Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
A.PHẦN MỞ ĐẦU:
I. LÝ CHỌN ĐỀ TÀI:
Hoá học là môn học có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu
giáo dục ở bậc THPT. Chương trình hoá học THPT hiện nay nhằm mục tiêu
hình thành một số kĩ năng cơ bản và thói quen học tập, làm việc khoa học, phát
triển khả năng nhận thức, năng lực chủ động cho học sinh, đồng thời trang bị
cho học sinh một vốn kiến thức cơ bản đầy đủ để tiếp tục học cao hơn nũa và đi
vào cuộc sống lao động trong tương lai một cách vững vàng hơn.
Trong thực tiễn dạy học có rất nhiều học sinh không nắm được bài từ các
thao tác giải những bài tập mẫu đơn giản. Trong khi đó giải bài tập hoá học học
sinh không chỉ đơn thuần là vận dụng kiến thức cũ mà cả tìm kiến thức mới và
vận dụng kiến thức cũ trong những tình huống mới. Vì vậy một trong những
trọng tâm của cải cách giáo dục nhằm phát huy tính tích cực chủ động và sáng
tạo trong học tập của học sinh. Nhận thấy được vấn đề này trong quá trình giảng
dạy, tôi đã nghiên cứu để đưa ra phương pháp giảng dạy phù hợp với học sinh
THPT đặc biệt với học sinh THBT, giúp học sinh xây dựng các dạng bài toán
hoá học cơ bản thường gặp để các em có một tư liệu học tập và không lúng túng
trước các bài tập hoá học. Tôi mong muốn có thể góp phần vào việc giáo dục
học sinh giúp các em có phương pháp học tốt nhất, kích thích lòng say mê học
hỏi, tìm tòi và nghiên cứu của các em. Từ những lý do đó tôi viết đề tài: “Một
số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải bài tập hoá học tính theo phương
trình hoá học ở lớp 10 BTTH” .
II. NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI:
Chương trình hoá học THPT ngoài nhiệm vụ hình thành một số kĩ năng
cơ bản, thói quen học tập, làm việc khoa học thì việc phát triển năng lực nhận
thức, năng lực hành động và tư duy cho học sinh cũng là nhiệm vụ không kém
phần quan trọng. Qua quá trình trực tiếp giảng dạy bộ môn hoá học ở TTGDTX-
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
1
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
DN Bá Thước, tôi thiết nghĩ việc giải bài tập hoá học thực sự là khó đối với học
sinh THBT, đặc biệt là học sinh trung tâm GDTX-DN Bá Thước (do học sinh
trung tâm đầu vào rất thấp). Đa số học sinh chưa biết cách vận dụng kiến thức
đã học vào làm bài tập. Từ không biết, không hiểu, học sinh thường chán nản,
không có hứng thú trong học tâp.Vì vậy, với mục đích trên, đề tài nhằm hướng
dẫn hình thành kĩ năng giải bài tập (vô cùng cần thiết) cho các em .Từ đó gây
được hứng thú lòng say mê học tập và yêu thích môn học của tất cả học sinh.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
“ Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải bài tập hoá học tính theo
phương trình hoá học ở lớp 10 trường Trung Tâm GDTX-DN Bá Thước ” .
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Chương trình hóa học lớp 10, phần hướng dẫn giải bài tập.
V.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
2. Phương pháp thực nghiệm
3. Phương pháp điều tra cơ bản.
VI. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Hoá học là môn khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm. Đây là một trong
những bộ môn khó đối với học sinh lớp 10 mặc dù các em đã được học ở
chương trình THCS, nhưng mãi tới lớp 8,9 mới bắt đầu học. Đây cũng là thời
gian một số học sinh lơ là trong việc học tập. Vì vậy việc tiếp thu kiến thức của
học sinh gặp không ít khó khăn. Chương trình hoá học lớp 10 ngoài mục tiêu
truyền đạt cho học sinh kiến thức theo mục tiêu giáo dục của Bộ giáo dục và
Đào tạo, còn nhằm hình thành cho học sinh những kĩ năng giải bài tập dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, học sinh phải tích cực tư duy và suy nghĩ để giải một
số bài tập hoá học cơ bản, từ đó học sinh mới có thể rút ra phương pháp để tiến
hành giải một dạng bài tập hoá học nào đó. Việc giải bài tập hoá học là một
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
2
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
trong những hình thức luyện tập và trao đổi kiến thức chủ yếu cho học sinh và
được tiến hành nhiều nhất trong việc tiếp thu kiến thức và kĩ năng vận dụng kiến
thức vào giải bài tập. Do đó các bài tập hoá học có một vai trò quan trọng trong
việc hình thành kĩ năng và vận dụng kiến thức vào giải bài tập đúng như
Đanilôp đã nói:“ Kiến thức sẽ được nắm vững thật sự nếu học sinh có thể vận
dụng thành thạo chúng vào việc hình thành những bài tập lý thuyết và thực
hành”.
