Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Điều hành CSTT của NHNN từ năm 2007 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.5 KB, 55 trang )

Mục Lục
Lời mở đầu
Phần I : Giới thiệu chung
1. Chính sách tiền tệ
2. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ
3. Các công cụ chính sách tiền tệ
Phần II : Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và tác động
của nó tới nền kinh tế từ năm 2007 đến nay
1. Năm 2007
2. Năm 2008
3. Năm 2009
4. Năm 2010
Phần III : Những vấn đề đặt ra nhằm hoàn thiện công cụ chính sách tiền
tệ ở Việt Nam
1. Một số kiến nghị về điều hành chính sách tiền tệ cuối năm 2010
2. Một số đề xuất hoàn thiện hóa công cụ chính sách tiền tệ
Kết luận và tài liệu tham khảo
Phụ lục
Lời mở đầu
hính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến
số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt được
các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ
bản, quyết định.
C
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của
nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế.
Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó
ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải
quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách
tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế


trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là
các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về chính
sách tiền tệ ,chúng em quyết định chọn đề tài : “Điều hành CSTT của NHNN từ
năm 2007 đến nay”.
Phần I: Giới thiệu chung
1. Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một trong những chính sách quản lý kinh tế vĩ mô mà
trong đó ngân hàng trung ương thông qua các công cụ của mình làm thay đổi các
điều kiện tiền tệ của nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu về giá cả, sản lượng
và công ăn việc làm, thỏa mãn các yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài của nền
kinh tế.
2. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ
• Mục tiêu cuối cùng
- Ổn định giá cả
- Góp phần tăng trưởng kinh tế
- Góp phần tạo công ăn việc làm
• Mục tiêu trung gian: là các chỉ tiêu mà NHNN lựa chọn để đạt mục tiêu cuối
cùng
- Mức cung tiền : Việt Nam sử dụng chỉ tiêu mức tăng tổng phương tiện thanh
toán M2 ( lượng tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống + tiền gửi không kỳ hạn +
tiền gửi có kỳ hạn + tiền gửi tiết kiệm + kỳ phiếu do các ngân hàng phát hành)
- Lãi suất thị trường
• Mục tiêu hoạt động: là các chỉ tiêu NHNN lựa chọn để đạt được mục tiêu
trung gian
- Lượng tiền trung ương ( MB): Dự trữ của các ngân hàng trung gian
- Lãi suất liên ngân hàng, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất đấu thầu nghiệp vụ thị
trường mở, lãi suất thị trường mở, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất tín phiếu
kho bạc
3. Các công cụ của chính sách tiền tệ

• Công cụ trực tiếp: là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong
lưu thông ( hoặc các mức lãi suất thị trường trung và dài hạn) bao gồm
- Hạn mức tín dụng: được sử dụng từ nửa cuối năm 1994 đến 1998 nhằm khống
chế trực tiếp mức tăng trưởng dư nợ tín dụng của hệ thống NHTM. Mặc dù
hạn mức tín dụng quy định cho từng NHTM không còn áp dụng với tư cách là
CSTT trực tiếp từ năm 1998 nhưng tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân
hàng vẫn là chỉ tiêu bị khống chế hàng năm bởi NHNN và theo yêu cầu của
IMF.
- Ấn định lãi suất: NHNN sử dụng chính sách lãi suất nhằm điều tiết trực tiếp
mặt bằng lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng
- Các chính sách hỗ trợ: NHNN sử dụng một hệ thống các chính sách hỗ trợ mục
tiêu như chính sách tín dụng, chính sách huy động vốn, chính sách quản lý
ngoại hối nhằm hỗ trợ cho công cụ lãi suất và tỷ giá.
• Công cụ gián tiếp: là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt
động, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các
mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất, bao gồm:
- Dự trữ bắt buộc: là số tiền mà các TCTD phải duy trì theo quy định của
NHNN. Nó được xác định bằng tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền
gửi trong một khoảng thời gian nhất định
- Công cụ tái cấp vốn: là cách để NHNN đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống
chế về số lượng và chất lượng tín dụng của các TCTD
- Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) : là nghiệp vụ mua bán các chứng từ ngắn
hạn của NHNN trên thị trường tiền tệ
Ở Việt Nam hiện nay sử dụng : lãi suất, chính sách tái cấp vốn, tỷ giá, dự trữ bắt
buộc, hạn mức tín dụng, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ CSTT.
Phần II: Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và tác
động của nó tới nền kinh tế từ năm 2007 đến nay
1. Năm 2007
1.1. Diễn biến kinh tế năm 2007:
- Kinh tế thế giới: Thế giới năm 2007 đã ghi dấu ấn những bước thăng trầm của

