][12][23][42].
Tác dụng lên tử cung: làm các tế bào biểu mô của niêm mạc tử cung bài tiết
một lớp dịch nhầy loóng và mỏng.
Tác dụng lên vòi trứng: làm tăng sinh mô tuyến của niêm mạc ống dẫn trứng,
các tế bào biểu mô lông rung.
Tác dụng lên âm đạo: làm thay đổi biểu mô âm đạo dạng khối thành dạng
tầng, giúp tăng khả năng chống đỡ với các chấn thương và nhiễm khuẩn, kích thích
các tuyến âm đạo bài tiết dịch a xớt.
Tác dụng lên tuyến vú: làm phát triển hệ thống ống tuyến mô đệm, tăng lắng
đọng mỡ ở vú.
Tác đông lên chuyển hoá: tăng tổng hợp protein, tăng lắng đọng mỡ dưới da,
giảm nồng độ cholesterol toàn phần.
Tác dụng lên xương: làm tăng hoạt động của tế bào tạo xương.
Điều hoà bài tiết estrogen: estrogen bà tiết nhiều hay ít tuỳ thuộc vào nồng độ
LH, LH tăng sẽ kích thích lớp áp trong nang trứng bài tiết estrogen.
Hormon Progesteron [12],[42].
Chính sự tụt giảm nồng độ estrogen thời kỳ mãn kinh đã đưa tới những thay
đổi về cấu trúc cũng như về chức năng để lại nhiều khó khăn ảnh hưởng tới chất
lượng cuộc sống của người phụ nữ ở giai đoạn này. Những biểu hiện lâm sàng của
tuổi mãn kinh thay đổi rát nhiều về mức độ nghiêm trọng và thoài gian xuất hiện.
Một số phụ nữ hoàn toàn không có một triệu chứng gì đáng kể từ sự không tránh
được về chức phận kinh nguyệt. Ở nhưng phụ nữ này những thay đổi về hình thái
và nội tiết chắc chắn tiến triển một cách từ từ, nên các hậu quả hầu như không they
rõ. Ngược hẳn lại có những phụ nữ mà sự thiếu hụt estrogen đột ngột hơn và rõ
ràng hơn, phối hợp với những thay đổi ở đường sunh dục, vú và đôi khi các triệu

chứng khác cùng một lúc với những biểu hiện của tính không ỏn định nghiêm
trọng của bản thân. Chính những người này được gọi là có hội chứng mãn kinh [2],
[7][26][61].
Hội chứng mãn kinh.
Danh từ hội chứng mãn kinh được ding để chỉ một nhóm các triệu chứng mà
một số 70-90% phụ nữ bị mắc trong tuổi mãn kinh bao gồm: Rối loạn thần kinh
thực vật như cơn bốc hoả, vã mồ hôi, hồi hộp, chóng mặt, các dấu chứng tâm lý
như: rối loạn tập trung, giảm ham muốn tình dục…
1.1.4.1. Rối loạn vận mạnh.
Các rối loạn vận mạch sẩy ra ở 75 - 85% phụ nữ mãn kinh. Thường được
nhắc tới là cơn bốc hoả, kèm theo vã mồ hôi và ring mình [2][6][7][49]
Cơn bốc hoả [7], [48], [53].
các phụ nữ đã kinh qua cơ bốc hoả đều nói rằng hiện tượng này xẩy đến rát
bất ngờ, không có báo trước, bất thần họ cảmthấy một cảm giác ấm hay nóng bong
ở một hoặc là từ ngực lan dần lên tới cổ, đầu rồi tới mặt. 9Cảm giác này có thể kéo
dài một vài giây tới một vài phút) và thường hay có kèm theo một cơn đỏ mặt, đôi
khi sau cơn bốc hoả lại ring mình. Bệnh nhân
GnRH ở các phụ nữ có rối loạn sản tuyến sinh dục không được điều trị thì
giống như sự chế tiết này ở các phụ nữ mãn kinh. Hệ thống thần kinh điều khiển sự
chế tiết ra Catecholamin, điều khiển một phần sự tiết ra GnRH.
Nếu người ta cũng nghĩ răng sự huỷ hoại Catecholamin trong chuyển hoá kết
hợp với sự giảm estrogen đã đưa đến các triệu chứng của mãn kinh [7], [23], [48].
Đó là sự liên quan giữa các chất chuyển hoá estrogen 2 - hydrừyl hoá và các
catecholmine… Các catechol estrogen là các chất chuyển hoá chính của estrogen
và ừ estradiol. Những tác động qua lại giữa các estrogen và các catescholmon tại
cấp dưới đồi thị và tuyến yên. Có sự cạnh tranh giữa catechol estrogen với
catecholamine để được mety hoá bởi COMT (catecho - methyl transferase).
Catechlamin và đặc biệt là dopamine và norepinphrin là những chất dẫn
truyền thần kinh, có vẽ như đóng vai trò quan trọng làm thay đổi hoạt động của
vùng dưới đồi tuyến yên, thông qua receptor ỏ2 adrenergic của neuron

