Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân viêm gan mạn virus b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.98 MB, 79 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân số thế giới có hơn 6 tỷ người thì có khoảng 2 tỷ người đã và đang
nhiễm VRVGB. Tỷ lệ người mang dấu ấn HBV trong dân chúng ở Châu Á
là từ 5 – 10% [45].
Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Bệnh tật cho
thấy khắp thế giới có đến 1,2 triệu trường hợp tử vong hàng năm do bệnh gan
mạn tính liên quan với HBV. Tổ chức Y tế thế giới báo cáo HBV lây mạnh
hơn HIV gấp 50 – 100 lần và lan rộng khắp châu Á và tiểu lục địa Ấn [16].
Theo Đinh Quý Lan, ở Việt Nam bệnh viêm gan do nhiều loại virus,
đặc biệt nghiêm trọng là viêm gan do virus B vì số người nhiễm virus B dao
động từ 15 – 20% dân số. Nước ta có khoảng 12 – 16 triệu người bị lây
nhiễm có HBsAg (+), trong số này có khoảng 4 – 5 triệu người bị viêm gan,
xơ gan hoặc ung thư gan [29].
Hậu quả diễn biến bệnh ở bệnh nhân nhiễm HBV mạn tính phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như tuổi mắc bệnh, giới tính, kiểu gen của virus viêm gan
B, các kháng nguyên của HBV và kháng thể của cơ thể, tải lượng HBV
DNA. Các đối tượng nhiễm HBV mạn tính với tải lượng HBV DNA cao
thường có liên quan đến tình trạng kháng nguyên HBeAg dương tính, kiểu
gen C của HBV và mức độ tổn thương gan trên mô bệnh học cũng có xu
hướng nặng hơn so với tải lượng HBV DNA thấp [33], [80].
Hướng dẫn thực hành của Hiệp hội nghiên cứu bệnh gan của Mỹ
(AASLD) chủ trương làm những xét nghiệm để đánh giá giai đoạn của bệnh
gan, các xét nghiệm về sự sao chép của HBV và bộ xét nghiệm nhiễm virus
viêm gan B cũng như các xét nghiệm khác về đồng nhiễm các virus khác.
Alanine aminotransferase là xét nghiệm máu quy ước được theo dõi trong
2
viêm gan B mạn. Hướng dẫn thực hành của AASLD chủ yếu dựa vào kết
quả định lượng HBV DNA trong máu như là những xét nghiệm chính yếu.
Hướng dẫn khuyến cáo nên xét nghiệm tải lượng HBV DNA nhiều lần để
tiên lượng và quyết định điều trị [16].


Iloeje tiến hành nghiên cứu dọc trên 3582 bệnh nhân nhiễm virus viêm
gan B không điều trị ở Thái Lan trong 11 năm thấy có 365 bệnh nhân được
chẩn đoán xơ gan mới, đồng thời nồng độ virus viêm gan B có ý nghĩa dự
đoán mạnh nhất nguy cơ xơ gan. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng biến
chứng xơ gan ở bệnh nhân VGMVB có liên quan mạnh mẽ với tải lượng
HBV DNA. Tải lượng HBV DNA làm tăng nguy cơ tiến triển thành xơ gan
(p= 0,021) [84].
Vì lý do đó, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu một
số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân viêm gan mạn virus
B” với 2 mục tiêu:
1. Khảo sát một số đặc điểm lâm sàng, hoạt độ men transaminase
máu, bilirubin máu, tỷ prothrombin, siêu âm bụng và tải lượng HBV DNA ở
bệnh nhân viêm gan mạn virus B HBeAg (+) và HBeAg (-).
2. Đánh giá mối liên quan giữa tải lượng HBV DNA với một số đặc
điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân viêm gan mạn virus B.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐỊNH NGHĨA
1.1.1. Khái niệm
Viêm gan mạn là biểu hiện của nhiều loại tổn thương gan do nhiều
loại nguyên nhân khác nhau trong đó viêm và hoại tử tế bào gan > 6 tháng.
Thể nhẹ là thể không tiến triển hoặc tiến triển rất chậm và không đưa
đến xơ hoặc ung thư gan còn thể nặng là thể viêm hoại tử dồn dập hoặc
nhiều đợt tiến triển tấn công vào tế bào gan để rồi cuối cùng đưa đến xơ và
ung thư hóa [5].
1.1.2. Nguyên nhân
Viêm gan mạn gây ra do nhiều loại nguyên nhân thường gặp là viêm
gan siêu vi nhất là B, C, B phối hợp với D và gần đây nhất là viêm gan mạn
G, viêm gan mạn tự miễn, viêm gan mạn do thuốc. Ngoài ra một số ít trường

hợp còn do rối loạn di truyền, biến dưỡng và ngay cả viêm gan do rượu cũng
có thể gây ra viêm gan mạn [48].
Trong nội dung đề tài này ta chỉ nghiên cứu viêm gan mạn do virus B.
1.2. MỘT VÀI NÉT LỊCH SỬ
Ngay từ thời Hyppocrates, ông cũng đã đề cập đến viêm gan B cũng
như các tác nhân khác gây viêm gan (VG). Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ XVII
và đầu thế kỷ XIX mới có các vụ dịch VG lớn, đặc biệt xảy ra trong các cuộc
hành quân trong quân đội.
Năm 1885, Lurman đã thông báo lần đầu tiên 191 trường hợp viêm gan
sau vacxin đậu mùa được phân lập từ hạch lympho của người. Từ đó, người
ta chú ý tới một bệnh VG khác không lây qua đường ăn uống. Vào năm
4
1947, Mac Callum và Bauer đã đưa ra từ “viêm gan A” cho VG nhiễm trùng
và “viêm gan B” cho VG huyết thanh. Mãi đến năm 1953 thì Tổ chức Y tế
thế giới mới thừa nhận từ “Viêm gan siêu vi A và B” [60].
Cho đến nay, người ta đã xác định được 8 loại virus gây bệnh viêm
gan: HAV, HBV, HCV, HDV, HEV, HGV, HFV và TTV. Trong đó HBV có
mức độ lây lan nhanh và nguy cơ gây xơ gan và ung thư gan cao nên được
các nhà khoa học quan tâm nhiều [60].
1.3. DỊCH TỄ
1.3.1.Vùng dịch lưu hành cao
- Là Đông Nam Á, Châu Phi, Trung Quốc, lưu vực sông Amazon, một
số vùng ở Trung Đông [25], [67].
- Tỷ lệ người có HBsAg: 5– 20% [63].
- Đường lây truyền chủ yếu xảy ra theo chiều dọc từ mẹ sang con, tuổi
bị nhiễm rất sớm như trẻ sơ sinh. Ngoài ra sự lây nhiễm còn xảy ra ở tuổi
thiếu niên do lây nhiễm lẫn nhau trong gia đình và bạn bè. Vì vậy hầu hết
dân số bị nhiễm có huyết thanh chẩn đoán HBV(+) rất sớm, thường sau 10
tuổi. Tuy nhiên bệnh thường được phát hiện ở tuổi trưởng thành lúc đã có
triệu chứng viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư gan. Do bị nhiễm ở tuổi còn