thị trường hàng hoá và tài chính: giá dầu thô lên xấp xỉ 100 USD; đồng đôla sụt giảm
xuống mức kỷ lục trước euro; các đại gia tài chính khốn đốn với cơn bão tín dụng
xuyên quốc gia
Vàng và dầu “phi tên lửa”, USD “nhảy cầu”. Năm nay thực sự là năm làm các
nhà đầu tư USD phải “khóc lắm”, còn những ai dự trữ vàng và dầu thô được “cười
nhiều”. Liên tục trồi sụt và biến động từng ngày, nhưng giá vàng và dầu thô trên thị
trường thế giới nhìn chung diễn tiến theo đồ thị đi lên. Trong khi đó, USD dù có
những ngày phục hồi, vẫn mất mặt thảm hại trước Euro. Vàng, dầu và USD đánh dấu
năm 2007 bằng những dấu mốc lớn. Ngày 7/11, giá vàng “thăng” tới 848 USD/oz,
mức cao nhất kể từ năm 1980, khi mà giá vàng lên tới 873 USD/oz. Tiếp đó, vào ngày
21/11, giá dầu đạt đỉnh 99,29 USD/thùng, mức cao nhất kể từ khi hoạt động giao dịch
kỳ hạn được áp dụng vào năm 1983. Rồi đến ngày 23/11, USD lao xuống vạch 1 Euro
bằng 1,4967 USD, mức thấp nhất kể từ khi đồng Euro được đưa vào sử dụng năm
1999.Tính ra, trong năm qua, giá dầu đã tăng trên 50%, giá vàng tăng gần 30%, USD
mất giá hơn 10% so với Euro. Nhu cầu năng lượng tăng cao tại các cường quốc đang
nổi lên như Trung Quốc và tình hình chính trị diễn biến căng thẳng ở Trung Đông,
“vựa” dầu của thế giới, là vài trong số những nguyên nhân chủ đạo đẩy giá dầu tăng
cao. Trong bối cảnh đó, những giếng dầu và khí đốt trên vùng Trung Á đã trở thành
tâm điểm tranh chấp giữa Mỹ, Tây Âu và Nga. Trong khi giá dầu cao là "tin buồn"
với kinh tế Mỹ, đó lại là "tin lành" đối với kinh tế Nga, quốc gia sở hữu nguồn tài
nguyên năng lượng khổng lồ.Giá nhiên liệu không ngừng leo thang, gây áp lực lạm
phát ở mức cao, trong khi đồng USD mất giá là những yếu tố đi đầu trong việc “đội”
giá vàng lên vì vàng luôn là mặt hàng đầu tư chiến lược để đề phòng lạm phát. Giới
quan sát dự báo, giá dầu trong năm tới rất có thể sẽ phổ biến ở ngưỡng 70 - 75
USD/thùng, giá vàng cũng sẽ tiếp tục trên dưới ngưỡng 800 USD/oz do USD vẫn còn
mất giá so với Euro.
- Kinh tế trong nước: Việt Nam cũng đã gặp một số khó khăn như giá cả gia tăng, tình
trạng lạm phát, và những than phiền của các nhà đầu tư nước ngoài về các luật lệ và
thủ tục đầu tư. Tình hình lạm phát gia tăng (CPI năm 2007 tăng lên mức kỉ lục là
12,63% so với tháng 12/2006), luồng vốn ngoại tệ vào quá nhiều trong khi khả năng

hấp thụ vốn ngoại của nền kinh tế còn hạn chế, đã gây ra các hiệu ứng cho nền kinh tế
(VND lên giá, bùng nổ tín dụng, lạm phát gia tăng; sức ép đòi hỏi bơm nội tệ để mua
ngoại tệ...); TTCK trong nước ảm đạm... Thiên nhiên dường như cũng tác động mạnh
đến kinh tế Việt Nam bằng một đợt rét đậm kéo dài kỷ lục...
Các diễn biến kinh tế trong và ngoài nước đang đặt ra rất nhiều thách thức cho Chính
phủ trong việc đưa ra các chính sách ứng phó phù hợp.
1.2. Điều hành chính sách tiền tệ năm 2007 của NHNN:
NHNN thực thi CSTT bám sát mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát
lạm phát, đảm bảo sự ổn định tiền tệ, ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định
kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bền vững
trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế - nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít
thách thức. Trên cơ sở đánh giá và dự báo kịp thời chiều hướng biến động của kinh tế
tiền tệ trong nước và quốc tế, trong năm 2007, NHNN đã thực hiện các giải pháp điều
hành CSTT như sau:
• Lãi suất
Để tránh tác động không thuận lợi đối với tăng trưởng kinh tế, NHNN tiếp tục giữ ổn
định lãi suất mức lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm và lãi
suất chiết khấu là 4,5%/năm(Mức lãi suất được duy trì từ tháng 12/2005 đến nay).
Song, lãi suất một số thị trường do NHNN Việt Nam điều hành thì lại biến động
mạnh. Lãi suất đấu thầu tín phiêu kho bạc nhà nước bình quân ở mức 4,16%/năm, lãi
suất nghiệp vụ thị trường mở bình quân lên tới 7,5% - 8,0%/năm. Các mức lãi suất đó
có tác động giảm sự gia tăng lãi suất trên thị trường, nhất là lãi suât thị trường liên
ngân hàng. Lý do chủ yếu của việc giữ ổn định lãi suất này là nhằm phát tín hiệu định
hướng ổn định lãi suất thị trường để hạn chế tác động tăng lãi suất cho vay và cộng
hưởng làm tăng chi phí sản xuất, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát. Đồng thời, trong
điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, từ 01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện
bỏ qui định về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do
hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
• Dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với cả tiền gửi nội tệ và ngoại tệ được tiếp tục giữ ổn định

trong 5 tháng đầu năm 2007.
Tuy nhiên,vào những tháng cuối năm 2007 trước sức ép của lạm phát ( lạm phát liên
tục ở mức cao, và nhảy vọt đến trên 12% vào cuối 2007) và lo ngại rủi ro quá lớn từ
các khoản cho vay bất động sản và cổ phiếu, NHNN dường như đã bớt phải chịu sức
ép tăng trưởng, từ 1/6/2007, NHNN đã điều chỉnh tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp
đôi đối với cả nội tệ và ngoại tệ: từ 5% lên 10% đối với tiền gửi VND kỳ hạn dưới
12 tháng và từ 2% lên 4% đối với kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng, tăng từ 8% lên
10% đối với tiền gửi ngoại tệ kỳ hạn dưới 12 tháng và từ 2% lên 4% đối với kỳ hạn từ
12 tháng đến dưới 24 tháng.
Việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc một cách đột ngột, mức tăng dự trữ quá nhanh và
mạnh khi tăng trưởng tín dụng chưa quá nóng đã đẩy các ngân hàng thương mại của
Việt Nam lâm vào khủng hoảng thiếu thanh khoản chưa từng có, kéo theo tình trạng
cạn kiệt tín dụng trong ngắn hạn.
• Nghiệp vụ thị trường mở
Có thể khẳng định trong năm 2007, nghiệp vụ thị trường mở đã đạt được thành công
lớn trong can thiệp vào vốn khả dụng của NHTM và thu hút bớt tiền từ lưu thông về,
kiềm chế lạm phát. Tổng khối lượng giấy tờ có giá ngắn hạn NHNN mua vào kỳ hạn
ngắn lên tới 61.133 tỷ đồng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn khả dụng cho các NHTM.
Nhưng trong năm 2007, tổng doanh số tín phiếu NHNN và giấy tờ có giá bán ra là
356.850 tỷ đồng, đạt mức cao nhất từ trước đến nay.Con số đó cũng cho thấy mức độ
thu hút tiền tệ của NHNN là rất lớn.
Vào thời điểm tháng 10/2007, khi lạm phát có xu hướng vượt trên hai con số, Ngân
hàng nhà nước cũng đã bán ra nhiều giấy tờ có giá để thu hút tiền về.NHNN đã tổ
chức tới 355 phiên giao dịch, nhiều ngày tổ chức tới 2- 3 phiên để đáp ứng yêu cầu
của thị trường. Nhiều phiên NHNN chào bán tới 10.000 tỷ đồng.Đây cũng là những
con số kỉ lục từ trước tới nay. Tổng số có 584 lượt thành viên dự thầu, trong dó 399
lượt thành viên là ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 142 lượt thành viên
là ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) và 43 lượt thành viên là chi nhánh ngân
hàng nước ngoài ở Việt Nam; có 481 lượt thành viên trúng thầu, trong
đó có 360 lượt thành viên trúng thâu là NHTMNN, 86 lượt thành viên trúng thầu là

