Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐOÀN kết dân tộc TRONG QUẢN LÝ, BẢO vệ CHỦ QUYỀN AN NINH BIÊN GIỚI QUỐC GIA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.4 KB, 24 trang )

1

ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG QUẢN LÝ, BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN AN NINH Ở KHU VỰC BIÊN GIỚI
NƯỚC TA HIỆN NAY
Việt Nam là quốc gia có đường biên giới trên bộ và trên biển với nhiều
quốc gia láng giềng và trong khu vực như Trung Quốc, Lào, Campuchia và một
số nước Đông Nam Á. Biên giới trên đất liền nước ta có chiều dài gần 5.000 km,
tuyến biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc dài 1.400 km, biên giới Việt
Nam với Lào dài 2.340 km, biên giới Việt Nam với Campuchia dài 1.137 km.
Địa bàn biên giới nước ta có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nhưng địa hình
biên giới chủ yếu là rừng núi, giao thông đi lại khó khăn. Đây là nơi cư trú, sinh
sống, làm ăn lâu đời của đồng bào các dân tộc nước ta, chủ yếu là các dân tộc
thiểu số. Đồng bào các dân tộc gắn bó với biên giới quốc gia, có sự hiểu biết về
môi trường địa lý, điều kiện tự nhiên; có mối quan hệ gần gũi với các dân tộc
anh em cùng chung sống trên địa bàn không chỉ trong lãnh thổ biên giới quốc gia
mà còn có mối quan hệ với các dân tộc bên kia biên giới trên nhiều phương diện.
Trong thời bình, cũng như thời chiến, với mối quan hệ hữu nghị hợp tác hay
trong những biến cố bất thường xảy ra, đồng bào các dân tộc luôn có vai trò đặc
biệt quan trọng cùng với các lực lượng đứng chân trên địa bàn giải quyết các vấn
đề ổn định chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Giải quyết vấn đề dân tộc trong
quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, đặc biệt quan trọng trong điều kiện của một quốc gia đa dân tộc, là vấn đề có
tính lịch sử và thời sự hiện nay ở nước ta hiện nay


2

I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH DÂN TỘC VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
TA VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC


1. Đặc điểm tình hình dân tộc ở nước ta
Theo số liệu công bố năm 1979, nước ta gồm 54 thành phần dân tộc anh em,
trong đó có một dân tộc đông dân nhất gọi là dân tộc đa số (dân tộc Kinh) chiếm
(85,72%, năm 2009) và 53 dân tộc thiểu số (chiếm 14,28%, năm 2009). Ngoài
người Kinh, trong đó có 5 dân tộc có số dân trên 1 triệu là Tày, Thái, Mường,
Khơ me và H’mông; 14 dân tộc có số dân hàng chục vạn (từ trên 10 vạn đến trên
96 vạn) là Mnông, Raglay, Hrê, Sán Dìu, Xơ Đăng, Cơ Ho, Chăm, Sán Chay, Ba
na, Ê đê,Gia Rai, Dao, Hoa, Nùng; 18 dân tộc có dân số hàng vạn (từ trên 1 vạn
đến hơn 8,5 vạn) là Phù La, Kháng, La Chí, Lào, Chu Ru, Hà Nhì, Xinh Mun,
Chơ Ro, Co, Giẻ Triêng, Mạ,Tà Ôi, Giáy, Cơ Tu, Bru-Vân Kiều, Khơ mú, Thổ,
Xtiêng; 11 dân tộc có số dân hàng ngàn (từ trên 1 ngàn đến trên 9,5 ngàn) là
Cống, Bố Y, Cơ Lao, Mảng, Lô Lô, Chứt, Ngái, Lự, Pà Thẻn, La Ha, La Hủ; 5
dân tộc có dân số hàng trăm (từ trên 3 trăm đến trên 7 trăm người) là Ơ Đu,
Brâu, Rơ Măm, Pu Péo và Si La. Đặc điểm
54 thành phần dân tộc anh em ở nước ta có quá trình gắn bó lâu đời trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Xuất phát từ hoàn cảnh xã hội, điều kiện kinh
tế và nhu cầu chống ngoại xâm hình thành sớm trong lịch sử dân tộc, các dân tộc
ở nước ta sớm đoàn kết, chung lưng đấu cật tạo dựng non sông gấm vóc, đấu
tranh giữ gìn nền độc lập dân tộc… Đồng bào vùng biên cương luôn là “phên
dậu” của đất nước. Từ khi có Đảng, truyền thống yêu nước đó được tập hợp phát
huy tạo thành sức mạnh trong thời đại mới tiếp tục làm vẻ vang truyền thống
đoàn kết, yêu nước lâu đời của các dân tộc nước ta.