noradrenergic. Sự chuyển Ltyroin thành L dopa bởi men đopaminhdrpxylase đã bị
giảm xuống, trong khi MAO (monoaminoxydase) và COMT (catecho - mythyl
transferase) đã tăng hoạtđộng, sự hấp thu catecholamine giảm xuống do tuổi già.
Nhiều nhà nghiên cứu đã gợi ý rằng có một mối liên quan giữa các catechole
estrogen và sự phóng thích ra LH. Sự giảm sút cùng một lúc cả các estrogen và các
catechol estrogen vào lúc mãn kinh có thể làm suy giảm sự chế tiết và chuyển hoá
các catecholamines, lần lượt tiếp theo đến sự giảm chế tiết ra Gonadotropin [1],
[23], [48].
Qua những nhận xét trên người ta thấy tuổi già và những tác động của
estrogen có ảnh hưởng đến chuyển hoá của catecholamine tại não.
Prostaglandin có ở vùng dưới đồi của não cũng có thể đóng vai trò quan trọng
trong bệnh sinh hội chứng mãn kinh qua tác dụng lên cơ trơn của thành mạch. Các
chất ức chế prostaglandin như aspirin và indomethacin ức chế ở sản sinh Gn - RH
vì có nhiều mạch máu ở não, đặc biệt những mạch máu ở vùng dưới đồi đã được
điều khiển bởi các neuron noradrenergic nên không pảhi là không có lý khi nghĩ
rằng sự kích thích các neuron này bởi norepinephin hay prostaglandin có thể gây
co thắt mạch trung tâm dẫn đến tình trạng kích động thần kinh, lo âu, suy sụp, mất
trí nhớ. Tuy nhiên những quan sát trên cần được chứng minh thêm [7], [23].
Tần xuất của triệu chứng bốc hoả rất khác nhau. Theo các báo cáo ở các quốc
gia khác nhau, ví dụ: bốchoả nữ mãn kinh ở Thái Lan, 70% phụ nữ mãn kinh da
trắng [1], [47], [56], [60]. Theo M. Yusoff. Dawood 85% phụ nữ mãn kinh có cơn
bốc hoả với 65% cơn bốc hoả xuất hiện từ 1 - 5 năm, 26% kéo dài từ 6 - 10 năm,
10% kéo dài > 10 năm, phụ nữ 60 - 62 tuổi có 15% nói lại có cơn bốc hoả. THeo
Kronnenberg (1990) có 60% phụ nữ có cơn bốc hoả trong thời gian 7 năm và 15%
trên 15 năm. Mỗi cơn bốc hoả kéo dài trung bình 2, 7 phút, nhưng thường xảy ra ở
1 - 5 phút. Với 17,4% phụ nữ mãn kinh có cơn bốc hoả kéo dài hơn 1 phút, 5,7%
cơn bốc hoả kéo dài hơn 6 phút [1], [41], [48]. Mỗi cơn bốc hoả có liên quan với
sự tăng nhiệt độ, tăng nhịp đập của tim (trung bình 9 nhịp đập/ phút và có thể tới
20 nhịp đập/ phút), tăng hoạt động máu ở tay chân và tăng máu ở ngoài da.
* Đánh trống ngực