NHTMCP và 35 lượt thành viên trúng thâu là chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đây
cũng là diễn biến khác với nhiều năm trước và cho thấy tính tham gia rộng rãi, vai trò
của thị trường mở đối với các NHTM cũng như đối với việc điều hành chính sách tiên
tệ. Thời hạn giấy tờ có giá giao dịch cũng khác nhau, nhưng rất đa dạng, khoảng 10
kỳ hạn, nhưng chủ yếu là 7 ngày, 14 ngày,… lãi suất có xu hướng tăng và ở mức cao
so với các năm gần đây.
Số lượng thành viên và tần suất giao dịch OMO:
Năm
Số lượng
thành viên
2006
30/9
2007
Tổng số 35 35
1.NHNNVN 1 1
2.NHTM nhà nước 5 5
3.NHTM cổ phần 19 19
4.NH nước ngoài 7 7
5.NH liên doanh 1 1
6.TCTD phi NH 1 1
7.Quỹ TDNDTW 1 1
Tần suất giao dịch
1 tuần
4 phiên
1 ngày
2 phiên
• Chính sách tỷ giá
Ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên
0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng thời NHNN đã
thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM, Kho bạc Nhà nước và

các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và
tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của
NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh
sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
6 tháng đầu năm 2007 tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng có biến động
nhẹ, trong quý I có xu hướng giảm sau đó tăng nhẹ khoảng 0,07% so với đầu năm.
Nguyên nhân là do nguồn cung ngoại tệ dồi dào nên tỷ giá mua vào USD/VND của
các ngân hàng thương mại thường xuyên ở mức kịch sàn cho phép, các ngân hàng
thương mại không có nhu cầu xin mua ngoại tệ từ NHNN. Vì thế, để nhằm hỗ trợ xuất
khẩu, NHNN đã thực hiện các biện pháp can thiệp để tỷ giá bình quân trên thị trường
liên ngân hàng không giảm xuống mức quá thấp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
xuất khẩu phát triển.
Với cơ chế điều hành tỷ giá trong năm 2007, mặc dù, tỷ giá có biến động khá nhau ,
tăng đáng kể thời điểm giữa năm, nhất là trên thị trường tự do, có thời điểm lên tới
gần 16300đ/1 đôla, nhưng nhìn chung là ổn định và giảm nhẹ vào cuối năm, xoay
quanh mức 16.000đ/1 đôla.
NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh khoản
và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập
khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần
18 tuần năm 2007.
1.3. Nhận xét về điều hành chính sách tiền tệ năm 2007
• Những kết quả đạt được:
Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ,
kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường
thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về
lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính
quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa
tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy

động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với
cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh
tế. Tính đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các TCTD tăng 31,2%, ước cả năm
tăng 39,6%, cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng đến cuối tháng 9
tháng tăng 30,9%, ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 22,8%
của năm 2006).
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong
bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và
ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa
trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ
ổn định lãi suất VND.
- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo
chiều hướng tích cực
+ Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm
2007.
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm
2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các
sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn nhiều so với những năm trước đây,
nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều
điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất, tạo công
ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát triển nông
nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh
vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói
giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp
ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm
dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng
khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi,

giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân
hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững.
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu
hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các
nhóm TCTD đều giảm. Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước là 2,8%
(giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các NHTM cổ phần là 1,26% (giảm 0,34%); tỷ lệ nợ
xấu của các ngân hàng liên doanh và chi nhánh nước ngoài là 0,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ
nợ xấu của các TCTD khác là 2,4% (giảm 0,5%).
• Những thách thức phải đối mặt
Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt đuợc mục tiêu đặt ra, tuy
nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với việc Việt Nam
gia nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức làm
cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu còn có hạn chế nhất định.
Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn
đầu tư nước ngoài vào nhiều (Theo số liệu thống kê đến tháng 10/2007, doanh số phát
sinh tiền gửi bằng VND của người không cư trú tại các NHTM thì có khoảng 13 tỷ
USD của người không cư trú được chuyển cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào
thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng
khác trong nước). Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán
của nền kinh tế ( tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự
trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng
nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường
chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định cuả dân cư cũng như
từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng
dư nợ cho vay nền kinh tế; cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài
là sự tăng giá khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu
thô, giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có
tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT
phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải

pháp ổn định lãi suất và tỷ giá danh nghĩa hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và
ổn định thị trường tiền tệ không để xẩy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó
khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Chính vì vậy, NHNN đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát TPTTT, tín dụng, qua
đó đã chưa kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đặt ra: TPTTT của Việt Nam tăng
mạnh trong năm 2007 là khó tránh khỏi khi dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều
như năm nay. Muốn hạn chế gia tăng TPTTT, thì cần phải hạn chế sự gia tăng của
dòng vốn này. Tuy nhiên, hạn chế dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là vấn
đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường tài chính từng bước tự
do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia tăng nguồn vốn nước ngoài nằm ngoài tầm kiểm
soát của NHNN, mà đòi hỏi phải có chính sách vĩ mô đồng bộ để đảm bảo việc sử
dụng nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp,
hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị trường chứng khoán,… nhằm hạn chế những tác
động bất lợi của dòng vốn này.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam gia nhập WTO tạo cơ hội thuận lợi cho hệ thống ngân
hàng Việt Nam phát triển, qui mô các NHTM được mở rộng, các doanh nghiệp cũng
có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh đã gây sức ép mở rộng
tín dụng tăng quá nhanh của các NHTM, gây tiềm ẩn rủi ro: tốc độ tăng trưởng tín
dụng của các NHTM cao hơn nhiều so với các năm từ năm 2001 - 2006, nhất là tín
dụng ngoại tệ tăng hơn gấp hai lần, bắt đầu vượt ngưỡng an toàn (tỷ trọng giữa dư nợ
cho vay bằng ngoại tệ với tổng tiền gửi bằng ngoại tệ đã vượt 90%); cơ cấu đầu tư tín
dụng đa dạng hơn nhiều so với cơ cấu đầu tư của 5 năm trước đó, ngoài các lĩnh vực
cho vay truyền thống thì lĩnh vực cho vay tiêu dùng đã phát triển nhanh hơn những
năm trước. Dư nợ tín dụng trong lĩnh vực này chiếm đến 20 - 30% tổng dư nợ của
khối NHTMCP. Riêng cho vay nhà đất có NHTM dư nợ chiếm đến 20%; thị trường
chứng khoán phát triển mở ra một lĩnh vực đầu tư mới cho các NHTM, cũng góp
phần làm tăng dư nợ tín dụng nền kinh tế. Sự phát triển nhanh của thị trường tín dụng
cũng đã xuất hiện những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro, như cho vay ngoại tệ tăng trưởng
quá mức so với nguồn vốn; việc nới lỏng các điều kiện vay vốn của các NHTMCP;
các lĩnh vực cho vay bất động sản, chứng khoán đã chiếm tỷ lệ không nhỏ trong tổng

dư nợ ở một số NHTM... Thực tế này đòi hỏi phải tăng cường việc quản lý, giám sát
rủi của các cơ quan quản lý tiền tệ mà trực tiếp là NHNN, cũng như từ chính các
NHTM; thêm vào đó, việc dư thừa vốn khả dụng làm giảm hiệu quả thực thi CSTT
của NHNN và làm tăng khả năng mất cân đối kỳ hạn cho hoạt động của các NHTM:
Vốn khả dụng của các NHTM dư thừa và đầu tư giấy tờ có giá tăng mạnh: cũng như
năm 2006, diễn biến tiền tệ nổi bật trong năm nay là vốn khả dụng của các TCTD xét
trên bình diện toàn hệ thống thì thường xuyên dư thừa ở mức cao.
Nhìn chung, năm 2007 thực thi CSTT của NHNN là cực kỳ khó khăn bởi tác động bất
lợi của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá lớn trong năm, cùng với những
diễn biến phức tạp của giá cả những mặt hàng chủ yếu và những nhu cầu hội nhập của
nền kinh tế. Mặc dầu vậy, về cơ bản, điều hành CSTT đã đạt được sự ổn định tiền tệ,
hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển
kinh tế, song năm 2008, thực thi CSTT vẫn tiếp tục phải đối mặt với những thách thức
do dòng vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng và những biến động khó lường
của thị trường tài chính quốc tế, cùng với biến động của giá cả thế giới. Điều đó đòi
hỏi NHNN tiếp tục thực hiện CSTT chặt chẽ và cần có những giải pháp mang tính dài
hạn để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của những thách thức phải
đối mặt
2. Năm 2008
2.1. Diễn biến kinh tế năm 2008
Những thách thức mà các nền kinh tế phải đối mặt trong năm 2008 diễn biến vô cùng
phức tạp, khó lường. Nếu như trong 6 tháng đầu năm, sự gia tăng mạng của giá dầu,
giá lương thực, sự giảm giá của thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, cùng
các bất ổn chính trị đã gây áp lực lạm phát mang tính toàn cầu và tăng trưởng kinh tế
của các quốc gia gặp khó khăn trước áp lực lạm phát, thì trong 6 tháng cuối năm, giá
dầu giảm mạnh từ mức kỷ lục 147 USD/thùng vào giữa tháng 7 và xuống mức thấp
xung quanh dưới 40 USD/ thùng vào trung tuần tháng 12, giá lương thực cũng giảm
mạnh cùng với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao gây áp lực giảm phát. Kinh tế thế giới lại
chuyển từ áp lực lạm phát cao sang xu hướng thiểu phát và giảm phát cùng với sự suy
thoái kinh tế toàn cầu và tình trạng này sẽ tiếp tục diễn ra trong năm 2009