3

Các dân tộc Việt Nam sống xen kẽ nhau. Hình thái cư trú xen kẽ là một đặc
điểm nổi trội trong lịch sử cũng như hiện tại trong đời sống của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh phát triển mới của đất nước, hình thái cư trú
xen kẽ ngày càng phát triển giữa các dân tộc thiểu số với thiểu số, thiểu số với đa

số. Đó là xu thế khách quan tạo nên môi trường cho sự giao lưu văn hoá, hoà hợp
và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau,
phát triển kinh tế và đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên nếu không chú ý đúng mức đến
sự bình đẳng, tương trợ, đến lợi ích dân tộc…thì chính sự cư trú xen kẽ trên cũng
là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn dân tộc.
Các dân tộc ở nước ta có trình độ phát triển không đồng đều. Đó là một
thực trạng khách quan do lịch sử để lại. Sự không đồng đều trước hết là về dân
số. Dân số còn là cộng đồng dân cư về văn hoá, nó không chỉ là số lượng dân cư
mà còn là môi trường để cho các yếu tố văn hoá tồn tại mạnh mẽ hay bị nguy cơ
đồng hoá tự nhiên. Có tộc người hàng chục triệu, hàng triệu; có tộc người hàng
chục vạn, hàng vạn; nhưng cũng có tộc người hàng ngàn, hàng trăm người. Trình
độ phát triển kinh tế-xã hội của các tộc người cũng rất khác nhau. Các tộc người
có dân số đông, môi trường cư trú, điều kiện tự nhiên thuận lợi (như đồng bằng
ven biển, thung lũng…) thì đời sống kinh tế và các yếu tố xã hội phát triển hơn
các tộc người dân số ít, cư trú ở vùng sâu, vùng xã vùng biên giới. Đây là vấn đề
cơ bản và là câu hỏi lớn đặt ra cho công tác dân tộc ở nước ta.
Mỗi dân tộc ở nước ta có bản sắc văn hoá riêng tạo nên tính đa dạng trong
tính thống nhất của văn hoá quốc gia Việt Nam. Sự đa dạng về bản sắc văn hoá
cũng là sản phẩm của lịch sử phát triển của các cộng đồng người ở nước ta. Bản
sắc văn hoá của các dân tộc ở nước ta biểu hiện qua hệ thống các giá trị văn hoá
vật thể và phi vật thể (như kiến trúc, trang phục, đồ dùng sinh hoạt, công cụ sản


4

xuất, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội, tâm lý, tình cảm, phong tục tập quán, văn học
nghệ thuật…). Trong quá trình phát triển của quốc gia, các yếu tố văn hoá đa
dạng đó của các tộc người cũng đã tạo nên tính thống nhất của văn hoá quốc gia
(như về ngôn ngữ, chữ viết, lối sống mới, ý thức quốc gia, luật pháp, quản lý
hành chính…).

2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Các dân tộc trong nước bình đẳng,
đoàn kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng
như hiện tại, vấn đề dân tộc là vấn đề lớn và việc nhận thức và giải quyết đúng
đắn vấn đề này có ảnh hưởng lớn tới sự ổn định và phát triển của quốc gia và
tính bền vững của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - động lực cơ bản của sự phát
triển đất nước.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt nền móng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề dân tộc được C.Mác và Ph.Ăngghen
xem là một bộ phận của hệ vấn đề dân tộc và giai cấp, tức là các ông xem xét
vấn đề dân tộc dưới góc độ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp
tư sản. Các ông nhấn mạnh rằng: xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình
trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Đến V.I.Lênin, vấn đề
dân tộc được đặt ra một cách trực tiếp khi Người và Đảng Bônsêvích lãnh đạo
Cách mạng Tháng Mười vĩ đại và sau đó, lãnh đạo công cuộc bảo vệ thành quả
cách mạng, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin đã đề ra các nguyên
tắc cho việc giải quyết vấn đề dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc, trong đó
Người đặc biệt nhấn mạnh về quyền bình đẳng và quyền tự quyết của tất cả các
dân tộc, chống mọi đặc quyền của bất kỳ dân tộc nào đối với dân tộc khác,
không thừa nhận quan hệ có tính chất áp đặt giữa các dân tộc.