Chính vì vậy, trong quá trình giải bài tập hoá học, học sinh bắt buộc phải
thực hiện các thao tác tư duy để tái hiện kiến thức cũ đã được học , tìm ra mối
liên hệ bản chất giữa các sự vật và hiện tượng. Học sinh phải phân tích tổng hợp,
biết phán đoán suy luận để tìm ra lời giải cho bài toán . Nhờ vậy tư duy của học
sinh được phát triển và khả năng làm việc độc lập của học sinh được nâng cao.
Bài tập hoá học là một phương tiện hữu hiệu tích cực hoá hoạt động tư duy sáng
tạo của học sinh trong quá trình dạy học hoá học. Dạy học để giải bài tập hoá
học song song với việc dạy học bằng giải bài tập hóa học, đã giúp học sinh tích
cực chủ động sáng tạo trong việc giải bài tập hóa học, để từ đó tìm kiếm kiến
thức và kĩ năng mới cho học sinh. Những kiến thức kĩ năng không phải do giáo
viên rót vào học sinh, nhồi cho học sinh mà thông qua hoạt động tích cực tư duy,
chủ động ,sáng tạo của học sinh mà các em đã tìm kiếm được và đạt được nó.
Việc học của học sinh là một quá trình hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo
chính nhờ các bài tập hoá học được đưa ra đúng lúc, vừa trình độ để học sinh có
thể tự giải quyết được. Ngoài ra bài tập hoá học còn là công cụ hữu hiệu để kiểm
tra kiến thức, kĩ năng nắm bắt kiến thức cơ bản của học sinh. Nó giúp giáo viên
phát hiện được trình độ của học sinh, làm bộc lộ những kiến thức còn thiếu của
học sinh trong học tập hoá học, đồng thời có biện pháp giúp học sinh vượt qua
khắc phục những kiến thức còn thiếu, còn hổng của học sinh. Bài tập hoá học
còn giúp học sinh mở mang hiểu biết thực tiễn của mình, giúp giáo dục tư tưởng
đạo đức và rèn luyện phong cách làm việc của người lao động mới, làm việc có
kế hoạch, có phân tích tìm phương hướng trước khi làm việc cụ thể. Rèn cho
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
3
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
học sinh tác phong làm việc tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo trong công
việc.
Thông qua các vấn đề nêu trên tôi thấy rất rõ vai trò, tác dụng của bài tập
hoá học đối với học sinh. Chính vì vậy tôi luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, nhằm tìm
tòi, lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp để giúp học sinh có phương pháp
giải bài tập hoá học ở chương trình hoá học THPT nói chung và chương trình
hóa học lớp 10 trường Trung Tâm GDTX- DN Bá Thước nói riêng.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Giúp học sinh nắm vững kiến thức giải các bài tập hóa học lớp 10.Thông
qua việc giải bài tập hoá học giúp học sinh hình thành kĩ năng cơ bản củng cố
kiến thức, kĩ năng về giải bài tập hoá học. Để làm được điều đó, đòi hỏi người
dạy phải có phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh, và quan trọng hơn
phải có sự chuẩn bị tốt về kiến thức giải các bài tập để truyền đạt một cách hiệu
quả nhất.
B. NỘI DUNG:
1. Thực trạng dạy và học môn hóa học ở trung tâm GDTX-DN Bá Thước:
Trung Tâm GDTX- DN Bá Thước là một trường miền núi đang còn nhiều
khó khăn về mọi mặt, đặc biệt là vấn đề đầu vào của học sinh
còn quá thấp và sĩ số học sinh không đảm bảo lớp chỉ có 11 học sinh .đây cũng
là yếu tố ảnh hưởng đến tinh thần học tập của học sinh .