Nền kinh tế Việt Nam trong năm 208, không những phải đối mặt với những diễn biến
khó lường của kinh tế thế giới, mà còn phải đối mặt với nhiều khó khăn nội tại: Lạm
phát tăng mạnh ( giá xăng, giá gạo leo thang cùng với những tin đồn thất thiệt), thâm
hụt cán cân thương mại cũng đạt mức kỷ lục ( hơn 14% GDP), thị trường chứng
khoán liên lục sụt giảm. Trước tình hình đó, để giữ ổn định nền kinh tế vĩ mô, tạo nền
tảng cho tăng trưởng bền vững, Chính phủ đã điều chỉnh từ mục tiêu tăng trưởng cao
mang mục tiêu kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu và tăng trưởng duy trì ở mức
hợp lí. Tuy nhiên, những tháng cuối năm, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính
toàn cầu và áp lực giảm phát, diễn biến nền kinh tế và lạm phát của Việt Nam cũng
nằm trong xu hướng chung của kinh tế thế giới, nên các giải pháp vĩ mô cũng có sự
thay đổi cho phù hợp.
Nhìn chung, thị trường tiền tệ có những biến động chủ yếu sau:
Thứ nhất, lãi suất biến động mạnh và liên lục tăng cao trong những tháng đầu năm và
giảm dần trong những tháng cuối năm
Trong những tháng đầu năm 2008, đặc biệt là trong khoảng thời gian tháng 2/2008
đến tháng 5/2008, lãi suất huy động liên tục tăng cao trong cuộc chạy đua về lãi
suất… Tuy nhiên, những tháng cuối năm, lãi suất thị trường có xu hướng giảm: lãi
suất huy động và cho vay bằng VND giảm 2,5%-3%/năm, lãi suất huy động phổ biến
từ 10%-11%/năm, cho vay bằng VND của các NHTM Nhà nước khoảng 12%-
14%/năm, NHTM cổ phần khoảng 14%-16%/năm, lãi suất cho vay USD khoảng
6,6%-9%/năm. Có thể đánh giá chung về diễn biến tình hình lãi suất trong năm 2008
chủ yếu gắn liền với 3 yếu tố chính sau
Yếu tố thị trường: trong điều kiện lạm phát, việc tăng lãi suất là phù hợp, nhằm đảm
bảo lợi ích các thành viên của thị trường tiền tệ( ngân hàng, người gửi tiền, người vay
tiền)
Tác động của việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt: việc thực thi chính sách thắt
chặt tiền tệ của NHTM thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt
buộc và công cụ lãi suất đã tác động trực tiếp đến thị trường tiền tệ và hoạt động kinh
doanh của các NHTM, theo hướng làm giảm quy mô nguồn vốn, giảm khả năng cho
vay. Quá trình này tác động làm tăng chi phí kinh doanh, tăng lãi suất cho vay của các

NHTM và trực tiếp đến thanh khoản của các NHTM trong thời gian này
Yếu tố chủ quan: Lãi suất tăng nhanh và tăng cao ngoài 2 yếu tố mang tính khách
quan, còn do yếu tố chủ quan đó là quá trình khai thác và sử dụng nguồn vốn của các
NHTM chưa hợp lý. Trong đó việc tăng trưởng tín dụng quá nóng, vượt khả năng
nguồn vốn của 1 số NHTM cổ phần đã tạo ra áp lực về thanh khoản rất lớn. Trong
khi đó nguồn vốn bị thu hẹp ( do phải tăng dự trữ bắt buộc, mua tín phiếu NHNN bắt
buộc) càng làm cho 1 số NHTM cổ phần khó khăn về vốn trong thanh khoản- diễn
biến này đã đẩy lãi suất huy động tăng cao và tăng nhanh nhằm thu hút nguồn tiền gửi
từ dân cư để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Cùng với quá trình “hút” tiền về của
NHNN, quá trình này đã tác động hiệu ứng đến toàn bộ hệ thống và làm xuất hiện
cuộc đua lãi suất trong khoảng thời gian cuối tháng 2 và nửa đầu tháng 3/2008
Thứ hai, tỷ giá trên thị trường diễn biến phức tạp
Đến cuối tháng 11/2008, so với cuối năm 2007 thì tỷ giá bình quân liên ngân hàng
tăng 2,75% ( tỷ lệ năm 2007 là 0,17%). Tỷ giá mua bán của các NHTM trong biên độ
cho phép. Mặc dù diễn biến của tỷ giá về cơ bản trong sự điều hành của NHNN. Tuy
nhiên, tỷ giá trên thị trường có lúc diễn biến bất thường do xu hướng nhập siêu gia
tăng, diễn biến thị trường vàng, ngoại tệ trên thế giới phức tạp… đã tác động đến tâm
lý người dân, nhà đầu tư. Trong đó, một bộ phận nhà đầu tư ngoại tệ đầu cơ, tích trữ
đã tác động hiệu ứng chung đến thị trường, làm cho tỷ giá trong thời gian này tăng
nhanh, tăng cao và tăng liên tục trong những tháng 6/2008. Chỉ khi có dấu hiệu khả
quan về nhập siêu, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, kim ngạch xuất khẩu và đặc biệt thông tin về Dữ trữ ngoại tệ quốc gia… thị
trường mới có phản ứng tích cực. Theo đó, tỷ giá đã ổn định trở lại, quan hệ cung cầu
ngoại tệ ổn định, các tổ chức tín dụng đảm bảo đáp ứng ngoại tệ cho hoạt động kinh
doanh sản xuất
Thứ ba, phát sinh nhiều loại phí liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng, dẫn đến
sự cạnh tranh thiếu lành mạnh
Diễn biến phức tạp của tình hình lãi suất, tình hình tỷ giá đã làm phát sinh nhiều loại
phí liên quan đến hoạt động này. Trong đó việc nổi bật 2 loại phí dịch vụ tín dụng
( như: phí thu xếp vốn, phí thẩm định, phí giải ngân… đây không phải là loại phí mới