5

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dựa trên những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta
đã coi trọng và làm tốt chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc, góp phần làm
nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng. Công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, những thời cơ và thách thức mới cùng với những tác động từ bên ngoài và
cả những vấn đề nảy sinh trong nước đòi hỏi vấn đề dân tộc phải được nhận thức

ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn.
Ngay từ trước đổi mới, tại Đại hội IV - Đại hội đầu tiên khi đất nước thống
nhất sau 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc với sự huy động sức
mạnh của toàn dân tộc trong đó đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những đóng
góp hết sức to lớn cho cách mạng và kháng chiến, Đảng ta đã khẳng định “việc
giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất
chiến lược của cách mạng Việt Nam”. Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện
triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần
thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa dân tộc ít
người và dân tộc đông người, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ, cùng làm
chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Và để thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng, vấn đề mấu chốt là đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, ra sức phát triển
kinh tế và văn hóa ở các vùng dân tộc, phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, xây
dựng các vùng kinh tế mới, các khu công nghiệp, mở mang giao thông vận tải và
thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, khoa
học, y tế, thể dục thể thao, bảo vệ bà mẹ và trẻ em..… nhanh chóng nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc ít người, đặc biệt chú trọng
vùng cao và vùng biên giới. Tiếp đó, Đại hội lần thứ V của Đảng nhấn mạnh


6

việc “phải tăng cường hơn nữa khối đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình
đẳng, tương trợ và cùng làm chủ tập thể”.
Đại hội VI của Đảng là Đại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn điện đất
nước. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”, Đại hội đã đánh giá những thành tựu đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội V của Đảng, thẳng thắn chỉ ra những khó khăn, thách thức, nêu rõ
những sai lầm, khuyết điểm và rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu. Về

vấn đề dân tộc, Đại hội khẳng định, “chính sách dân tộc luôn luôn là một bộ
phận trọng yếu trong chính sách xã hội”. Đồng thời, Đại hội nhấn mạnh rằng, sự
phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng
đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất
là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu
thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc.
Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và là một lĩnh vực nhạy
cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có thái độ thận trọng đối với
những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi người.
Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những biểu
hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi.
Sau Đại hội VI, trước những yêu cầu đòi hỏi của thực tế vùng dân tộc và
miền núi, ngày 27/11/1989, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 22-NQ/TW về một số
chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi đã góp phần thúc
đẩy phát triển một bước quan trọng kinh tế - xã hội miền núi và các vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
Tình hình thế giới những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
XX có những biến động to lớn. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ gây


7

bất lợi cho phong trào cách mạng thế giới trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh
đó, Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ VII. Đại hội VII của Đảng đã tổng kết việc
thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, hoàn chỉnh, bổ sung và phát triển các chủ
trương đổi mới của Đại hội VI, đề ra các phương hướng, nhiệm vụ lớn cho 5
năm 1991 - 1995 và đặc biệt thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Điểm mới trong văn kiện Đại hội VII là ở chỗ, lần đầu tiên, chính sách bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc đã được Đảng ta đưa vào trong Cương

lĩnh của Đảng với tên gọi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh ghi rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên
con đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam”. Đại hội cũng khẳng định chính sách đoàn kết, bình
đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính
sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định việc phải có chính sách
phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và
đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác
được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước. Trên cơ sở các quan điểm cơ bản của Đảng về vấn
đề dân tộc, Hiến pháp 1992, một lần nữa, khẳng định về quyền bình đẳng giữa
các dân tộc ở nước ta.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội VII, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go, đã có
những thay đổi to lớn và sâu sắc so với thời kỳ bắt đầu đổi mới. Đại hội VIII của


8

Đảng diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử đó. Đại hội khẳng định: “Công
cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991 - 1995 đã được
hoàn thành về cơ bản”. Về vấn đề dân tộc, Đại hội nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc
có vị trí chiến lược lớn”. Thực hiện “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ” giữa các
dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những khó khăn của đồng bào
các dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng cao, đó là: “điều kiện sống và dịch
vụ, hạ tầng cực kỳ khó khăn, đất nông nghiệp thiếu, chưa đủ điều kiện tiến lên

sản xuất hàng hóa; GDP bình quân đầu người năm 1994 chỉ bằng 31% mức
trung bình cả nước. Mật độ đường giao thông chỉ có 0,09km/km2, còn 464 xã
chưa có đường ô tô đến”. Trước thực tế đó, Đại hội đã đề ra chương trình phát
triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc với mục tiêu khai thác
mọi nguồn lực ở địa phương và huy động sức của cả nước để tạo bước tiến
nhanh hơn về kinh tế - xã hội, ổn định đời sống, cải thiện môi trường, môi sinh.
Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với tốc độ bằng hoặc cao hơn mức bình quân chung
của cả nước; năm 2000 GDP bình quân đầu người đạt gấp đôi năm 1994. Các
khu vực miền núi và vùng đồng bào dân tộc đều phải có bước phát triển, khu vực
có điều kiện thuận lợi phải phát triển với tốc độ cao hơn để thúc đẩy, hỗ trợ các
khu vực khác cùng phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát
triển xã hội - văn hóa, bảo đảm an ninh - quốc phòng, phấn đấu giảm bớt khoảng
cách giữa các vùng về mặt tiến bộ xã hội. Đồng thời, Đại hội đã đề ra các nhiệm
vụ cụ thể về phát triển công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp nhỏ, thủ
công nghiệp, nông - lâm nghiệp, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ và đưa
ra các giải pháp chủ yếu để đạt mục tiêu nói trên trong đó nhấn mạnh việc nhà