nhỏ nên nguy cơ trở thành người mang siêu vi mạn tính rất cao. Sự lây
nhiễm ở vùng này còn xảy ra do tiêm chích ma túy, quan hệ tình dục…
[82], [85].
- Tại Việt Nam một số nghiên cứu khu vực cho thấy tỷ lệ người mang
HBsAg rất cao có thể lên đến 30%. Riêng người có nguy cơ cao như gái mại
dâm, người tiêm chích ma túy có thể lên đến 80%.
5
Bảng 1.1. Tỷ lệ người mang HBsAg tại Thanh Hóa và Thừa Thiên Huế
Người nghiên cứu Nơi
nghiên cứu
Tỷ lệ người
mang HBsAg (+)
Nguyễn Đăng Tấn, Vũ Hồng Cương
[47]
Thanh Hóa 30,61%
Ngô Viết Lộc, Trần Thị Minh Diễm
[34].
Thừa Thiên Huế 19,02%
1.3.2. Vùng dịch lưu hành trung bình
- Gặp ở một số quốc gia Nam Âu (Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…),
Đông Âu, Nam Mỹ, Trung Mỹ, Trung Cận Đông…[83].
- Tỷ lệ người có HBsAg: 1 - 5%
- Kiểu lây truyền chủ yếu là theo đường tình dục, xảy ra ở trẻ lớn,
người lớn. Tuổi bị nhiễm cao nhất khoảng 25 – 30 tuổi [25], [63].
1.3.3. Vùng dịch lưu hành nhẹ
- Gặp ở Bắc Mỹ, Tây Âu, Châu Úc, một số vùng ở Nam Mỹ, Địa
Trung Hải.
- Tỷ lệ người có HBsAg: 0,1 – 1%
- Lây truyền thường theo chiều ngang, hay gặp từ 20 – 40 tuổi. Trẻ em
hiếm khi nhiễm HBV do được chủng ngừa viêm gan đầy đủ. Thường gặp ở

những đối tượng có nguy cơ nhiễm HBV cao (chích ma túy, mại dâm, đồng
tính luyến ái,…) [82], [85].
Theo Robert G.Gish, châu Á/ vùng châu Á Thái Bình Dương có tần
suất bệnh mới cao nhất, sau đó là châu Phi và vùng Đông Âu/ Địa Trung
Hải. Ở Mỹ và châu Âu, VG do virus B là vấn đề y tế chính ở những nhóm
dân tộc đặc biệt [16].
6
1.4. CẤU TRÚC VIRUS VIÊM GAN B
Hình 1.1: Cấu trúc của virus viêm gan B
Virus viêm gan B thuộc họ Hepadnaviridae. Khi quan sát huyết thanh
của bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B dưới kính hiển vi điện tử người ta
thấy có 3 loại tiểu thể [91], [108]:
- Tiểu thể hình cầu nhỏ hoặc hình bầu dục đường kính 20-22nm.
- Tiểu thể hình trụ có đường kính 20-22nm và dài từ 200-400nm
- Tiểu thể hình cầu lớn, đường kính 42-45 nm, được gọi là tiểu thể
Dane, loại này hiếm hơn. Vỏ là một lớp lipoprotein, nhân là nucleocapsid
đường kính 27nm chứa DNA và DNA-polymerase [14].
1.4.1. Vỏ bọc ngoài
- Dầy khoảng 7nm, gồm 2 lớp lipoprotein trong đó có 3 loại protein,
mỗi loại đều có chung một quyết định kháng nguyên là HBsAg [14].
+ Protein nhỏ bề mặt: Gồm 226 acid amin, mã hóa bởi gen S, gen này
quyết định kháng nguyên HBs. Protein loại này có 5 quyết định kháng
nguyên khác nhau: a, d, y, w, r.
7
+ Protein trung bình bề mặt: Gồm 281 acid amin, được mã hóa bởi
gen tiền S2 và gen S.
+ Protein lớn bề mặt: Gồm 389-400 acid amin tùy thuộc vào typ huyết
thanh, được mã hóa bởi gen tiền S1, tiền S2 và gen S [14], [20].
1.4.2. Vỏ capsid
- Dày khoảng 27-28nm được hình thành bởi nhiều protein, chứa 183

acid amin, mã hóa bởi gen C mang quyết định kháng nguyên HBc (HBcAg).
Kháng nguyên e của HBV (HBeAg) có mặt trong huyết tương hình thành do
quá trình phân tách của một protein lớn hơn mã hóa bởi các gen tiền C (pre-
core) và gen C (core) [14].
1.4.3. Lớp lõi
- Lớp trong cùng chứa genome của HBV (DNA), men DNA
polymerase có khả năng phiên mã ngược, men proteinkinase có khả năng
phospho hóa các protein của nucleocapsid, các loại protein nhỏ khác bám
vào DNA.
- Bộ gen của HBV là một phân tử DNA vòng có cấu trúc mạch kép
không hoàn toàn, kích thước khoảng 3181-3221 base được cấu tạo bởi hai
sợi có chiều dài không bằng nhau. HBV có cấu trúc đặc biệt nhỏ gọn, bộ gen
với chiều dài có hạn, nhưng các vùng mã hóa sắp xếp giao nhau của các gen:
S, C, P và X nên có khả năng tổng hợp được nhiều protein quan trọng của
virus [6].
+ Đoạn gen S bao gồm vùng S, Pre-S1, Pre-S2 mã hóa để tổng hợp
các protein bề mặt hay HBsAg.
+ Gen C mã hóa cho các protein của nucleocapsid. Gen C có hai đoạn:
đoạn lõi và đoạn trước lõi.
Nếu đoạn sao chép ở trước lõi sản phẩm protein sẽ là HBeAg. Đây là
loại protein không tham dự vào cấu trúc virion và chức năng của nó chưa
được biết rõ. Tuy nhiên, sự hiện diện của HBeAg có liên quan đến lây nhiễm
8
và phản ánh tình trạng nhân lên của virus. Nếu việc sao chép bắt đầu từ đoạn
nhân thì sản phẩm protein là HBcAg [6], [84].
Một số trường hợp xảy ra đột biến ở đoạn trước lõi cho nên sự tổng
hợp của HBeAg không thực hiện được mặc dù quá trình nhân đôi của virus
vẫn tiếp diễn. Trong trường hợp này chỉ điểm duy nhất của sự nhân lên là
HBV DNA.
+ Gen P là gen lớn nhất chiếm 80% chiều dài của đoạn gen, mã hóa