Đối với giáo dục học sinh nói chung và truyền đạt kiến thức nói riêng
trong các nhà trường hiện nay, việc lựa chọn phương pháp phù hợp là ưu tiên
hàng đầu. Qua quá trình trực tiếp giảng dạy, điều tra tìm hiểu, thu thập thông tin
tôi nhận thấy học sinh còn mắc nhiều thiếu sót trong khi giải bài tập hoá học và
ngay cả giáo viên dù luôn luôn không ngừng học hỏi và phấn đấu để có những
giờ dạy tốt nhất thì vẫn còn một số hạn chế trong khi dạy. Ở mức độ của đề tài
này tôi chỉ xin nêu lên thực trạng trong giải bài tập hoá học tính theo phương
trình hoá học ở lớp 10 trường Trung Tâm GDTX-DN Bá Thước.
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
4
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
- Về phía học sinh: Do chất lượng không đồng đều, còn rất yếu về kiến thức tự
nhiên nói chung, kiến thức về môn hóa nói riêng. Phương pháp học mới là tự
tìm hiểu, tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự làm thí
nghiệm,tự nhận xét để rút ra kết luận là điều hết sức khó khăn đối với học sinh
Trung Tâm GDTX- DN Bá Thước. Đa số học sinh học kém, lười học, không
nắm vững kiến thức cơ bản nên rất khó khăn trong việc vận dụng kiến thức đã
học để giải bài tập lý thuyết và thực hành. Học sinh thường vận dụng và sử dụng
chưa thành thạo các phương pháp suy luận hoặc áp dụng các phương pháp một
cách máy móc thiếu linh hoạt. Do đó bị hạn chế trong việc rèn luyện năng lực
chủ động, sáng tạo trong giải bài tập hoá học cụ thể.
- Về phía giáo viên: Với phương pháp giảng dạy hiện nay cũng còn gặp nhiều
khó khăn cần phải khắc phục : phòng học thì xuống cấp, số lượng học sinh trong
lớp lại ít gây bất lợi cho việc phân nhóm thảo luận nên kết quả thảo luận chưa
cao.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn song thầy trò trường Trung Tâm GDTX- DN
Bá Thước. Vẫn ra sức rèn luyện quyết tâm thực hiện tất cả mục tiêu giáo dục
của bộ môn hoá học đề ra, tìm ra các biện pháp phù hợp với tình hình của nhà
trường để đạt kết quả mong muốn. Giúp học sinh nắm vững được kiến thức và
hình thành những kĩ năng mới giải quyết các dạng bài tập hoá học tính theo
phương trình hoá học ở lớp 10 một cách thành thạo.
2. Chuẩn bị thực hiện:
Để hình thành và rèn luyện kỹ năng giải bài tập hoá học nhằm nâng cao
chất lượng, nắm vững kiến thức hoá học, một trong những biện pháp là dạy học
sinh tìm kiếm lời giải. Muốn vậy cần phải hướng dẫn học sinh để các em nắm
được phương pháp chung giải từng dạng bài tập, qua việc hướng dẫn các em giải
bài tập theo các dạng bài tập từ đơn giản đến bài tập khó và nâng cao. Qua quá
trình giảng dạy tôi nhận thấy luyện tập giải bài tập hoá học nói chung và bài tập
tính theo phương trình hoá học nói riêng cần được thực hiện theo quy trình sau:
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
5
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
- Luyện tập theo mẫu:
Trước khi cho học sinh giải bài tập một cách độc lập, chủ động thì trước
hết các em phải có kĩ năng giải một số dạng bài tập đơn giản, cơ bản .Quá trình
luyện tập theo mẫu giúp các em rèn luyện một số kĩ năng cơ bản và có một định
hướng chung để giải các bài tập hoá học. Việc luyện tập có thể rải rác ở một số
bài học riêng đây là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển kĩ năng hoạt động
sáng tạo của học sinh sau này.
- Luyện tập không theo mẫu:
Trước khi học sinh nắm được phương pháp chung để giải bài tập tính theo
phương trình hoá học, theo tôi cần phải cho các em luyện tập trong những tình
huống có biến đổi, những điều kiện và yêu cầu của bài tập đề ra, có thể biến đổi
từ dạng bài tập đơn giản đến dạng bài tập phức tạp cùng với sự phát triển của
kiến thức hoá học. Đây chính là giai đoạn học sinh tự tập giải các bài tập ở mức
độ khó hơn, để các em phát triển kĩ năng tư duy cao hơn , qua đó tôi đã lựa chọn
và sắp xếp các bài tập từ mức độ dễ đến mức độ khó.