9

nước phải có biện pháp tập trung vốn ngân sách đầu tư theo chương trình tổng
hợp và có sự chỉ đạo chặt chẽ giúp cho khu vực miền núi, vùng cao, vùng sâu
phát triển nhanh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế
kỷ XX vừa kết thúc, thế kỷ XXI vừa bắt đầu. Toàn Đảng và toàn dân ta đã trải
qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, 10 năm thực
hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 và 15 năm đổi
mới. Đại hội IX đã kiểm điểm và đánh giá những thành tựu và khuyết điểm thời
gian qua, đề ra những quyết sách cho thời kỳ tới, phấn đấu nâng cao hơn nữa
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, động viên và phát huy sức mạnh

toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, vững bước đi vào thế kỷ mới.
Những năm đầu thế kỷ XXI, các thế lực thù địch ra sức lợi dụng những khó
khăn và hạn chế của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên để dụ
dỗ, lôi kéo đồng bào phá hoại khối đoàn kết dân tộc ở nước ta. Đại hội IX của
Đảng đặc biệt chú trọng vấn đề dân tộc và cụ thể hóa nhiều nội dung mới ở chỗ,
nếu như Đại hội VIII coi vấn đề dân tộc là “vấn đề có vị trí chiến lược lớn” thì
Đại hội IX khẳng định thêm: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn
có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Đảng ta phải thực hiện tốt
chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển;
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn,
làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc;
thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc
biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và


10

kháng chiến; Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc
hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc.
Cụ thể hóa tư tưởng chiến lược được nêu trong Nghị quyết Đại hội IX và nâng
cao hơn nữa nhận thức của các cấp, các ngành về công tác dân tộc, Hội nghị lần
thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (phần hai) đã ban hành Nghị
quyết về công tác dân tộc. Điều này, một mặt, thể hiện sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số và mặt khác cho thấy việc giải
quyết vấn đề dân tộc đang là sự đòi hỏi cấp thiết và cần phải có những chỉ đạo
kịp thời. Nghị quyết về công tác dân tộc đã đánh giá tình hình các dân tộc thiểu
số và công tác dân tộc trong thời gian qua, những thành tựu cơ bản cùng với
những hạn chế, yếu kém và nhất là đề ra những giải pháp chủ yếu để khắc phục

những hạn chế, yếu kém đó. Nghị quyết khẳng định năm quan điểm cơ bản trong
việc thực hiện công tác dân tộc ở nước ta: 1) Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc
là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay
của cách mạng Việt Nam; 2) Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia
rẽ dân tộc; 3) Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với
giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát
triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc
thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống
nhất; 4) Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,


11

trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm
nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo
vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường
của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung
ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước; 5) Công tác dân tộc và
thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
Hiện thực hóa những quan điểm, giải pháp được nêu trong Nghị quyết Hội
nghị lần thứ bảy là việc các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng
đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai đã tạo đà quan trọng cho sự phát triển
và làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Qua đó cho thấy những đổi thay trong thực tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số
được bắt nguồn từ chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc đúng đắn của

Đảng và Nhà nước ta.
Tiếp tục tư tưởng của Nghị quyết về công tác dân tộc được thông qua tại
Hội nghị lần thứ bảy, khóa IX, Đại hội X khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn
kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội nhấn mạnh việc Đảng và Nhà nước phải tiếp tục chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc
đồng thời thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng


12

sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; Chống các biểu hiện kỳ
thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc.
Sau 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2001- 2010 cũng là lúc Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ XI. Đây là
Đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ
XXI nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề dân tộc tiếp tục được Đại hội XI của Đảng quan tâm. Báo cáo chính
trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng của nước ta”. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình

đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn
mạnh: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau
giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật
thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư
tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với
đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”. Hiện nay,