cho DNA – polymerase.
+ Gen X mã hóa cho một loại protein nhỏ là sản phẩm của X
(HBxAg). Hiện nay, chứa năng của gen này chưa được rõ có lẽ giữ vai trò
chuyển hóa hoặc thuận lợi cho việc sinh sản của HBV [6].
1.5. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU BỆNH CỦA VIÊM GAN MẠN
- Về giải phẫu bệnh có 3 yếu tố chính: thâm nhiễm viêm, xơ hóa, và
hoại tử tế bào gan có khi có thêm hình ảnh xơ gan [5], [86].
+ Viêm: các tế bào đơn nhân (lympho và tương bào) không những chỉ
thâm nhiễm ở các khoảng cửa mà còn lan rộng ra trên các tiểu thùy gan. Như vậy
sự có mặt của những tế bào viêm ở xa khoảng cửa, thâm nhiễm viêm lan đến lớp
tế bào giới hạn, đó là những dấu hiệu của sự hoạt động viêm gan mạn tính.
+ Xơ hóa: đó là tổn thương chủ yếu ở khoảng cửa song nó có xu
hướng đến các tiểu thùy, nó làm vỡ lớp tế bào giới hạn và có xu hướng làm
biệt lập một số đám tế bào gan tạo nên những hình ảnh hoa hồng nhỏ khá đặc
hiệu của loại viêm gan này.
+ Hoại tử tế bào gan: có thể hoại tử trở thành ổ nhỏ chỉ ảnh hưởng lác
đác đến vài tế bào gan hoặc hoại tử kiểu mối gặm, ảnh hưởng đến các tế bào
của lớp giới hạn mà nó làm vỡ, hoặc hoại tử có thể rộng hơn, hoại tử có thể
hợp lưu, nó nối liền một tĩnh mạch trên gan với một khoảng cửa, đó là hoại
tử cầu nối của Klaskin, tiên lượng nặng.
9
+ Hình ảnh của xơ gan: trong viêm gan mạn tính, không có hạt tái tạo.
Đó là tiêu chuẩn để phân biệt với xơ gan. Song sự tiến triển của một
viêm gan mạn tính hoạt động có thể chuyển sang sự thành lập của xơ gan.
Cho nên cơ thể trên cùng mẫu sinh thiết có thể thấy những hình ảnh của
viêm gan mạn tính hoạt động và của xơ gan [48], [86].
- Theo Trần Văn Hợp và cộng sự đã sử dụng thang điểm Knodell thì
thấy trong VGMVB hầu hết các trường hợp có tổn thương hoại tử “mối
gặm” và hoại tử bắc cầu quanh khoảng cửa, trong đó chủ yếu tổn thương
mức độ vừa (43,3%), và mức độ nặng (30,1%). Tương tự, thoái hóa trong

tiểu thùy, hoại tử ổ và viêm khoảng cửa cũng chủ yếu gặp ở mức độ vừa và
nặng (53,3% và 36,7%; 40% và 33,3%) [21].
1.6. SINH LÝ BỆNH
1.6.1. Hiện tượng chết tế bào theo chương trình
Đây là một cơ chế sinh lý giúp thay thế và tái tạo tế bào. Các tế bào
này sẽ bị tế bào Kuffer thực bào để được thay thế bằng tế bào mới. Chính sự
hiện diện của virus trong tế bào làm cho tế bào trở nên bất thường và khởi
phát hiện tượng này. Tuy nhiên HBV lại có khả năng tạo ra một số protein
có hoạt tính chống lại hiện tượng chết tế bào theo chương trình để tiếp tục
nhân đôi trong tế bào gan bị nhiễm, góp phần duy trì tiến trình nhiễm virus
mạn tính [25].
1.6.2. Đáp ứng miễn dịch qua trung gian thể dịch
Kết quả của các đáp ứng miễn dịch thể dịch là tạo ra các kháng thể đặc
hiệu. Quá trình sản xuất kháng thể bắt đầu từ việc lympho B tiếp xúc và
nhận diện KN bề mặt của virus. Sau đó lympho B sẽ biệt hóa để trở thành
tương bào có nhiệm vụ sản xuất ra KT đặc hiệu cho KN bề mặt như Anti –
HBs, Anti-pre-S1 và Anti-pre-S2. Các KT hòa tan này giúp ngăn ngừa sự
10
phát tán của virus, ngăn ngừa virus xâm nhập vào tế bào gan mới và loại trừ
các virus đang lưu hành tự do trong huyết thanh [25].
1.6.3. Đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào
Đây là cơ chế bệnh sinh chính của các tổn thương gan trong VGSV B.
- Vai trò của tế bào lympho CD8+ gây độc tế bào (CTL): Các thụ thể
CD8+ nhận diện HBcAg trên bề mặt của tế bào gan bị nhiễm và làm khởi
phát tín hiệu gây chết tế bào theo chương trình. Tế bào lympho CD8+ còn
tiết ra các cytokin để thu hút các tế bào viêm, đại thực bào, bạch cầu đa nhân
trung tính gây hoại tử tế bào gan, tạo nên những ổ viêm hoại tử.
- Vai trò của tế bào lympho T CD4+ trợ giúp: Các tế bào này nhận
diện các KN của virus ở ngoài tế bào gan. Tác động này làm giải phóng các
cytokin có vai trò kích hoạt miễn dịch, gây tăng sinh tế bào lympho T, hỗ trợ