- Luyện tập thường xuyên :
Để củng cố và phát triển kĩ năng giải bài tập một cách nhuần nhuyễn,
mềm dẻo, linh hoạt và sáng tạo giáo viên cần giúp cho các em học sinh vận dụng
các kĩ năng giải bài tập với yêu cầu của bài tập với mức độ khó dần . Mặc dù kĩ
năng đã thành thạo nếu không được thường xuyên luyện tập thì kĩ năng đó sẽ
không được củng cố và phát triển.
- Luyện tập theo nhiều hình thức giải bài tập khác nhau:
Sau khi học sinh đã có kỹ năng giải các bài tập cơ bản thì cần cho các em
làm đa dạng các bài tập,cần phối hợp nhiều hình thức giải bài tập, học sinh
không những giải bài tập ở giờ chính khoá mà còn giải bài tập ở giờ ngoại khoá,
tự học ở nhà.
Với những yêu cầu đặt ra như vậy trong quá trình dạy học tôi đã tiến hành
thực hiện hướng dẫn học sinh lớp 10 giải bài tập hoá học tính theo phương trình
hoá học gồm các dạng như sau:
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
6
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
a- Tính khối lượng hoặc thể tích hoặc số mol của một chất khi biết khối lượng
hoặc số mol hoặc thể tích của một chất khác trong PTHH mà các em đó được
làm quen ở chương trình hóa học THCS:
- Hướng dẫn HS giải bài tập tính theo PTHH,tìm số mol của chất A theo
số mol xác định của chất bất kỳ trong PTHH.
Ở dạng bài tập này trước tiên đưa ra các bài tập mẫu hướng dẫn các em
giải bài tập một cách chi tiết.
3. Ví dụ thử nghiệm giải một số bài tập trong chương trình lớp 10
Ví dụ:Tính số mol của kalioxit(K
2
O) tạo thành nếu có 0,4 mol kali bị đốt cháy
hoàn toàn.
Giáo viên yêu cầu học sinh
nghiên cứu đề bài
Giáo viên hướng dẫn học sinh
xác định hướng giải.
Bước 1: Viết PTHH xảy ra.
Bước 2:Xác định tỷ lệ số mol
giữa chất cho(K) và chất cần
tìm(K
2
O)
Bước 3: thiết lập quan hệ bằng
cách theo điều kiện đầu bài .
Bước 4: Trả lời
Học sinh nghiên cứu đề bài xác định
được:
Tính số mol K
2
O dựa vào tỷ lệ số mol
giữa K và K
2
O trong PTHH.
Học sinh trình bày lời giải :
PTHH : 4K + O
2
→ 2K
2
O
Theo PTHH: 4mol 2mol
Theo đề: 0,4mol xmol
⇒
x=
=
4
2.4,0
0,2 (mol)
Có 0,2 mol K
2
O tạo thành .
- Hướng dẫn học sinh giải bài tập tính khối lượng chất A theo số mol chất khác
trong PTHH.
Ví dụ :Tính khối lượng của Kali tác dụng vừa đủ với 0,2 mol khí oxi để tạo
thành Kalioxit .
Giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu
đầu bài.
Học sinh nghiên cứu đề bài xác định
được:
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
7
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định
hướng giải.
Bước 1: Viết PTHH xảy ra.
Bước 2:Xác định tỷ lệ số mol giữa chất
cho(O
2
) và chất cần tìm(K)
Bước 3: Thiết lập quan hệ bằng cách
theo điều kiện đầu bài .
Tính số mol chất cần tìm
Bước 4:Đổi mol ra đơn vị mà đầu bài
yêu cầu.
Bước 5: Trả lời
Tính số mol K dựa vào tỷ lệ số mol
giữa K và O
2
trong PTHH.
Học sinh trình bày lời giải :
PTHH : 4K + O
2
→ 2K
2
O
Theo PTHH: 4mol 1mol
Theođề: xmol 0,2mol
⇒
x=
0,2.4
1
= 0,8mol
Biết M
K
=39g
Vậy khối lượng của kali là:
m
K
= n.M = 0,8.39 = 31,2g
Vậy cần 31,2g K
- Hướng dẫn học sinh giải bài tập tính thể tích khí tham gia hoặc tạo thành sau
phản ứng:
Ví dụ: Tính thể tích khí H
2
tạo thành ở( đktc), khi cho 2,7g Al tác dụng với
dung dịch HCl dư.
Giáo viên yêu cầu học
sinh nghiên cứu đầu bài.