phát sinh. Tuy nhiên trong quá trình này, một số tổ chức tín dụng đã thực hiện việc ký
quỹ đối với khách hàng vay tiền, đã làm phát sinh chi phí, làm tăng chi phí khoản vay
(Hình thức này đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến quan hệ khách hàng- ngân hàng,gây
khó khăn cho khách hàng vay vốn), và phí ngoại hối ( khoảng thời gian 6/2008, tỷ giá,
cung cầu ngoại tệ diễn biến rất nhanh: thừa ngoại tệ nhiều sau đó lại có biểu hiện khan
hiếm ngoại tệ, việc mua bán ngoại tệ theo giá niêm yết thường không có lợi. Điều này
đã làm phát sinh việc thu phí trong hoạt động này, trong một số trường hợp, các tổ
chức tín dụng “ lách” biên độ bằng việc giao dịch qua đồng tiền thứ 3… Quá trình này
đã tác động rất lớn đến thị trường ngoại hối, gây ra những biến động về tâm lý cho
người dân và làm lợi cho giới đầu cơ, ảnh hưởng rất nhiều đến các doanh nhiệp
Thứ tư, thanh khoản của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các NHTM cổ phần nhỏ gặp
khó khăn
Trong những tháng đầu năm 2008, thanh khoản của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là
NHTM cổ phần nhỏ gặp nhiều khó khăn trong đó diễn biến của tình hình lãi suất trên
thị trường, đặc biệt là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng liên tục và tăng cao
là thực tế minh chứng rõ nhất về tình hình này trong những tháng đầu năm. Cụ thể:
+ Nhu cầu vốn trong thanh toán của một số NHTM cổ phần nhỏ rất cao. Để đáp ứng
nhu cầu vốn cho thanh toán các NHTM nói chung và NHTM cổ phần nói riêng trên
địa bàn đã sử dụng biện pháp lãi suất để thu hút nhanh nguồn vốn tiền gửi từ dân cư.
Theo đó lãi suất huy động liên tục tăng trong thời gian này
+ Vốn khả dụng thấp: Về mặt nguyên tắc tất cả các TCTD phải đảm bảo duy trì dự trữ
bắt buộc bình quân. Tuy nhiên, trong đó một số thời điểm tại một số NHTM cổ phần,
mức này không được duy trì và phải bù đắp vào những ngày cuối tháng- diễn biến này
càng làm tăng thêm nhu cầu vốn trên thị trường liên ngân hàng.
+ Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng liên tục tăng nhanh và tăng cao. Có thời
điểm lãi suất loại kỳ hạn cho vay qua đêm lên tới 21%/năm, trong khi đó, mức lãi suất
này khi thị trường ổn định ở mức khoảng 10%-11%/năm
2.2. Điều hành chính sách tiền tệ 2008 của NHNN
Theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính trong và ngoài nước, việc điều hành
chính sách tiền tệ trong những năm 2008 đã thực sự thành công, NHNN đã có những

quyết định hết sức nhanh nhạy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá… và những
liệu pháp đó đã nhanh chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Có thể
điểm lại một số công cụ chủ yếu sau:
• Lãi suất
Lãi suất cơ bản là công cụ có sức công phá lớn và có vai trò quan trọng trong điều
hành CSTT của NHNN Việt Nam. Năm 2008, NHNN đã có những điều hành linh
hoạt lãi suất phù hợp diễn biến kinh tế vĩ mô. Cụ thể
Trong 8 tháng đầu 2008, trước bối cảnh lạm phát và nhập siêu tăng mạnh, đe dọa đến
sự ổn định kinh tế vĩ mô, cùng với giải pháp thắt chặt tiền tệ, NHNN đã từng bước
điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản và các mức lãi suất khác cho phù hợp với các mục tiêu
kiểm soát chặt chẽ tiền tệ. Lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75% rồi 12%,
14%/năm. Đồng thời, từ ngày 19/05/08 thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù
hợp với Luật NHNN và Bộ luật Dân sự, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh
doanh bằng VND đối với khách hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN
công bố trong từng thời kỳ. Lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%; 13% và
15%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6%;11% rồi 13%/năm.
Trong những tháng cuối 2008, lạm phát có xu hướng giảm dần đồng thời trong khi đó
thì tăng trưởng kinh tế đã có sự suy giảm mạnh so với năm 2007 do ảnh hưởng cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới. Tình hình này đòi hỏi NHNN phải có những bước đi
thận trọng nhằm tiếp tục kiểm soát lạm phát nhưng đồng thời cũng góp phần tăng đầu
tư sản xuất, kinh doanh để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Trong bối cảnh, NHNN 5
lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14%/năm xuống 13%;12%;11%;9,5% và
8,5%/năm. Lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống 14%;13%;12%;11% và 9,5%/năm.
Lãi suất tái chiết khấu từ 13%/năm xuống 12%;11%;10%;9% và 7,5%/năm
1/1 1/2 19/5 11/6 21/10 5/11 21/11 22/12
Lãi suất cơ
bản
8.25 8.75 12 15 14 12 11 9.5
Lãi suất tái
cấp vốn

7.5 13 14 13 11 10 8.5
Lãi suất tái
chiết khấu
6 11 13 12 10 9 7.5
• Dự trữ bắt buộc
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tháng 2/2008, NHNN điều chỉnh tăng 1%
tỷ lệ DTBB đối với tất cả các loại kỳ hạn, áp dụng cho cả tiền gửi VND và ngoại tệ
đối với hầu hết các TCTD( trừ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn và 1
số TCTD hợp tác và NHTM cổ phần nông thôn). Đồng thời mở rộng diện phải DTBB
đối với tiền gửi có kì hạn từ 24 tháng trở lên ( trước đây chỉ bao gồm tiền gửi có kỳ
hạn và không kỳ hạn dưới 12 tháng) nhằm nâng cao khả năng điều tiết công cụ DTBB
Những tháng cuối năm 2008, để hỗ trợ các TCTD tăng cung ứng vốn cho nền kinh tế,
ngăn chặn suy giảm kinh tế, NHNN đã thực hiện 5 lần điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB
đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng từ 11%-10%-8%-6%-
3%, kỳ hạn 12 tháng trở lên điều chỉnh giảm từ 2% xuống 1%; 2 lần điều chỉnh giảm
tỷ lệ DTBB đối với ngoại tệ từ 11%-9%-7%
Cùng với việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB, NHNN còn linh hoạt điều chỉnh lãi suất tiền
gửi DTBB bằng VND của các TCTD tại NHNN, điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi
DTBB từ 1,2%/năm lên 3,6%-5%-10%/năm sau đó điều chỉnh giảm từ 10%/năm
xuống 8,5%-3,5%/năm. Việc điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi DTBB tạo điều kiện cho
TCTD hạ lãi suất huy động và cho vay
Diễn biến Dự trữ bắt buộc năm 2007-2008
Đơn vị %
2007 2008( 5 lần thay đổi)
Tỷ lệ DTBB( % tổng số dư
tiền gửi phải DTBB)
Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Lần 5
- Không kỳ hạn và dưới 12
tháng
+ VND 10 11 10 8 6 5