Là một triệu chứng khó chịu thường gặp có thể được định nghĩa sau: là một
sự nhận ra nhịp đập của tim, chủ yếu là nhận ra sự thay đổi nhịp tim hoặc tần số
tim hoặc tăng sức co bóp của tim. Đánh trống ngực có thể là một trong những biểu
hiện nổi bật của một đợt lo âu cấp diễn (tr 48 - Harrison [32]. Tuy
[7]. Theo tính chất có lẽ có nhiều khả năng là các cơn đau đầu là biểu hiện
khác của sự rối loạn hệ thống thần kinh thường hay xẩy ra ở người phụ nữ mãn
kinh.
* Tâm tính khí thất thường:
Lúc vui, lúc buồn, hay quên, nhiều khi không làm chủ được khi quyết định
một việc gì dù nhỏ nhặt trong sinh hoạt hằng ngày.
* Mất ngủ [2], [5], [6], [70]:
Người ta dùng từ này để chỉ sự giảm sút về thời gian, độ sâu hoặc hiệu quả
hồi phục của ngủ, là nói bình thường không ngủ được, nhẹ thì muốn ngủ rất khó,
giấc ngủ của bệnh nhân chập chờn dễ bị thức giấc, khó đi vào giấc ngủ, giấc ngủ
không sâu, nặng thì cả đêm không ngủ, hoặc cả ngày ngủ 2 - 3 giờ, sáng ngủ dậy
cảm thấy không thoải mái còn thiếu ngủ, mệt mỏi. Bệnh thường kèm chóng mặt,
đau đầu, hồi hộp hay quên.
* Dê bị kích động:
Bệnh nhân cảm thấy bực mình hoặc nổi cấu dễ dàng hơn trước, nhiều khi
không làm chủ được bản thân.
* Chứng u sầu, lo lắng:
Bệnh nhân có cảm giác chán hoặc buồn vô cớ có khi không cưỡng lại được,
nản lòng về tương lai, khó khắc phục những phiền muộn của bản thân gây lo
lắng…
* Tính yếu đuối và mệt mỏi:
Mệt mỏi cũng là một triệu chứng quan trọng, hay gặp trong hội chứng mãn
kinh. Bệnh nhân thường cảm thấy mệt mỏi, uể oải, không khoan khoái cả tinh thần
và thể hcất, dễ bị mệt mỏi trong lao động trí óc cũng như lao động
trong " Kinh quỹ yếu lược" gọi là tạng bệnh: bách hợp, trong " Phó thanh chủ
nữ khoa" gọi là băng huyết tuổi già. Ước chừng có 75% phụ nữ xuất hiện chứng

trạng này, trong đó có 5 - 10% số người có chứng trạng này cần phải được điều trị
[69].
1.2.2. Bệnh nguyên bệnh sinh [20], [21], [22], [68], [69]
Y học cổ truyền cho rằng, gốc bệnh là từ thận suy, âm dương của thận không
điều hoà, chức năng hai mạch xung nhâm rối loạn, ảnh hưởng đến tạng tâm can tỳ
từ đó phát sinh hàng loạt sự biến hoá bệnh lý. Xuất hiện nhiều chứng hậu, nhưng vì
phụ nữ phải có kinh nguyệt, mang thai, chửa đẻ, sinh nở, đều có liên quan tới
huyết, tương ứng với trạng thái " Âm thường bất túc Dương thường hữu dư" cho
nên lâm sàng phần nhiều là thận âm hư, can uất hoá hoả, bao gồm:
1.2.2.1. Chứng âm hư nội nhiệt [2], [69]
Kinh nguyệt đến sớm, lượng kinh ít hoặc trễ ra nhiều hoặc tắt kinh đột ngột,
đau đầu chóng mặt, bốc hoả ra mồ hôi, mồm khô, tiểu, vàng, táo bón, lưng gối
nhức mỏi, lưỡi đỏ, rêu ít, mạch tế sác
1.2.2.2. Chứng âm hư can vượng [22], [69]
Kinh nguyệt rối loạn, tính tình bứt rứt nóng nẩy, dễ cáu gắt, mắt khô mờ,
chóng mặt đau đầu, ngực sườn đau tức, chân tay run tê rần hoặc cảm giác kiến bò,
lưỡi tía đỏ (rỡa đỏ) mạch huyền sác.
1.2.2.3. Chứng tâm thận bất giao [22], [69]
Rối loạn kinh nguyệt người nóng ra mồ hôi, hồi hộp hay quên, mất ngủ hay
mộng, tư tưởng không tập trung hay buồn vô cớ, lưỡi thon đỏ, ít reu mạch tế sác.
1.2.2.4. Chứng tinh can huyết khô [22], [69]
Trước sau mãn kinh lưng gối dau mỏi, cốt tuỷ đau nhức, nóng trong xương,
đầu choáng váng (mắt hoa) nảy đom đóm mắt, tai ù như ve kêu thậm chí răng lung
lay rồi rung, mất ngủ, kinh nguyệt sau kỳ lượng ít rồi kinh nguyệt chấm dứt, chất
lưỡi đỏ, mạch tế nhược.
1.2.2.5. Thận dương hư [22], [69]
Kinh nguyệt ra nhiều hoặc đến sớm, người mập, chân tay lạnh mát, sợ lạnh,
mệt mỏi hoặc phù, tiểu trong hoặc sún tiểu, lưỡi sắc nhợt, rêu trắng, mạch trầm
nhược, tế nhược.
1.2.2.6. Thận dương thận âm đều hư [22], [69]