13

Nghị quyết của Đại hội XI trong đó có vấn đề dân tộc đang được các cấp, các
ngành liên quan triển khai trong thực tế, đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Như vậy, xuyên suốt trong các nghị quyết của Đảng là tư tưởng khẳng định
sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc ở nước ta, chống mọi sự kỳ
thị, chia rẽ dân tộc. Dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng, với những chương
trình đầu tư đồng bộ và có trọng điểm, miền núi và vùng đồng bào dân tộc đã có
những đổi thay mạnh mẽ, vươn lên cùng với sự phát triển chung của đất nước
II. TÍNH TẤT YẾU ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ VAI TRÒ BỘ ĐỘI
BIÊN PHÒNG XÂY DỰNG ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở KHU VỰC BIÊN
GIỚI NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 Tính tất yếu đoàn kết dân tộc trong quản lý bảo vệ chủ quyền an
ninh ở khu vực biên giới
Khu vực biên giới nước ta có 1.029 xã, phường, thị trấn/218 huyện, thị
thuộc 44 tỉnh (thành phố); dân số gần 8 triệu người; gồm 49 thành phần dân tộc,
có 8 tôn giáo. Địa bàn biên giới nước ta có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng,
chủ yếu là rừng núi, giao thông đi lại khó khăn. Đây là nơi cư trú, sinh sống, làm

ăn lâu đời của đồng bào các dân tộc nước ta, chủ yếu là các dân tộc thiểu số.
Những năm qua, khu vực biên giới đã được Đảng, Nhà nước và các địa phương
quan tâm đầu tư phát triển về nhiều mặt. Tuy nhiên, do đặc điểm địa lý, lịch sử
để lại nên cơ sở hạ tầng, đời sống nhân dân khu vực biên giới vẫn còn nhiều khó
khăn. Hệ thống chính trị cơ sở đang trong quá trình xây dựng và củng cố. Năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng ở nhiều nơi còn yếu; số lượng, chất
lượng đảng viên ở các xã vùng sâu, vùng xa còn thấp; công tác phát triển đảng
viên là người dân tộc còn nhiều khó khăn; còn nhiều thôn, bản trắng đảng viên
và chưa đủ đảng viên để thành lập chi bộ. Năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành


14

và trình độ văn hóa của đội ngũ cán bộ cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc Mông và
vùng đồng bào dân tộc Tây Nguyên còn hạn chế. Do đó, công tác quản lý hành
chính về an ninh trật tự, xử lý giải quyết các vụ việc xảy ra ở địa phương còn sơ
hở, lúng túng, hiệu quả thấp, nhất là các vụ việc liên quan đến chính sách dân
tộc, tôn giáo.
Tình hình kinh tế, xã hội mặc dù đã được cải thiện, nâng lên, song tỷ lệ
đói nghèo, thiếu đất sản xuất còn cao; tình trạng di, dịch cư diễn biến phức tạp,
bên cạnh mục đích di cư vì kinh tế và tập quán còn bị lợi dụng cho mục đích
chính trị. Cơ sở hạ tầng đã được đầu tư phát triển, song nhiều công trình chất
lượng, hiệu quả sử dụng thấp. Văn hóa, giáo dục, y tế trong vùng đồng bào các
dân tộc ở khu vực biên giới còn thấp; tỷ lệ mù chữ và tái mù chữ cao, các cơ sở y
tế mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Nhiều
phong tục, tập quán lạc hậu vẫn được coi trọng và duy trì, bên cạnh đó, một số
hoạt động văn hóa truyền thống mang bản sắc văn hóa dân tộc đang ngày bị mai
một, biến dạng và mất dần. Các hoạt động văn hóa, sinh hoạt cộng đồng không
được duy trì thường xuyên như trước, đáng chú ý hiện nay, một bộ phận không
nhỏ học sinh, thanh niên vùng đồng bào các dân tộc ít người bị tác động của lối

sống thực dụng, không giữ được phong tục, tập quán và văn hóa truyền thống
của dân tộc mình, dễ bị các đối tượng lợi dụng, mua chuộc, lôi kéo.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hoạt động của các loại
tội phạm ở khu vực biên giới và những vấn đề an ninh phi truyền thống như biến
đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường... đang tiềm ẩn và tạo ra
những khó khăn lớn cho việc ổn định dân cư, phát triển kinh tế của địa phương.
Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn


15

lật đổ, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ; lợi dụng đặc điểm lịch sử xã
hội, đời sống kinh tế khó khăn, trình độ nhận thức còn hạn chế của đồng bào để
chống phá cách mạng nước ta, chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong thời bình, cũng như thời chiến, với mối quan hệ hữu nghị hợp tác
hay trong những biến cố bất thường xảy ra, đồng bào các dân tộc luôn có vai trò
đặc biệt quan trọng cùng với các lực lượng đứng chân trên địa bàn giải quyết các
vấn đề ổn định chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Do đó đoàn kết dân tộc
trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, đặc biệt quan trọng trong điều kiện của một quốc gia đa dân tộc, là vấn
đề có tính lịch sử và thời sự hiện nay ở nước ta.
Trong lịch sử, các nhà nước phong kiến nước ta coi trọng vấn đề chủ
quyền biên giới quốc gia và có nhiều chính sách mềm dẻo, linh hoạt song không
nhượng bộ về nguyên tắc đối với các thế lực ngoại bang để bảo vệ, ổn định
“phên dậu” của đất nước. Một trong những thành công của ông cha ta là bên
cạnh chính sách mềm dẻo đối với các quốc gia láng giềng, còn thực hiện tốt
chính sách với các tù trưởng và các dân tộc vùng biên giới.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với bối cảnh tình hình quốc tế mới, khi
các vấn đề dân tộc và tôn giáo bị các thế lực thù địch lợi dụng để gây mất ổn
định chính trị, chủ quyền, an ninh biên giới…thì vấn đề quản lý, bảo vệ chủ