lympho B sản xuất KT và ức chế sự nhân đôi của virus.
- Đáp ứng miễn dịch tế bào không đặc hiệu: thông qua cơ chế của các
tế bào viêm không đặc hiệu như đại thực bào, BC đa nhân, tế bào giết tự
nhiên (Natural killer cell)… gây tổn thương tế bào gan [25].
1.7. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG CỦA VIÊM GAN MẠN
Viêm gan mạn thường là một bệnh im lặng. Các triệu chứng không
tương quan với mức trầm trọng của tổn thương gan. Theo Bùi Đại, khoảng
50% các trường hợp bệnh nhân đến khám khi viêm gan đã được xác định là
mạn tính có vàng da, bụng báng, hoặc tăng áp tĩnh mạch cửa. Bệnh não ít
xảy ra. Bệnh nhân thường không có bệnh sử của một đợt tấn công của viêm
gan cấp trước đó [10]. VGMVB có nhiều cách phân loại trong đó phân loại
theo thể bệnh thì nhiều tác giả trong nước chia ra ba thể chính: viêm gan mạn
tồn tại, viêm gan mạn tiểu thùy, viêm gan mạn hoạt động [14], [48].
- Biểu hiện lâm sàng của VGMVB thường kín đáo, âm thầm, kéo dài
trên 6 tháng. Phần lớn người bệnh khó nhận biết và sống khỏe mạnh như
11
người bình thường là VGMTT, một số ít trường hợp có thể biểu hiện những
đợt rầm rộ như viêm gan cấp là VGMHĐ [5], [11], [73].
- Chán ăn, mệt mỏi: là triệu chứng thường gặp, là dấu hiệu xuất hiện
từ khi khởi bệnh và thường kéo dài, chiếm khoảng 60-80%. Sự hiện diện và
mức độ mệt mỏi không liên quan đến tình trạng nặng nhẹ của bệnh.
- Sốt: đa số bệnh nhân sốt nhẹ hoặc không sốt, một số ít có sốt cao,
chiếm khoảng 20%.
- Đau hạ sườn phải: bệnh nhân cảm thấy đau nhẹ hoặc cảm giác nặng
tức vùng hạ sườn phải, chiếm khoảng 15-35%.
- Vàng mắt, vàng da: thường xuất hiện trong những đợt bệnh tiến triển
và có tổn thương gan tiến triển trên mô học, chiếm khoảng 10-20%, xét
nghiệm có transaminase và bilirubin tăng, tỷ prothrombin giảm và thường
kèm theo nước tiểu vàng hoặc sẫm đậm [103], [105].
- Các triệu chứng khác kèm theo: buồn nôn, nôn, sút cân, đau cơ-khớp,

ngứa…
- Gan lớn, lách lớn: khi khám thường không phát hiện thấy gan lớn
hay lách lớn. Trong những đợt tiến triển có thể khám thấy gan to vừa, căng
chắc, ấn đau tức, chiếm tỷ lệ 5-10%. Có thể có lách to chiếm khoảng 30%,
nhất là khi đã có tăng áp cửa. Hạch to: thường là hạch nách và hạch cổ,
chiếm 15-20%.
- Khám bụng: mềm hay báng chỉ phát hiện khi bệnh đã nặng, có hay
không có nốt dãn mạch hình sao, tuần hoàn bàng hệ.
- Các triệu chứng ngoài gan có thể xảy ra khoảng 10-20% của bệnh
VGMVB. Cơ chế của những biểu hiện này có thể là do sự hiện diện của các
phức hợp KN-KT của virus B lắng đọng ở một số cơ quan.
- Hai biểu hiện gan thường gặp nhất của bệnh VGMVB là viêm nút
động mạch và viêm vi cầu thận. Khoảng 10-50% bệnh nhân bị viêm nút
12
động mạch có HBsAg (+). Hiện tượng viêm mạch máu có thể xảy ra ở những
mạch máu có kích thước lớn, trung bình và nhỏ của nhiều cơ quan khác nhau
như tim mạch, thận, tiêu hóa, cơ xương, thần kinh và da [48], [87].
- Một số nghiên cứu cho thấy ở những bệnh nhân này có thể có đáp
ứng với điều trị bằng các thuốc kháng virus. Nhiễm VRVGB mạn tính có thể
gây ra bệnh cầu thận màng và ít gặp hơn là viêm cầu thận tăng sinh màng và
viêm vi cầu thận IgA.
- Bệnh lý ở gan thường có khuynh hướng nhẹ ở những người bị viêm
vi cầu thận có liên quan đến nhiễm VRVGB. Triệu chứng thường gặp nhất ở
bệnh này là tiểu đạm, bệnh có thể thuyên giảm tự nhiên và thường xảy ra khi
có phản ứng chuyển huyết thanh. Tuy nhiên, có đến 30% bệnh nhân sẽ tiến
triển đến suy thận [10].
- Theo Hoàng Tiến Tuyên nghiên cứu trên 38 bệnh nhân VGMHĐ do
virus B thì thấy các triệu chứng lâm sàng hay gặp là [53]:
Bảng 1.2. Tỷ lệ các triệu chứng lâm sàng hay gặp ở bệnh nhân VGMHĐ
Triệu chứng lâm sàng Tỷ lệ (%)

Mệt mỏi 100
Gan lớn 100
Gan mật độ chắc 92,1
Nước tiểu vàng 84,2
Chán ăn, sợ mỡ 81,6
Da, niêm mạc vàng 73,7
Suy giảm hoạt động tình dục 63,2
Sốt trước vàng da 57,9
Ngủ kém 55,3
13
1.8. XÉT NGHIỆM CẬN LÂM SÀNG CỦA VIÊM GAN MẠN
1.8.1. Men Transaminase
- Mức độ tăng transaminase huyết thanh không tương quan với độ
trầm trọng của tổn thương gan và không có giá trị về mặt tiên lượng, nó chỉ
phản ánh quá trình tương tác và mức độ đáp ứng miễn dịch của cơ thể vật
chủ chống lại VRVGB. ALT tăng cao thể hiện tình trạng hoại tử tế bào gan
nhưng mức độ dao động của ALT rất rộng.
- Ở bệnh nhân VGMVB men transaminase thường tăng cao hơn 2 lần
giới hạn trên của giá trị bình thường. Men gan thường tăng cao trong giai
đoạn vàng mắt, vàng da.
- Thông thường bệnh nhân VGMVB có ALT thường cao hơn AST cho
nên tỷ De Ritis AST/ALT <1. Một đặc trưng của VGMVB là kiểu ALT
huyết thanh dao động từng cơn, các thời kỳ hoạt tính ALT cao xen kẽ với
các thời kỳ bình thường hoặc gần bình thường [10].
1.8.2. Bilirubin máu
- Bilirubin máu tăng gấp 3 - 5 lần bình thường, tăng cả trực tiếp (liên
kết) và gián tiếp (không liên kết). Ở bệnh nhân tăng bilirubin huyết do tổn
thương tế bào gan hoặc ứ mật, bilirubin huyết thanh liên kết là chủ yếu, và vì
tan trong nước, cho phép bài tiết dễ dàng qua thận. Tăng bilirubin huyết quá
cao thường giải thích cho bệnh gan nặng kết hợp với một nguyên nhân tăng