Đầu đau chóng mặt, mắt hoa, tai ù, hay mơ, lúc lạnh lúc nóng, ra mồ hôi sợ
gió, mặt nóng từng lúc, lưng lạnh, lưỡi nhạt hoặc đỏ, mạch trầm nhược.
1.2.3. Điều trị theo Y học cổ truyền
Y học cổ truyền điều chỉnh sự mất cân bằng của toàn cơ thể và làm lưu thông
huyết mạch ở vùng bụng dưới, lập lại sự cân bằng âm dương giữa các tạng phủ và
toàn cơ thể. Dùng thuốc Y học cổ truyền tuỳ theo biểu hiện của các thể bệnh, xong
nói chung có thể dùng các thuốc loại bỏ ứ huyết, cdỏc thuốc điều khí, cải thiện
tuần hoàn khí huyết và các thuốc an thần lập lại cân bằng âm dương, thanh nhiệt
trong cơ thể. Có một số bài thuốc như Lục vị hoàn, Kỷ cúc địa hoàng hoàn, Tiêu
dao đan chỉ… để điều trị.
Thuốc Y học cổ truyền có đủ các yếu tố trên để điều chỉnh toàn bộ chức
nưang cơ thể trong nhiều trường hợp, trong đó bài Tiêu dao đan chi thường được
sử dụng trong điều trị hội chứng mãn kinh [16], [20], [22], [68].


Từ lâu trong y học cổ truyền, giựa trên quan sát lâm sàng cũng nhận thấy
người phụ nữ trước và sau khi hết kinh thường xuất hiện những triệu chứng như:
Triều nhịờt, xuất hiện các cơn bốc hoả, mặt nóng đỏ, ra mồ hôi, tinh thần mệt mỏi,
hay hoa mắt chóng mặt, phiền táo, dễ cấu giận, ù tai, mất ngủ, hay hồi hộp đánh
trống ngực, vai lưng đau mổi, lòng bàn chân bàn tay nóng và thường kèm theo rối
loạn kinh nguyệt…tất cả đều có liên quan đến vấn đề hết kinh và gọi là '' kinh đoạn
tiền hậu chứng'' hay là '' tuyệt kinh đường hậu chứng''. Những triệu chứng này xuất
hiện có thể nhiều hoạc ít, số lần xuất hiện và thời gian xuất hiện không theo quy
luật, quá trình bị bệnh có thể dài ngắn khác nhau ( từ vài tháng đến vài năm).
Chững này tương đương với hội chứng mãn kinh của y học hiện đại
1. NGUYấN NHÂN VÀ CƠ CHẾ BỆNH SINH THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN
Sự phát sinh ra hội chứng mãn kinh có liên quan tới đặc điểm sinh lý của
người phủ nữ vòng quanh tuổi 49. Ở thời điểm này thần khí đã suy nhiều, thiên
quý ít dần và theo hướng suy kiệt, hai mạch Xung- Nhâm cũng tử đấy suy yếu dần
đi. Như vậy ở vào khoảng tuổi này người phủ nữ về cơ bản hết khả năng sinh đẻ,