quyền, an ninh biên giới quốc gia càng trở nên vô cùng quan trọng. Chủ quyền,
an ninh biên giới là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của an ninh quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Khu vực biên giới nước ta là địa bàn chiến
lược về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh... có vị trí rất quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khu vực miền núi biên giới còn là


16

cái nôi của dân tộc và cũng là cái nôi của cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá
trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và trong mỗi bước đi của cách mạng Việt
Nam, đồng bào các dân tộc thiểu số đó luôn luôn cùng nhân dân cả nước một
lòng thủy chung son sắt theo Đảng và Bác Hồ, cống hiến công sức, máu xương
cho sự nghiệp chung, giành được những thắng lợi vĩ đại. Các dân tộc ở khu vực
miền núi biên giới là vùng đa dân tộc sống xen kẽ có những ngôn ngữ và bản sắc
văn hóa riêng nhưng rất gắn bó với nhau trong suốt chiều dài dựng nước và giữ
nước. Đây là một truyền thống quý báu của các dân tộc Việt Nam là khuynh
hướng chủ đạo trong quan hệ các dân tộc ở nước ta ở vùng núi biên giới, một số
dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc của các nước láng giềng, nên tất yếu có
nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ở hai bên
biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta không chỉ vì lợi
ích các dân tộc ít người mà còn vì lợi ích của cả nước, không chỉ là đối nội mà
còn là đối ngoại, không chỉ về kinh tế - xã hội, mà cả về chính trị, an ninh, quốc
gia
2. Bộ đội Biên phòng xây dựng đoàn kết dân tộc tham gia quản lý bảo
vệ chủ quyền an ninh ở khu vực biên giới hiện nay.
Thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia,
công tác vận động quần chúng của Bộ đội Biên phòng không ngừng được phát
huy, góp phần quan trọng để tổ chức tuyên truyền vận động, huy động sức mạnh
đoàn kết của toàn dân tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới và

xây dựng biên giới ngày càng vững mạnh.
Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, công tác vận động quần chúng tiếp tục
được quan tâm và coi trọng; bám sát các chủ trương của Đảng, Nhà nước để thực
hiện nhiệm vụ xây dựng, quản lý và bảo vệ biên giới. Trong phân giới cắm mốc


17

tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Campuchia và tăng dày, tôn
tạo mốc quốc giới tuyến Việt Nam - Lào, trong phòng chống các loại tội phạm ở
khu vực biên giới, xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị quần chúng nhân dân
có vai trò và đóng góp hết sức to lớn của công tác vận động quần chúng.
Trước diễn biến tình hình trên các tuyến biên giới, để hoàn thành tốt
nhiệm vụ chính trị quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới
quốc gia, giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới,
Bộ đội Biên phòng đã chủ động đề ra nhiều chủ trương, biện pháp, giải pháp tích
cực lãnh đạo triển khai các biện pháp công tác biên phòng, trong đó có công tác
vận động quần chúng, phát huy vai trò sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân
trong xây dựng và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới. Vì vậy, công tác vận
động quần chúng đã đạt được một số kết quả tích cực
Công tác tuyên truyền vận động quần chúng đã tích cực tuyên truyền nâng
cao nhận thức trách nhiệm của quần chúng nhân dân trong xây dựng, quản lý bảo
vệ biên giới. Công tác tuyên truyền nhân dân đã được cấp ủy, chỉ huy các đơn vị
thường xuyên coi trọng, luôn bám sát hướng dẫn của trên, tình hình thực tế ở địa
bàn và nhiệm vụ của đơn vị. Cấp ủy, chỉ huy các đơn vị đã tập trung tuyên
truyền cho cán bộ và nhân dân, các lực lượng ở khu vực biên giới chấp hành tốt
các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nhất là các
chính sách, văn bản pháp luật liên quan đến quản lý, bảo vệ biên giới, các vấn đề
về chủ quyền biển, đảo về công tác phân giới, cắm mốc, âm mưu, phương thức,
thủ đoạn hoạt động của bọn phản động lợi dụng dân tộc, tôn giáo và hoạt động

của các loại tội phạm.