bilirubin huyết không liên kết [4].
1.8.3. Thời gian prothrombin (PT) và các yếu tố đông máu huyết thanh
- Trừ yếu tố VIII, tất cả các yếu tố đông máu được tổng hợp ở gan. PT
là một trong những thành phần then chốt trong bảng điểm tiên lượng suy gan
kịch phát và viêm gan cấp do rượu. Nhìn chung, sự kéo dài từ 2 giây trở lên
ở lô chứng được xem là bất thường, Tuy nhiên, PT không phải là chỉ số nhạy
của bệnh gan mạn tính, vì PT có thể bình thường ngay cả ở bệnh nhân xơ
14
gan. Hơn nữa, độ đặc hiệu của xét nghiệm thấp khi có chứng kém hấp thu, vì
các yếu tố II, VII và X phụ thuộc vào vitamin K [10].
- Hàm lượng Prothrombin và hàm lượng yếu tố V hiếm khi giảm dưới
60%. Khi đã diễn tiến sang giai đoạn xơ gan, hàm lượng Prothrombin có thể
giảm < 50% [25].
1.8.4. Siêu âm
- Siêu âm là một kỹ thuật có độ nhạy trong phân biệt gan bình thường
và bất thường. Sự thay đổi cấu trúc echo ở viêm gan cấp và mạn cũng như
xơ gan được nhiều tác giả đề cập nhưng chưa hệ thống đầy đủ.
- Trước hết về kích thước, gan thường to trong viêm cấp, bình thường
trong viêm mạn. Viêm gan mạn thể hoạt động thay đổi cấu trúc nhiều hơn
thể tồn tại, chủ mô gan thô và cuống mạch mật giảm sáng, nhưng không
giảm âm phần thấp nhiều như gan thấm mỡ.
- Khi gan có rối loạn chức năng trầm trọng, bề mặt gan không đều do sự
tạo lập các hạt tái tạo, bờ dưới gan cùn và mặt sau gan trở nên lồi. Thay đổi
dạng túi mật thường là thứ phát sau sự biến dạng của gan [22], [92], [109].
1.8.5. HBsAg
- HBsAg là dấu hiệu đầu tiên của VRVGB xuất hiện trong huyết
thanh, khoảng 2 – 6 tuần trước khi có triệu chứng lâm sàng và từ 2 – 12
tuần sau khi tiếp xúc. HBsAg là một hạt protein, đường kính khoảng 22
nm, là KN bề mặt hay KN vỏ. HBsAg gồm 2 polypeptid có trọng lượng
24.000 và 28.000 mol. Sự hiện diện của HBsAg là bằng chứng có ý nghĩa

nhất của sự nhiễm VRVGB.
- Nồng độ HBsAg đạt đỉnh cao khi xuất hiện các dấu hiệu lâm sàng
rồi giảm dần và biến mất sau 4 – 6 tháng, khoảng 5 – 10% HBsAg mất rất
sớm trước khi có triệu chứng lâm sàng và có liên quan với tuổi nhiễm
bệnh, nếu nhiễm VRVGB khi càng nhỏ tuổi thì tỷ lệ HBsAg trở thành âm
15
tính càng thấp. Ở bệnh nhân VGMVB, HBsAg tồn tại rất lâu với tỷ lệ cao
hơn so với VG cấp [30].
- Nồng độ HBsAg tăng cao nhất vào lúc ALT huyết thanh tăng cao
hoặc một thời gian ngắn ngay sau đó. Ở bệnh nhân VGMVB, HBsAg (+)
thường tồn tại trên 6 tháng. Nồng độ HBsAg ít có liên quan với mức độ trầm
trọng của bệnh cảnh lâm sàng, nhưng nó có thể tương quan ngược với mức
độ tổn thương tế bào gan [15].
1.8.6. Anti – HBc
- Kháng thể đặc hiệu với kháng nguyên lõi (Anti – HBc): đây là
marker có giá trị chẩn đoán, đó là kháng thể chống HBcAg kháng thể này có
2 type cần chú ý:
+ Anti HBc – IgM: xuất hiện sớm của thời kỳ cấp của lâm sàng kéo
dài 7 – 8 tuần.
+ Anti HBc – IgG: kháng thể xuất hiện muộn tồn tại rất lâu ở nồng độ
cao cho nên trong chẩn đoán ngoài HBsAg là chỉ điểm chính, người ta còn
dùng Anti HBc để bổ sung cho các trường hợp HBsAg âm tính trong giai
đoạn cửa sổ [25].
1.8.7. HBeAg
- HBeAg là một phần của gen lõi trong bộ gen của virut (VR), là
kháng nguyên xuất hiện sớm thứ hai đồng thời với HBsAg. HBeAg (+) nói
lên VR đang thời kỳ phát triển và nhân lên, bệnh đang thời kỳ lây lan mạnh.
- Sự có mặt của HBeAg cùng với HBV DNA trong huyết thanh phản
ánh tình trạng đang nhân lên của VR và là thời kỳ lây lan mạnh. HBeAg là
KN phản ánh chất lượng, không có ý nghĩa về mặt chẩn đoán. Trong trường