Giáo viên hướng dẫn học
sinh xác định hướng giải
theo 2 cách.
Bước 1: Đổi ra số mol Al
Bước 2:Tính chất mol H
2
- Viết PTHH
-Xác định số mol Al và
H
2
theo PTHH
- Tìm số mol H
2
theo đầu
Học sinh nghiên cứu đề bài xác định được:
Tính số mol H
2
,suy ra thể tích H
2
ở điều kiện
tiêu chuẩn.
- Cách 1:
Học sinh trình bày lời giải .
M
Al
= 27g
Số mol của Al là:
n =
=
M
m
27
7,2
=0,1 mol
PTHH 2Al + 6H Cl → 2 AlCl
3
+ 3H
2
TheoPTHH: 2mol 3mol
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
8
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
bài
Bước 3: Đổi ra đơn vị
đầu bài yêu cầu .
Thể tích của 0,15 mol
H
2
(đktc).
Bước 4:Trả lời:
Theođề: 0,1mol → x mol
⇒
x =
2
3.1,0
= 0.15 (mol)
Vậy thể tích khí của H
2
ở
(đktc) là :
V= n .22,4= 0,15.22,4 =3,36 (lít)
Thể tích khí hiđrô tạo thành là 3,36 (lít) ở đktc
- Cách 2:
PTHH 2Al + 6HCl → 2 AlCl
3
+ 3H
2
Theo dữ kiện bài ra ta tính được số mol của Al
n =
=
M
m
27
7,2
=0,1 (mol)
Theo PTHH ta có: n
H
=
2
3
n
Al
=
2
3
15,01,0 =×
(mol)
Vậy thể tích khí của H
2
ở
(đktc) :
V= n .22,4= 0,15.22,4 =3,36 (lít)
Thể tích khí hiđrô tạo thành là 3,36 (lít) ở đktc
Sau khi giáo viên hướng dẫn các bài tập trên, giáo viên yêu cầu học sinh
rút ra phương pháp chung để giải các bài tập đó
Bước 1: Đổi ra số mol (nếu đề tài cho khối lượng hoặc thể tích của chất khí)
Bước 2: Viết và cân bằng PTHH.
Tìm tỉ lệ số mol giữa chất cho và chất tìm.
Bước 3: Lập quan hệ tỉ lệ giữa chất cho và chất tìm. Tính số mol chất tìm
Bước 4: Tính ra đơn vị mà đầu bài yêu cầu.
Bước 5: Trả lời.
Vậy quá trình giải bài tập học sinh đã xác định được phương pháp giải
chung, có tác dụng giúp học sinh nắm vững kỹ năng giải bài tập tính theo
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
9
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
PTHH.Khi học sinh đã nắm vững phương pháp giải chung giáo viên còn cung
cấp một số bài tập tương tự để học sinh tự giải ngay tại lớp và sau đó giáo viên
ra bài tập về nhà để học sinh tự rèn luyện các dạng bài tập đó.
Ví dụ: Tính thể tích khí H
2
và khí Cl
2
tham gia phản ứng biết rằng người ta thu
được 5,6(l) khí hiđroclorua. Các khí đo ở (đktc) và tác dụng với nhau vừa đủ.
Giáo viên yêu cầu học sinh
tự giải bài tập theo2 cách mà
giáo viên đã hướng dẫn ở
phần trước.
Giáo viên theo dõi học sinh
giải bài tập để uốn nắn nếu
cần thiết.