18

Công tác vận động quần chúng đã chủ động tham mưu cho địa phương
xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh: Tập trung tham mưu cho
cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt
động của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở; phát hiện, bồi
dưỡng, tạo nguồn cán bộ là người dân tộc tại chỗ. Bên cạnh đó, BĐBP các tỉnh
đã tăng cường cán bộ cho các xã biên giới đặc biệt khó khan, đồng thời giới
thiệu cán bộ, đảng viên ở các đồn Biên phòng về sinh hoạt Đảng tại các chi bộ
thôn, bản phức tạp về an ninh trật tự để tăng cường vai trò lãnh đạo của tổ chức
cơ sở Đảng và xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh; đẩy mạnh công tác
phát triển Đảng, xóa các thôn, bản trắng về đảng viên, kiện toàn tổ chức đoàn thể
và xây dựng đội ngũ cán bộ tại chỗ.
Công tác vận động quần chúng đã tổ chức các hoạt động giúp các địa
phương phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Các đơn vị đã
chỉ đạo triển khai nhiều mô hình giúp dân phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
củng cố quốc phòng - an ninh, một số mô hình đã mang lại lợi ích kinh tế cho
nhân dân, góp phần xóa đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế cho các hộ gia
đình. Tổ chức đợt vận động “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo” đã
mang lại những kết quả đáng khích lệ, giúp đồng bào các dân tộc ở khu vực biên
giới an cư lập nghiệp, có điều kiện phát triển kinh tế, cải thiện cuộc sống. Bộ đội
Biên phòng đã tham gia tích cực trong thực hiện công tác y tế và giáo dục ở địa
bàn khu vực biên giới: Tổ chức khám chữa bệnh, cấp phát thuốc miễn phí cho
nhân dân, mở các lớp học xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và nhiều hoạt
động khác có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc. Hình ảnh “Người thầy thuốc quân
hàm xanh”, “Người thầy giáo quân hàm xanh”, “Người cán bộ xã mang quân
hàm xanh”, “Chiến sỹ văn hóa mang quân hàm xanh”… đã in đậm trong lòng



19

đồng bào các dân tộc, được cấp ủy, chính quyền địa phương và đồng bào các dân
tộc đánh giá cao và ghi nhận.
Công tác vận động quần chúng đã xây dựng được phong trào quần chúng
tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh trật tự ở khu vực biên giới. Quán
triệt quan điểm “Sự nghiệp cách mạng là của dân, do dân, vì dân”, các đơn vị đã
tích cực tổ chức triển khai thực hiện các phong trào “Quần chúng nhân dân tham
gia tự quản đường biên, mốc quốc giới và giữ gìn an ninh trật tự ở khu vực biên
giới”, “Tổ tàu thuyền an toàn”, “Nghĩa tình biên giới hải đảo”, “Thanh niên xung
kích bảo vệ biên giới”, “Già làng, trưởng bản gương mẫu”… đã có nhiều phong
trào, mô hình mới, cách làm hay mang lại hiệu quả thiết thực trong quản lý, bảo
vệ biên giới.
Công tác vận động quần chúng đã phát huy sức mạnh tổng hợp của các
cấp, các ngành, các lực lượng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ biên giới. Bộ
Tư lệnh và các đơn vị cơ sở đã phối, kết hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban,
ngành, lực lượng từ Trung ương đến địa phương trong thực hiện các chương
trình, dự án, chính sách đầu tư, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đối với khu
vực biên giới. Chương trình phối hợp với: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch; Bộ
Giáo dục - Đào tạo; Bộ Y tế; Ban Tôn giáo Chính phủ; Ủy ban Dân tộc; Hội
Liên hiệp Phụ nữ; Hội Nông dân; Hội Người cao tuổi... Các chương trình phối
hợp đã huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân hướng về biên giới, góp phần
củng cố cơ sở hạ tầng, từng bước xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho
nhân dân; phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở khu vực biên giới ngày một đi lên.