chức năng của các tạng phủ cũng suy giảm dần mà chủ yếu là thần khí suy; thần
suy chủ yếu là tinh, huyệt suy dần nên âm dương mất cân bằng, ảnh hưởng tới sự
hoạt động của các tàng phù khác. Do ' ' thận là góc của tiên thiên'' nên khi ngũ tạng
bị tổn thương, bao dờ cũng ảnh hưởng tới thận, dấn đến chức năng của tang thận bị
suy giảm. Thận dương thận âm mất cân bằng, ảnh hưởng đến sự hoạt động của các
tạng phủ khác như: tâm, can, ty…làm cho biểu hiện lâm sàng của hội chững mãn
kinh rất phức tạp.
Trên thực tế lâm sàng người ta chia hội chững mỏn kinh làm hai thể: thể thận
âm hư và thể thận dương hư.
- Thể thận âm hư: Bẩm tố thận hư huyệt thiếu hoạc ở dai đoạn mãn kinh…
thiên quy dần càn kiệt, tinh huyệt suy giảm. Tròng thời ỳ này thường hay suy tư,
mất ngủ do phần dương âm bị thương tổn hoạc phòng sự không điều độ, tinh huyết
hao tổn; hoạc bệnh huyệt mất huyết làm âm huyệt bị tổn thương.
- Thận dương hư: Bẩm tổ cơ thể suy nhược, thận dương hư suy, khi vào tuổi
tiền mỏn kinh thì thần khí càng hư, lại thêm hay bị kịnh sợ hoạc phòng sự không
điệu độ mà tổn thương thần khí, mệnh môn hoả suy, các tang phụ không được nuôi
dưỡng đầy đủ dẫn đến hội chứng mãn kinh.
2. CÁC THỂ LÂM SÀNG
2.1. Thể thận âm hư tổn
Triệu chững lâm sàng: Bệnh nhân thường chóng mặt, ù tai đau mỏi lưng
gối, triệu nhiệt, thường ra mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt, ngủ ít hay mê, miệng
khô, họng khô, hay có cơn bốc hoả, rối loạn chu kỳ kinh, lượng kinh ít hoạc nhiều,
sắc kinh thường đỏ tươi, lưới đỏ ít rêu, mạch tể sác.
- Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh: Giai đoạn này ở vào lứa tuổi mà thiên
quy đã cạn dần, thận âm không đủ, tinh huyệt đã suy giảm, bề tuỷ không được nuôi
dưỡng nên thường xuất hiện chóng mặt,. ù tai. Lưng là phù của thận, thận chủ cột
sinh tuỷ khi thận hư thì xuất hiện đau mỏi lưng gối. thận thuỷ hư thì không đủ
nhiệt và có cơn bốc hoả; đồng thời thận thuỷ suy cũng không thể đưa thận lên trên
mà dao hoả với tâm, không khác chế tâm hoả sẽ dấn đến tâm thận bõt giao mà dấn
đến ngủ ít hay mê. Thận âm háy gây ra mồ hôi nhịờt làm hao tổn tân dịch hay xuất

hiện ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô, họng khô. Thận hư, thiên quy cạn thất
thường nên chu kì kinh nguyệt bị rối loạn: Lượng kinh lúc nhiều lúc ít, sắc đỏ tươi.
2.2. Thể thân dương hư
Triệu chững lâm sàng: Bệnh nhân xuất hiện chóng mặt, u tài, đau lưng,
người có cảm giác sợ lạnh, chân tay lạnh, tiệu tiện nhiều lần, khí hư ra nhiều, kinh
nguyệt không đều, lượng nhiều hoạc ít, sắc nhợt loóng, tinh thần ủe oải, sắc mặt tối
xạm, lưới nhớt, rêu lưới trắng nhuận, mạch trầm tế trì.
- Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh: trong giai đoạn này thận khí đã dần suy,
thận chủ cột sinh tuỷ, lưng là phủ của thận nên người bệnh đau mỏi lưng, tinh tuỷ
thiếu nên tạng phủ không được nuôi dưỡng đầy đủ mà xuất hiện chóng mặt ú tai.
Thận hư dương nên hạ tiểu không được ôn ấm nên dấn đến người lạnh, bàng quang
khí hoả thất thường nên cho người bệnh đi tiểu nhiều lần. Đông thời còn làm thuỷ
thập dễ bị đình ngưng ở bên trong đưa xuống Xung- Nhâm làm tổn thương đới
mạch dấn đến đới mạch bất cố làm khí hư ra nhiều. Thận dương còn làm mạch
Xung- Nhâm không được nuôi dướng nên kinh huyệt không đều, lượng nhiều hoạc
ít. Huyết không được dương khí ôn hoà nên sắc nhợt mà loóng. Thận giảm, không
lưu chuỳờn đi được toàn thân nên người và tay chân lạnh, tinh thần uể oải. Thận
chủ màu đen, thận dương hư làm thận thuỷ tràn lên làm sác mặt tối xạm; lưỡi nhợt,
rêu lượi trắng mạch trầm tế trì là biệu hiện của thận dương hư suy.

×