Giáo viên yêu cầu học sinh
Học sinh trình bày lời giải :
- Cách 1:
Số mol của HCl (đktc)
n=
5,6
0,25( )
22,4 22,4
V
mol= =
PTHH:
H
2
+ Cl
2
→ 2 HCl
Theo PT :1mol 1mol 2mol
Theođề: x(mol) y(mol) → 0,25(mol )
⇒
Số mol H
2
: x=
)(125,0
2
1.25,0
mol=
⇒
Số mol Cl
2
: x=
0,25.1
0,125( )
2
mol=
Thể tích H
2
và Cl
2
(đktc) cần dùng là :
Thể tích khí H
2
: V= n .22,4
V= 0,125
×
22,4 = 2,8 (lít)
Thể tích khí Cl
2
: V= n .22,4
V= 0,125.22,4 = 2,8 (lít)
Vậy : Thể tích H
2
cần là :2,8 (lít)
và thể tích Cl
2
cần là :2,8 (lít)
HS nhận xét:
V
H
= V
Cl
- Cách 2:
PTHH:
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
10
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
nhận xét đánh giá
H
2
Cl
2
→ 2 HCl
Theo bài ra ta có số mol của HCl (đktc)
n=
5,6
0,25( )
22,4 22,4
V
mol= =
Theo PTHH ta có :
n
H
= n
Cl
=
2
1
n
HCl
=
2
1
×
0,25 = 0,125
(mol)
Thể tích H
2
và Cl
2
(đktc) cần dùng là :
Thể tích khí H
2
: V= n .22,4
V= 0,125
×
22,4 = 2,8 (lít)
Thể tích khí Cl
2
: V= n .22,4
V= 0,125.22,4 = 2,8 (lít)
Vậy : Thể tích H
2
cần là :2,8 (lít)
và thể tích Cl
2
cần là :2,8 (lít)
Giáo viên có thể đưa ra các bài tập về nhà như sau:
Bài 1: Tính khối lượng của Nhôm oxit được tạo thành khi đốt cháy hoàn toàn
2,7gAl.
Bài 2: Đốt cháy hoàn toàn 6,4 g S. Tính thể tích ở(đktc) của khí sunfurơ tạo
thành.
Sau khi học sinh nắm vững được phương pháp giải bài tập tính theo
PTHH đơn giản, tôi tiếp tục đưa thêm bài tập dạng này có biến đổi và nâng cao
nhằm kích thích lòng say mê học hỏi, tạo hứng thú cho học sinh phát triển năng
lực làm việc độc lập, chủ động trong việc giải bài tập hoá học theo PTHH.
b Bài toán cho biết lượng của cả hai chất phản ứng và yêu cầu tính lượng chất
mới sinh ra. Tìm lượng chất dư
Giáo viên đưa ra bài tập mẫu , hướng dẫn các em giải bài tập một cách cụ
thể.
Ví dụ: Cho 50g dung dịch NaOH tác dụng với 36,5g dung dịch HCl.
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
11
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
a. Chất nào còn dư và có khối lượng bằng bao nhiêu.
b. Tính khối lượng muối tạo thành sau phản ứng.
Biết sơ đồ phản ứng như sau:
NaOH + HCl -→ NaCl + H
2
O
Giáo viên yêu cầu học
sinh nghiên cứu đề bài.
Giáo viên hướng dẫn học
sinh xác định hướng giải.
Bước 1:Xác định số mol
các chất đề cho
( NaOH,HCl)
Bước 2: Viết PTHH
Tỉ lệ số mol của NaOH
và HCl theo PTHH.
Tỉ lệ số mol của NaOH
và HCl theo đề bài
Bước 3: Lập tỉ số
So sánh tỉ lệ số mol giữa
hai chất đề cho (NaOHvà
HCl) theo PTHH và theo
đề bài.
Tìm chất dư
Bước 4: Tìm khối lượng
chất còn dư(NaOH),theo
chất phản ứng hết(HCl).
Bước5: Tính khối lượng
của muối natriclorua
Học sinh nghiên cứu đề bài xác định được:
NaOH + HCl → NaCl + H
2
O
50(g) 36,5(g) m=?
Dư NaOH hoặc HCl
Học sinh trình bày lời giải:
Theo bài ra ta có số mol của NaOH:
n=
50
1,25( )
40
m
mol
M
= =
Theo bài ra ta có số mol của HCl:
n=
36,5
1( )
36,5
m
mol
M
= =
PTHH: NaOH + HCl → NaCl + H
2
O
Theo PTHH: 1mol 1mol 1mol
Theo đề bài: 1,25mol 1mol
Theo PTHH và đề ra ta thấy số mol của NaOH
dư .
Số mol NaOH còn dư là:
n
NaOH dư
= n
NaOH ban đầu
- n
NaOH phản ứng
n
NaOH d
= 1,25 –1 = 0,25(mol)
Vậy khối lượng NaOH dư là :
M = n.M = 0,25.40 = 10(g)
Theo PTHH thì số n
NaCl
= n
HCl
= 1 (mol)
Vậy khối lượng NaCl tạo thành là :
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
12
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
(NaCl) tạo thành theo
chất phản ứng hết (HCl)
m = n.M = 1.58,5 = 58,5(g)
Qua bài tập mẫu giáo viên yêu cầu học sinh rút ra phương pháp chung:
Bước 1: Tìm số mol của các chất đề cho
Bước 2: Viết và cân bằng PTHH.