hợp xảy ra đột biến tiền lõi, HBeAg không được tổng hợp nhưng sự nhân đôi
của VR vẫn diễn ra và điều này được chứng minh bằng sự hiện diện của
HBV DNA trong huyết thanh bệnh nhân [25].
16
- Tuy HBeAg khác với HBsAg về mặt miễn dịch nhưng có nhiều mối
liên quan giữa hai KN này. Ở người có HBeAg (+) thì nồng độ HBsAg cao
hơn ở người có HBeAg (-). HBeAg thường (+) trong VGMVB và hầu như
(-) ở những người mang HBsAg mạn tính không triệu chứng. Nếu HBeAg
tồn tại kéo dài trên 8 tuần sau khi bắt đầu triệu chứng lâm sàng sẽ là dấu hiệu
chỉ điểm sớm cho khả năng diễn tiến sang giai đoạn mạn tính [96].
1.8.8. HBV DNA
- Hepatitis B virus desoxyribonucleic (HBV DNA) là acid nhân của
VRVGB, được phát hiện trong huyết thanh của bệnh nhân trước khi có các
triệu chứng lâm sàng và gần như cùng lúc với HBsAg. HBV DNA thường
giảm nhanh lúc ALT tăng tối đa và xảy ra chuyển đổi huyết thanh sang anti-
HBe. HBV DNA giảm nhiều ở các bệnh nhân có sự bùng phát VGMVB.
- Cũng như HBeAg, HBV DNA (+) phản ánh sự nhân lên của VR và
có liên quan đến khả năng gây nhiễm của VRVGB. Hầu hết các trường hợp
có HBeAg (+) đều có HBV DNA(+). Một số trường hợp HBeAg (-) nhưng
có HBV DNA(+). Đây có thể là những trường hợp có đột biến tiền lõi khiến
cho HBeAg không thể tổng hợp được.
- Bằng kỹ thuật Real-time PCR, người ta có thể phát hiện HBV DNA
từ 2 – 3 tuần trước khi xuất hiện HBsAg. HBV DNA còn giúp chẩn đoán
nguyên nhân gây bệnh VGMVB trong những trường hợp HBsAg (-), giúp
đánh giá hiệu quả điều trị và tiên lượng quá trình diễn biến bệnh.
- Hơn nữa, HBV DNA còn có giá trị tiên lượng vì sự tồn tại của nó
trên 8 tuần sau khi có triệu chứng lâm sàng có thể báo hiệu sự tiến triển sang
giai đoạn mạn tính của bệnh. Ở bệnh nhân VGMHĐ, HBV DNA thường (+)
[24], [68].
- Theo Hoàng Tiến Tuyên nghiên cứu trên 38 bệnh nhân VGMHĐ do

virus B thì thấy tỷ lệ về một số xét nghiệm cận lâm sàng như sau [53]:
17
Bảng 1.3. Tỷ lệ một số xét nghiệm ở bệnh nhân VGMHĐ do virus B
Xét nghiệm Tỷ lệ (%)
AST, ALT, GGT tăng 100
AST tăng 2-5 lần giá trị bình thường 36,8
ALT tăng 2-5 lần giá trị bình thường 34,2
Bilirubin TP tăng 81,6
Bilirubin TP tăng hơn 2 lần giá trị
bình thường
68,4
HBeAg (+) 31,5
HBV DNA ≥ 10
5
Copies/ml
50
1.9. CHẨN ĐOÁN VIÊM GAN MẠN VIRUS B
- Để chẩn đoán xác định VGM, chẩn đoán mô học là quan trọng hơn
cả [4].
- Để phân biệt các loại VGM, các xét nghiệm huyết thanh học và sinh
học phân tử đóng vai trò rất quan trọng.
- Các bệnh nhân được chẩn đoán xác định VGMVB dựa vào tiêu
chuẩn của Dienstag [72].
+ Tiền sử: Bệnh nhân đã bị viêm gan do virus B trên 6 tháng
hoặc có HBsAg (+) trên 6 tháng.
+ Lâm sàng: Bệnh nhân có một số triệu chứng và dấu chứng
sau: mệt mỏi, chán ăn, đau hạ sườn phải, vàng mắt, vàng da, tiểu vàng đậm,
gan lớn, nốt nhện…
- Cận lâm sàng:
+ Xét nghiệm huyết thanh: HBsAg (+) hai lần > 6 tháng hoặc

HBsAg (+) và Anti HBc IgG (+)
+ Xét nghiệm sinh hóa: Transaminase (ALT) tăng cao hơn 2 lần
giới hạn trên của giá trị bình thường [giá trị bình thường của ALT: nam (0-
40 U/L), nữ (0-32 U/L)].
+ Xét nghiệm HBeAg(+) hoặc HBeAg(-).
18
+ Xét nghiệm định lượng HBV DNA (+) trên ngưỡng phát hiện
(≥ 2. 10
2
copies/ml).
1.10. HẬU QUẢ CỦA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B MẠN TÍNH
Hình 1.2. Diễn tiến và biến chứng của nhiễm HBV mạn tính [25]
- Viêm gan B mạn là hậu quả của quá trình nhiễm HBV. Bệnh nhân
nhiễm HBV mạn có thể được coi như là người mang virus hoạt động hay
không hoạt động phụ thuộc vào hoạt độ aminotransferase, hoạt động viêm
của tế bào gan, sự sao chép của virus (thông qua HBeAg và HBV DNA).
Người mang virus B không hoạt động không có triệu chứng lâm sàng, hoạt
độ aminotransferase bình thường, hoạt động viêm của tế bào gan bình
thường hoặc nhẹ, sự sao chép của virus rất thấp (không có HBeAg và tải
lượng HBV DNA thấp). Người mang HBsAg nhưng HBeAg âm tính và
nồng độ aminotranferase bình thường ít khi lây nhiễm sang người khác và
thường không gây bệnh gan tiến triển [108].
- Theo Yuan H.J và cộng sự, tải lượng HBV DNA ở nhóm bệnh nhân
có biến chứng xơ gan (1, x 10
6
) cao hơn nhóm bệnh nhân không có biến
19
chứng xơ gan (0,18 x 10
6
) với p= 0,02. Cũng theo Yuan có 24,5 bệnh nhân