+ Ngoại tệ 10 11 9 9 7 7
- Từ 12-24 tháng
+ VND 4 5 4 2 2 1
+ Ngoại tệ 4 5 3 3 3 3
Ngoài ra, NHNN còn phát hành trên 20000 tỷ đồng tìn phiếu bắt buộc đối với các
NHTM
• Nghiệp vụ thị trường mở
Một trong những công cụ quan trọng không thể không nhắc đến của chính sách tiền tệ
là nghiệp vụ thị trường mở
Kết quả giao dịch OMO 2008:
Loại giao dịch Tổng số dự Khối lượng Khối lượng LS trúng thầu
kiến đăng ký trúng thầu b.quân(%/năm)
Mua có kỳ hạn
(260 phiên)
979.800 3.883.089 947.205 12,92
Bán hẳn
(133 phiên)
368.000 135.553 76.837 4,6
Bán có kỳ hạn
(9 phiên)
12.022 12.022 12.022 14,91
Tổng số 1.359.822 1.030.673 1.036.066
Năm 2008, nghiệp vụ thị trường mở đảo chiều so với năm 2007 với tổng số phiên
giao dịch là 402 phiên, tăng 47 phiên so với năm 2007; doanh số giao dịch đạt
1.036.066 tỷ đồng, tăng 148% so với năm 2007, trong đó doanh số mua chiếm
91,42% và gấp 15 lần so với năm 2007, doanh số bán giảm 4,6%. Đặc biệt, mức lãi
suất đặt thầu trong một số phiên mua kỳ hạn trong quý I/2008 ở mức lãi suất rất cao,
có lúc lên tới 40%/năm vì vậy NHTW đã áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng,
lãi suất thống nhất cho tất cả các kỳ hạn giao dịch( từ 9-15%/năm) để ổn định lãi suất
thị trường. Diễn biến này phản ánh những biến động bất thường của thị trường của thị

trường tiền tệ năm 2008 và khó khăn về thanh khoản của các TCTD. Kết quả giao
dịch cụ thể từng quý thể hiện như sau:
Giao dịch Quý I Quý II Quý III Quý IV
LS(%) KL(tỷ) LS(%) KL( tỷ) LS(%) KL(tỷ) LS(%) KL(tỷ)
Mua kỳ
hạn
12,18 190.214 11,88 445.00
0
15 283.10
0
13,6 28.891
Bán hẳn 8,5 1.867 1.578 1.578 4,5 74.986
Bán kỳ
hạn
14,91 12.022
Trong quý I, trên thị trường mở diễn ra cả 2 loại giao dịch mua và bán nhưng kết quả
mua là chủ yếu( khoảng 93%) và áp dụng cả hai phương pháp đấu thầu là đấu thầu lãi
suất và đấu thầu khối lượng, thời hạn giao dịch phổ biến là 07 và 14 ngày trong
nghiệp vụ Mua kỳ hạn trên thị trường mở. Từ tháng 2/2008, do tình hình lãi suất đặt
thầu và thắng thầu cao, NHTM chỉ sử dụng phương pháp đấu thầu khối lượng, mức
lãi suất thống nhất được sử dụng trong tuần đầu tiên là 15% nhằm tạo định hướng cho
thị trường, trong các tuần tiếp theo lãi suất được điều chỉnh giảm xuống
14%,13%;10% và 9% chp phù hợp với lãi suất cơ bản do NHNN công bố.
Sang quý II, để đảm bảo tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, NHNN một mặt
áp dụng chính sách thặt chặt tiền tệ nhưng mặt khác vẫn hỗ trợ thanh khoản cho các
TCTD qua kênh OMO. Lượng vốn bơm ra thị trường trong thời kỳ này đạt kỷ lục là
445.000 tỷ đồng, chiếm 99,65% tổng khối lượng giao dịch OMO trong quý II. NHNN
tiếp tục áp dụng hình thức đấu thầu khối lượng với mức lãi suất thống nhất được điều
chỉnh tăng dần từ 9% lên 12%/năm
Quý III, tình hình vốn trên thị trường đã bớt căng thẳng. NHNN tiếp tục tổ chức Mua

kỳ hạn trên thị trường mở và duy trì hình thức đấu thầu khối lượng với mức lãi suất
được điều chỉnh tăng lên 15%/năm cho phù hợp với định hướng điều hành lãi suất và
kiềm chế lạm phát của NHNN
Bước sang quý IV, lạm phát đã được kiềm chế và Chính phủ ưu tiên cho mục tiêu
chống suy giảm kinh tế, nguồn vốn khả dụng của các TCTD đã được cho cải thiện
đáng kể. NHNN đã tổ chức cả hai loại giao dịch mua và bán, trong đó giao dịch mua
vẫn áp dụng hình thức đấu thầu khối lượng nhưng lãi suất đấu thầu được điều chỉnh
giảm dần từ 15%/năm xuống 9%/năm. Kết quả, lượng vốn đưa ra qua kênh mua chỉ
bằng 38,35% so với lượng vốn hút về qua kênh bán.
Với hiệu quả rõ rệt của nghiệp vụ thị trường mở, số lượng thành viên tham gia nghiệp
vụ này đã tăng từ mức 44 TCTD trong năm 2007 lên mức 56 TCTD trong năm 2008,
tỷ lệ thành viên tham gia giao dịch cũng tăng từ mức 21 TCTD lên mức 35 TCTD
• Về tỷ giá
Năm 2008, NHNN đã 3 lần điều chỉnh biên độ tỷ giá, từ ± 0,75% đầu năm 2008 lên ±
1% ngày 10/3/2008, từ ± 1% đến ± 2% ngày 27/06/2008 và ± 3% vào ngày 7/11/2008
Diễn biến tỷ giá USD/VND 2008-3/2009
Năm 2008, thị trường tỷ giá biến động rất phức tạp
Quý I năm 2008, trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá USD/VND có xu hướng giảm
nhưng không quá mạnh, từ mức 16.112 VND/1USD vào ngày 2/1/2008 xuống còn
15.960 VND/1USD vào ngày 27/3/2008, còn trên thị trường tự do, mức giá lúc đó chỉ
còn từ 15.700-15.800 VND/USD. Đồng thời NHNN Việt Nam cũng điều chỉnh tăng
biên độ tỷ giá từ ±0,75% đầu năm 2008 lên ± 1% ngày 10/03/2008. Trong quý I/2008,
tỷ giá giảm do lượng kiều hối dồn về nhiều từ cuối 2007 đến tháng 2/2008, áp lực từ
việc nhà đầu tư nước ngoài mua trái phiếu Chính phủ khoảng 1,4 tỷ USD, doanh
nghiệp xuất khẩu vay USD chuyển đổi ra VND sản xuất kinh doanh, các ngân hàng
thương mại bán USD để có trạng thái đoản.
Đến quý II, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố: thâm hụt cán cân thương mại lớn(7,22 tỷ
USD trong 3 tháng từ tháng 4-6);nhu cầu ngoại tệ trả các khoản nợ của cả doanh
nghiệp xuất nhập khẩu đến hạn cao; tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá
vàng trong nước và quốc tế;nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi Việt Nam bằng việc