Bước 3: Tìm chất tham gia phản ứng hết và chất còn dư hết.
Bước 4: Tính toán (theo yêu cầu của đề bài) theo chất phản ứng hết.
Sau đó giáo viên cung cấp thêm cho học sinh bài tập tương tự yêu cầu học
sinh tự giải.
Ví dụ: Đốt cháy 6,2(g) photpho trong bình chứa 6,72 (l) khí oxi ở (đktc). Hãy
cho biết sau khi cháy.
Photpho hay oxi dư và khối lượng là bao nhiêu?
Chất nào được tạo thành và khối lượng là bao nhiêu?
Giáo viên yêu cầu học
sinh nghiên cứu đề bài
Giáo viên yêu cầu học
sinh thảo luận giải bài
tập.
Học sinh nghiên cứu đề bài xác định được.
PTHH: 4P + 5O
2
→ 2P
2
O
5
6,2g 6,72(l) m= ?
Dư phot pho hay oxi.
Học sinh thảo luận tìm cách giải bài tập.
Học sinh trình bày lời giải.
Số mol photpho
n=
6,2
0,2( )
31
m
mol
M
= =
Số mol oxi:
n=
6,72
0,3( )
22,4 22,4
V
mol= =
PTHH: 4P + 5O
2
→ 2P
2
O
5
Theo PT: 4mol 5mol
Theo đề : 0,2mol 0,3mol
Theo PTHH và đề ra ta thấy số mol của oxi dư .
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
13
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Giáo viên yêu cầu học
sinh nhận xét
Ta có số mol của oxi phản ứng là:
n
O phản ứng
=
)(25,0
4
5.2,0
mol=
Vậy số mol oxi dư là:
n
Odư
= n
O ban đầu
– n
O phản ứng
= 0,3- 0,25 =0,05mol
Vậy khối lượng oxi dư:
m = n.M = 0,05 . 32 =1,6(g)
Theo PTHH thì số n
P O
=
4
2
n
P
=
4
2
×
0,2 = 0,1 (mol)
Vậy khối lượng của P
2
O
5
tạo thành :
m = n.M = 0,1.142 = 14,2g
HS nhận xét
Học sinh nắm vững phương pháp giải bài tập tính theo PTHH tìm chất dư,
giáo viên đưa thêm một số bài tập về nhà giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến
thức và kỹ năng.
Ví dụ:
Bài 1: Cho 5,6(g) kim loại sắt tác dụng với 12,25(g) axitsunfuric. Hãy tính khối
lượng muối sắt( II) sunfat và thể tích khí hiđrô ở (đktc) được tạo thành.
Bài 2.Cho 5,4 (g) nhôm vào dung dịch có chứa 49(g) axitsunfuric thì thể tích khí
hiđrô ở (đktc )và khối lượng muối nhôm sunfat thu được là bao nhiêu?
Còn rất nhiều dạng bài tập liên quan đến PTHH nhưng trong chương trình
lớp 10 tôi chủ yếu rèn luyện cho các em những dạng bài tập cơ bản trên. Qua đó
các em có nền tảng để học tập và tiếp thu kiến thức bộ môn hoá ở các lớp trên
một cách dễ dàng và thuận lợi hơn.
4. Kết quả đạt được:
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
14
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Sau khi hướng dẫn các em phương pháp giải một số dạng bài tập tính
theo PTHH như trên tôi nhận thấy đa số học sinh nắm vững phương pháp chung
để vận dụng giải tốt các dạng bài tập đó.
Kết quả khảo sát trên lớp 10A mà tôi trực tiếp giảng dạy ở trường Trung
Tâm GDTX- DN Bá Thước như sau:
Kết quả khảo sát ban đầu:
Kết quả đánh giá
Sĩ số lớp
Loại giỏi Loại khá Loại trung
bình
Loại yếu
SL % SL % SL % SL %
10 A 0 0 0 0 5 45,5 6 54,5
Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào giảng dạy đã đạt
được như sau:
Kết quả đánh giá
Sĩ số lớp
Loại giỏi Loại khá Loại trung
bình
Loại
yếu
SL % SL % SL % S
L
%
10A(11 HS) 2 18,18 4 36,36 4 36,36 1 9,1
Vậy qua kết quả bảng số liệu như trên tôi nhận thấy việc giáo viên tìm tòi
hướng dẫn học sinh giải các dạng bài tập hoá học tình theo PTHH đem lại hiệu
quả cao so với kết quả khảo sát trước khi áp dụng phương pháp hướng dẫn học
sinh giải bài tập tình theo PTHH như trên.