20


Công tác vận động quần chúng tuy đã đạt được một số kết quả rất tích cực
trên đây, góp phần cùng các biện pháp công tác biên phòng xây dựng khu vực
biên giới vững mạnh toàn diện, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới
quốc gia, song nhìn lại một cách toàn diện công tác vận động quần chúng còn có
những tồn tại, bất cập nhất định. Công tác nắm tình hình, công tác tuyên truyền,
vận động nhân dân, xây dựng các phong trào quần chúng còn thiếu chiều sâu.
Công tác tham mưu xây dựng cơ sở chính trị ở vùng đồng bào dân tộc, vùng tôn
giáo còn hạn chế. Tình hình tranh chấp, khiếu kiện, an ninh nông thôn, hoạt động
của tội phạm ma túy ở một số địa bàn còn phức tạp. Công tác xây dựng lực
lượng chuyên trách làm công tác vận động quần chúng còn nhiều bất cập. Việc
sắp xếp, bố trí cán bộ làm công tác vận động quần chúng chưa được quan tâm
đúng mức, thiếu ổn định và chưa có quy hoạch lâu dài. Phương pháp, tác phong
công tác của đội ngũ cán bộ vận động quần chúng ở cơ sở còn biểu hiện hành
chính hóa, chưa thực sự sâu sát, gần gũi quần chúng.
Trong tình hình mới, cùng với việc quan tâm của Đảng, Nhà nước tăng
cường đầu tư cho vùng miền núi dân tộc, trong đó có biên giới, hải đảo, địa bàn
biên phòng đã và đang có nhiều khởi sắc, bộ mặt khu vực biên giới có bước phát
triển nhanh chóng, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện nâng lên. Theo đó,
đối tượng của công tác vận động quần chúng không ngừng mở rộng, dân cư tăng
lên, dân trí cao hơn. Đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề như hoạt động của các
loại tội phạm; hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các dự án
phát triển kinh tế, xã hội ở khu vực biên giới; công tác bảo vệ tài nguyên, môi
trường, lợi ích quốc gia và yêu cầu nhiệm vụ công tác biên phòng trong tình hình
mới ngày một cao hơn. Nhiệm vụ đặt ra đối với công tác vận động quần chúng
ngày càng toàn diện, đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, an


21


ninh biên giới của Tổ quốc trong mọi tình huống. Đây là nhiệm vụ cần phải tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành thường xuyên, liên tục. Để đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới, Bộ đội Biên phòng cần:
Tăng cường phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, các lực lượng
đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhân dân ở khu vực biên giới, xây
dựng trận địa lòng dân và khối đại đoàn kết các dân tộc vì chủ quyền an ninh
biên giới quốc gia.
Nâng cao chất lượng hiệu quả các chương trình phối hợp với các ngành,
các địa phương thực hiện tốt “Ngày Biên phòng toàn dân”, tích cực tham gia các
chương trình xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, ổn định đời sống
nhân dân vùng biên giới.
Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ biên phòng
tăng cường xã biên giới, phát hiện bồi dưỡng đội ngũ cán bộ địa phương, người
dân tộc thiểu số, xây dựng cơ sở chính trị xã, phường biên giới, hải đảo theo tinh
thần Nghị quyết 80 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2011-2020.
Chủ động tham mưu đề xuất và phối hợp các lực lượng chức năng giải
quyết có hiệu quả và cơ bản các điểm nóng về an ninh xã hội ở khu vực biên
giới, nhất là phòng chống các hoạt động lợi dụng dân tộc, tôn giáo, tội phạm ma
túy và mua bán người, giữ vững ổn định chính trị ở khu vực biên giới và tăng
cường mối quan hệ đoàn kết quân dân.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại, kết hợp chặt chẽ giữa đối
ngoại biên phòng với đối ngoại nhân dân, thúc đẩy quan hệ giữa các địa phương


22

hai bên biên giới, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển,
trọng tâm là tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, xây dựng lực lượng cán bộ vận động

quần chúng ở các cấp đảm bảo đủ số lượng và nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ, trong đó tập trung vào đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trực tiếp công tác ở
địa bàn.
Đoàn kết các dân tộc là vũ khí sắc bén để đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch, là sực mạnh để phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề đoàn
kết các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nhân tố rất quan
trọng, có ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. Giải quyết đúng hay sai, phù hợp hay chưa phù hợp những vấn đề
liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi, biên giới đều ảnh hưởng trực
tiếp đến tình hình ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước và uy tín,
vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Hội nghị lần thứ 7 khoá IX Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã khẳng định mục tiêu củng số và tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ
vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Quan điểm của Đảng ta về đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo
là nhất quán, trước sau như một, chăm lo lợi ích của đồng bào các dân tộc, thực
hiện tự do tín ngưỡng, khơi dậy lòng yêu nước của các dân tộc, tôn giáo; đồng
thời nghiêm cấm lợi dụng tự do tín ngưỡng để mê tín, dị đoan, hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ khối đoàn kết toàn dân,
xâm phạm an ninh quốc gia.


23

Cho nên, phân tích đánh giá đúng mức độ nguy hiểm những âm mưu chia
rẽ mối đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số, giữa người kinh với người dân tộc
thiểu số; những hoạt động kích động đồng bào dân tộc thiểu số biểu tình, bạo
loạn của các phần tử phản động, để đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng cho quần
chúng nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số nắm và hiểu rõ quan điểm,

chính sách, pháp luật về dân tộc của Đảng và Nhà nước, thấy rõ đồng bào dân
tộc thiểu số là một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng nhân dân Việt
Nam, mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đều nhằm
thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


24



×