bán trái phiếu Chính phủ ròng chuyển ngoại tệ về nước do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế, tỷ giá có xu hướng tăng. Ngày 1/4/2008 tủ giá bình quân liên ngân
hàng là 15960 VND/USD liên tục tăng nhẹ lên mức 16139 VND/USD ngày
10/06/2008 sau đó đột biến tăng mạnh vào ngày 11/6/2008 với mức 16461
VND/USD. Ngày 30/06/2008 từ 16514 VND/USD. NHNN đã quyết định nới biên độ
dao động từ ± 1% lên ± 2% ( từ ngày 26/06/2008) đồng thời triển khai hàng loạt các
biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông,
công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam ( điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam),…Nhờ
đó,tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08
Thế nhưng, từ tháng 9, tỷ giá USD/VND biến động thất thường, đầu tiên giảm từ mức
16515 ngày 1/10/08 xuống 16494 ngày 24/12 rồi tăng mạnh lên mức 16.989
VND/USD. CÒn trên thị trường tự do, tỷ giá đã thiết lập trên mốc 17000 VND/1
USD từ khá lâu. Từ ngày 7/11/2008, biên độ tỉ giá giao dịch USD/VND được mở
rộng từ mức 2% lên 3% so với tỉ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố
( Quyết định số 2635/QĐ-NHNN ngày 6/11/2008). Biên độ tỷ giá tiếp tục tăng từ ±
2% lên ± 3% vào ngày 7/11/2008
Từ cuối năm 2008, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của
Việt Nam.Theo nghiên cứu, chỉ trong tháng 9 và 11/2008, khối đầu tư nước ngoài đã
bán ròng 0,7 tỷ USD trái phiếu chính phủ và 100 triệu USD cổ phiếu các loại..Bên
cạnh đó, nhu cầu USD của các ngân hàng nước ngoài vẫn cao, ước khoảng 40 triệu
USD/ngày. Thêm vào đó, thâm hụt thương mại có dấu hiệu tăng trở lại. Chỉ trong 2
tháng 10 và 11/2008, thâm hụt thương mại lên tới 1,17 tỉ USD. Ngoài ra, một áp lực
nữa làm cho cầu USD tăng là do Nhà nước không cho phép nhập khẩu vàng, làm tăng
cầu USD tăng để nhập khẩu lậu vàng.Cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư
đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phổ biến
ở mức ~1800. NHNN đã thêm lần nữa điều chỉnh biên độ giao động tỷ giá (± 3% từ
mức 06/11/2008) và triển khai một số công cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ
dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp
ứng cơ bản đầy đủ.
Nhận định

Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra một
lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tính dụng từ các
NHTM ra thị trường.Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm
3,91%/ tháng ( tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn trong
quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn
là 19,89%
Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới
lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. LSCB đã hạ
dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/2008), 12% ( từ 05/11/2008) và liên tiếp được
điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008( 11% từ 21/11/08, 10% từ
ngày 05/12/2008; 8,5% từ 22/12/2008) trước khi ổn định mở mức 7% như hiện nay.
Cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều chỉnh giảm, các NHTM được bán
tín phiếu bắt buộc trước hạn. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc
điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng
dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng năm 2008 đạt ~ 23%, tăng
trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô
2.3 Nhận xét về điều hành CSTT của NHNN năm 2008
• Mặt tích cực
Trong bối cảnh nền kinh tế lạm phát cao và gặp nhiều khó khăn, các biện pháp điều
hành CSTT của NHNN năm 2008 đã có tác động tích cực đối với kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì đà tăng trưởng kinh tế, củng cố niềm tin đối với các
tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thực tế cho thấy, việc điều
hành linh hoạt các công cụ quản lý đã phát huy tác dụng nhiều mặt, vừa kiểm soát
khối lượng tiền trong lưu thông, vừa điều tiết lãi suất và tỷ giá trên thị trường, đồng
thời phát ra tín hiệu rõ ràng về thực hiện CSTT thắt chặt để phối hợp điều tiết các hoạt
động kinh tế của tổ chức, cá nhân phù hợp với mục tiêu chính sách. CÙng với việc
thực hiện quyết liệt các nhóm giải pháp của Chính phủ, kinh tế vĩ mô đã có những dấu
hiệu tích cực, thể hiện qua:
Lạm phát đã có xu hướng giảm dần ngoại trừ tháng 5 tăng 3,91% chủ yếu do sốc giá
gạo vào tháng 4/2008. Cụ thể CPI các tháng:

Đơn vị:%

×