C: KẾT LUẬN
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
15
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Trong quá trình áp dụng phương pháp hướng dẫn học sinh giải bài tập
tính theo PTHH đạt kết quả như trên, bản thân tôi đã rút ra cho mình một bài
học kinh nghiệm quý giá. Muốn học sinh làm tốt các dạng bài tập thì đòi hỏi
người giáo viên phải thường xuyên tìm tòi nghiên cứu và học hỏi đồng nghiệp
các phương pháp truyền thụ cho học sinh, lựa chọn bài tập phù hợp với mọi đối
tượng học sinh, đặc biệt chú ý đến học sinh yếu kém. Các bài tập đưa ra phải
phù hợp với các đối tượng học sinh đi từ dễ đến khó, giáo viên cần phải giúp
học sinh luyện tập thường xuyên trong các giờ học trên lớp sau mỗi tiết học và
kết hợp với các tiết luyện tâp, tiết thực hành , các buối học phù đạo thêm ngoại
khoá. Sau mỗi buổi học giáo viên cần giao những bài tập phù hợp với khả năng
của học sinh về nhà làm nhằm kích thích niềm đam mê nghiên cứu và học bài,
làm bài của học sinh. Từ đó giúp các em có vốn kiến thức vững vàng, tự tin và
yêu thích môn học, giúp các em giỏi hơn và các em có học lực trung bình, yếu
kém cũng có khả năng biết được định hướng giải bài tập của giáo viên đề ra. Từ
đó giúp các em có động lực học tốt môn hóa và các em đó nhận thức đúng đắn ý
nghĩa của việc học và đang có thái độ học học tập rất tốt.
Chính vì vậy việc viết sáng kiến kinh nghiệm là một việc làm hết sức cần
thiết và hữu ích nhằm mục đích phục vụ quá trình giảng dạy của giáo viên đạt
kết quả cao hơn.
Qua đây tôi rất mong có sự góp ý chân thành của người đọc để tôi hoàn
thành giải pháp hơn.
II. KIẾN NGHỊ:
Trên đây là những ý kiến của cá nhân tôi rút ra từ thực tế giảng dạy môn
hóa ở lớp 10 Trường Trung Tâm GDTX- DN Bá Thước và sự học tập của học
sinh. Do đó không tránh khỏi những thiếu xót nên tôi rất mong được sự góp ý
chân thành của người đọc để tôi tiếp tục nghiên cưú và hoàn thiện đề tài hơn
nữa, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả và chất lượng trong công tác giảng dạy
của tôi trong những năm tiếp theo .
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
16
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Tôi xin chân thành cám ơn!
MỤC LỤC Trang
A/- PHẦN MỞ ĐẦU 01
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
17
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
I- Lí do chọn đề tài 01
II- Nhiệm vụ đề tài …… 01
III- Đối tượng nghiên cứu…………… 01
IV- Phạm vi nghiên cứu ………………….01
V- Phương pháp nghiên cứu ……………….01
VI- Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 02
1/ Cơ sở lý luận 02
2/ Thực tiễn của đề tài 03
B/- PHẦN NỘI DUNG ………………03
1. Thực trạng đề tài nghiên cứu 03
2. Chuẩn bị thực hiện……………………………………………….… 04
3. Ví dụ thử nghiệm 05
4. Kết quả đạt được 11
C/- KẾT LUẬN. …………………………… …11
I. Bài học kinh nghiệm………………………………………………… 11
II. Kiến nghị…………………………………………………………… 12
- Mục lục 13
- Tài liệu tham khảo 14
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
18
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
TÀI LIỆU THAM KHẢO
//
- Sách giáo khoa Hóa học 10
- Sách giáo viên Hóa học 10
- Sách hướng dẫn ôn tập hoá học 10
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
19
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Giáo viên: Nguyễn Thị Hương
20
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA
TRƯỜNG TRUNG TÂM GDTX-DN HUYỆN BÁ THƯỚC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MÔN HÓA
“Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải bài tập hoá
học tính theo phương trình hoá học ở lớp 10 BTTH”
GIÁO VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ HƯƠNG
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: TRƯỜNG TRUNG TÂM GDTX-DN
HUYỆN BÁ THƯỚC
Năm học: 2012-2013