viêm gan mạn có biến chứng xơ gan có tải lượng HBV DNA dưới
4logcopies/ml [107].
1.11. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
1.11.1. Các nghiên cứu trong nước
- Theo Nguyễn Công Long, triệu chứng mệt mỏi, chán ăn, đau hạ sườn
phải, vàng da là 4 triệu chứng chủ yếu trong cả 2 nhóm HBeAg (+) và
HBeAg (-). Trong đó triệu chứng mệt mỏi chiếm tỷ lệ cao nhất ở nhóm
HBeAg (+) (chiếm 76,5%) và HBeAg (-) (chiếm 80%) [32].
- Nghiên cứu của Nguyễn Thái Sơn và cộng sự với số lượng bệnh nhân
có tải lượng HBV DNA ≥ 10
5
copies/ml là 28/40 bệnh nhân chiếm 70% [46].
- Nguyễn Trọng Chính nghiên cứu trên 50 bệnh nhân VGMVB có giá
trị trung bình của HBV DNA là 8,1 x 10
8
± 1,5 x 10
8
copies/ml [7].
- Khi tìm hiểu mối tương quan giữa các chỉ số HBsAg, HBeAg, AST,
ALT trong những người mang kháng nguyên bề mặt HBsAg, Đào Xuân
Vinh đã cho thấy: có 30,66% trường hợp tăng cả 2 men AST, ALT trong đó
có 12,66% tăng lớn hơn 2 lần, với AST có 22,66% tăng trên 2 lần, 9,33%
tăng trên 5 lần và 5,33% tăng trên 10 lần. Với ALT có 22,00% tăng trên 2
lần, 12% tăng trên 5 lần và 8% tăng trên 10 lần. Có 25% có HBeAg (+). Khi
xét mối tương quan giữa men gan và HBeAg các tác giả này ghi nhận: tăng
ALT 46,15% ở bệnh nhân HBeAg (+) và 25,54% ở bệnh nhân HBeAg (-).
Tăng AST 53,84% ở những bệnh nhân HBeAg (+) và 33,33% ở những bệnh
nhân HBeAg (-). Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của HBeAg và
sự cần thiết phải tiến hành xét nghiệm phát hiện HBeAg trong chẩn đoán và
điều trị nhiễm VRVGB [56].

- Lê Ngọc Triều cũng đã nghiên cứu trên 51 bệnh nhân tuổi từ 18-56
đã có chẩn đoán là VGMVB. Kết quả cho thấy: tuổi của nhóm có HBeAg (+)
20
thấp hơn nhóm HBeAg (-) (p < 0,05), hoạt độ AST và ALT ở nhóm HBeAg
(-) cao hơn nhóm HBeAg (+), tải lượng HBV DNA thì không có sự liên
quan với AST, ALT [52].
1.11.2. Các nghiên cứu trên thế giới
- Chien C.J. cho rằng so với bệnh nhân có tải lượng HBV DNA < 10
4
copies/ml, bệnh nhân có HBV DNA là 10
5
copies/ml tăng nguy cơ 2,5 lần và
bệnh nhân có HBV DNA > 10
5
copies/ml tăng nguy cơ 6,6 lần [70].
- Theo Iloeje, quy trình theo dõi, điều trị HCC loại trừ bệnh nhân
VGMVB có ALT huyết thanh bình thường cần phải đánh giá lại. Cần thay
đổi cái nhìn cho rằng bệnh nhân có ALT huyết thanh bình thường là không
có nguy cơ, mà cần dựa trên tải lượng HBV DNA để xác định nhu cầu theo
dõi tiến triển và xem có cần can thiệp điều trị hay không. Bệnh nhân có ALT
huyết thanh bình thường và tải lượng HBV DNA lưu hành cao có nguy cơ
xơ gan và HCC cao, cần được xem xét điều trị [84].
- Khi nghiên cứu về các chỉ điểm HBeAg, HBV DNA và
Transaminase ở bệnh nhân có HBsAg (+), các tác giả Rabbi, Rezwan cho
thấy trong mẫu nghiên cứu gồm 72 bệnh nhân của mình có 28 bệnh nhân
HBeAg (+) và anti HBe (-), 38 bệnh nhân HBeAg (-) và anti HBe (+), chỉ có
3 bệnh nhân là dương tính với cả HBeAg và anti HBe, 3 bệnh nhân âm tính
với cả 2 chỉ điểm này. HBV DNA tìm thấy ở 92,86% bệnh nhân anti HBe(-)
so với 36,84% ở bệnh nhân có HBeAg (-) và anti HBe (+). Có 67,86% bệnh
nhân có tăng mức ALT. Trong 14 bệnh nhân HBeAg (-)/anti HBe (+) cùng

với sự tăng mức ALT, có 8 (57,14%) bệnh nhân tìm thấy HBV DNA, trong
khi đó 24 bệnh nhân HBeAg (-)/antiHBe (+) với mức ALT bình thường thì
chỉ có 4 (16,66%) bệnh nhân tìm thấy HBV DNA [95].
- Theo các tác giả Shao J, Wang, Zhang và cộng sự thì trong nghiên
cứu gồm 213 bệnh nhân có mức HBV DNA huyết thanh cao hơn
10
5
copies/ml, 83,6% bệnh nhân có mức HBeAg(+), 16,4% bệnh nhân có
21
HBeAg (-). Không có mối liên quan giữa tải lượng HBV DNA huyết thanh
với ALT và AST ở những bệnh nhân có HBeAg (+), có những bệnh nhân có
HBeAg (-) thì tải lượng HBV DNA không có mối liên quan với AST nhưng
lại có liên quan với ALT. Mức độ nặng của bệnh gan có liên quan với ALT
và AST (p < 0,05) ở những bệnh nhân HBeAg (+), ở những bệnh nhân
HBeAg (-) thì mức độ liên quan này có ý nghĩa cao hơn (p < 0,01) [101].
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
22
- Nghiên cứu được thực hiện trên 87 bệnh nhân VGMVB bao gồm
HBeAg (+) là 46 và HBeAg (-) là 41.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Đối tượng được đưa vào nghiên cứu là những bệnh nhân được chẩn
đoán VGMVB đang điều trị tại khoa Nội tiêu hóa – gan mật, khoa Truyền
nhiễm bệnh viện Trung Ương Huế và bệnh nhân đến khám tại Phòng khám
Tiêu hóa-Gan mật bệnh viện Đại học Y Dược Huế từ 01/4/2011 đến
30/6/2012.
- Lứa tuổi: từ 16 tuổi trở lên.
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn mẫu
2.1.2.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán VGMVB

Các bệnh nhân được chẩn đoán xác định VGMVB dựa vào tiêu chuẩn
của Dienstag [72].
- Tiền sử: Bệnh nhân đã bị viêm gan do virus B trên 6 tháng hoặc có
HBsAg (+) trên 6 tháng.
- Lâm sàng: Bệnh nhân có một số triệu chứng và dấu chứng sau: mệt
mỏi, chán ăn, đau hạ sườn phải, vàng mắt, vàng da, tiểu vàng đậm, gan lớn,
nốt nhện
- Cận lâm sàng:
+ Xét nghiệm huyết thanh: HBsAg (+) hai lần > 6 tháng hoặc
HBsAg (+) và Anti HBc IgG (+)
+ Xét nghiệm sinh hóa: Transaminase (ALT) tăng cao hơn 2 lần
giới hạn trên của giá trị bình thường [giá trị bình thường của ALT: nam (0-
40 U/L), nữ (0-32 U/L)].
+ Xét nghiệm HBeAg(+) hoặc HBeAg(-).
+ Xét nghiệm định lượng HBV DNA (+) trên ngưỡng phát hiện
(≥ 2. 10
2
copies/ml).
23
2.1.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân vừa có HBsAg (+) vừa có anti HCV (+).
- Bệnh viêm gan cấp [11]:
+ Lần đầu tiên phát hiện bệnh
+ Bệnh sử có thời kỳ tiền vàng da, vàng mắt:
* Hội chứng giả cúm
* Mất cảm giác ngon
* Có biểu hiện của bệnh huyết thanh
+ Lâm sàng vàng da, vàng mắt
+ Cận lâm sàng: anti HBc type IgM (+).
- Viêm gan do rượu [14]:

+ Tiền sử uống rượu:
* Nam > 60g / ngày
* Nữ > 30g / ngày
+ AST/ALT > 2 lần
- Viêm gan mạn tự miễn:
+ Không có bệnh nguyên rõ
+ Thường phối hợp với các rối loạn miễn dịch khác: Lupus,
PCE, Hashimoto, thiếu máu huyết tán, hội chứng Sjogren…
+ Hiện diện trong huyết thanh các tự kháng thể: kháng thể
kháng nhân, Ds DNA (+).
- Viêm gan mạn do thuốc [4]:
+ Tiền sử dùng các thuốc độc cho gan kéo dài
+ Diễn tiến tốt khi dừng thuốc
+ Không tìm được các nguyên nhân khác
- Xơ gan:
+ Hội chứng suy tế bào gan
+ Hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa
24
- Ung thư gan [5]:
+ Sờ gan cứng
+ Toàn trạng suy sụp nhanh
+ Siêu âm gan và CT gan cho hình ảnh ung thư gan
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cắt ngang, mô tả.
2.2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
2.2.2.1. Dữ liệu lâm sàng
Tất cả bệnh nhân vào khám bệnh hoặc nhập viện sẽ được khai thác
tiền sử, bệnh sử và khám lâm sàng để thu thập các thông tin sau:
- Tuổi, giới.

- Tiền sử: có bằng chứng nhiễm VRVGB trên 6 tháng hoặc bị viêm
gan do virus B trên 6 tháng.
- Các triệu chứng và dấu chứng sau: mệt mỏi, chán ăn, sốt trước vàng
da, đau hạ sườn phải, vàng mắt, vàng da, gan lớn, nốt nhện, bụng báng.
2.2.2.2. Dữ liệu cận lâm sàng
- Khảo sát các dấu ấn huyết thanh học của VRVGB: HBsAg, HBeAg,
Anti HBc IgG
- Khảo sát các dấu ấn sinh học phân tử của VRVGB: HBV DNA
- Khảo sát các xét nghiệm sinh học: Transaminase (AST, ALT),
Bilirubin máu, Tỷ prothrombin.
- Khảo sát về chẩn đoán hình ảnh: siêu âm bụng.
2.2.3. Nguyên tắc và kỹ thuật của các xét nghiệm được tiến hành trong
nghiên cứu
2.2.3.1. HBsAg
- Được thực hiện tại phòng xét nghiệm Miễn dịch – Sinh lý bệnh, bệnh
viện trường Đại học Y Dược Huế hoặc bệnh viện Trung Ương Huế bằng
25
phương pháp ELISA dựa trên thử nghiệm Hepanostika HBsAg, HBeAg
Uni-Form II của hãng Organon sản xuất. Đọc kết quả với máy đọc ELISA ở
bước sóng 450 nm.
- Hepanostika HBsAg Uni-Form II là một test ELISA, cơ bản dựa
trên nguyên lý “bánh mỳ kẹp” (sandwich) một giai đoạn. kháng thể đối với
HBsAg (anti-HBs) được ghép với horsesadish perosidase (HPR) giữ vai trò
như là một chất kết hợp với tetramethylbenzidine (TMB) và peroxidase như
một chất đệm. Khi hoàn thành thử nghiệm, một màu sắc xuất hiện, gợi ý sự
hiện diện của HBsAg, nếu không có màu gì hoặc màu nhạt nghĩa là không có
sự hiện diện của HBsAg.
- Một cách cụ thể, các giếng microelisa được phủ bởi anti-HBs được
đánh dấu bằng HPR.
- Mẫu nghiệm hoặc mẫu chứng thích hợp chứa HBsAg được ủ 60 phút

ở 37°C trong các giếng microelisa. Các hạt liên kết này tan ra trong mẫu
nghiệm và phức hợp kháng thể (bao gồm kháng thể / HBsAg / enzyme) được
hình thành. Sau đó đem rửa và ủ với cơ chất TMB ở 18-25°C trong 30 phút,
cho acide sulfuric vào, phản ứng dừng lại và màu vàng xuất hiện.
+ Nếu có HBsAg trong mẫu, màu vàng xuất hiện.
+ Nếu không có HBsAg, sẽ không có màu gì, hoặc sẽ có màu vàng rất
nhạt. Hàm lượng HBsAg trong mẫu tỷ lệ với độ đậm màu xuất hiện.
2.2.3.2. HBeAg
- Được thực hiện tại phòng xét nghiệm Miễn dịch Sinh lý bệnh, bệnh
viện Trường Đại học Y Dược Huế hoặc bệnh viện Trung Ương Huế
- Máy ELISA dựa trên thử nghiệm Hepanostika HBsAg, HBeAg Uni-
Form II của hãng Organon sản xuất. Đọc kết quả với máy đọc ELISA ở bước
sóng 450 nm.
- Nguyên tắc: Dựa trên kỹ thuật ELISA “Sandwich”, các giếng nước
được phủ bởi anti HBe. Khi tiêm huyết thanh thử vào hay các chứng chứa

×