ĐẶT VẤN ĐỀ
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò quan trọng đến tăng trưởng
kinh tế cũng như giải quyết việc làm và ổn định chính trị - xã hội.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, nông nghiệp, nông dân,
nông thôn trên địa bàn thành phố Cần Thơ đã đạt được những thành tựu đáng
kể: nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng,
vật nuôi chuyển dịch theo hướng tích cực; cơ khí hóa có bước tiến bộ; giá trị
xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản tăng nhanh; nông thôn đã có bước khởi sắc, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung xây dựng, củng cố, nâng cấp; đời
sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn có bước cải thiện; công
tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, xoá nhà tạm thu được một số kết
quả; hệ thống chính trị cơ sở được tăng cường, quyền dân chủ được phát huy,
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nông thôn được giữ vững.
Tuy nhiên, nông thôn trong quá trình hoà nhập và đổi mới cũng đặt ra rất
nhiều vấn đề cần được giải quyết, đó là quá trình đô thị hoá diễn ra làm thay
đổi bộ mặt nông thôn và tác động đến kiến trúc, kinh tế, đời sống, văn hoá,
xã hội, chất lượng môi trường và sinh thái nông thôn. Kiến trúc nông thôn
đang phát triển tự phát và thiếu định hướng quy hoạch một cách có hệ thống,
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất và đời
sống; chất lượng giáo dục, y tế phát triển chưa tương xứng trước yêu cầu đổi
mới. Lao động nông thôn còn thiếu công ăn việc làm và thu nhập chưa ổn
định, tỷ lệ đói nghèo còn cao, khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp xã hội
có xu hướng gia tăng, chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị
ngày càng xa.
1
Nhằm khắc phục tình trạng trên, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều
chủ trương chính sách nhằm phát triển nông thôn trong tình hình mới. Gồm
Nghị Quyết số 10 của Bộ Chính trị về “Đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp”
(năm 1988), Nghị quyết trung ương lần thứ 5 khóa VII về “Tiếp tục đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp” (năm 1993), Nghị quyết Đại hội Đảng
khoá VIII (năm 1995), Nghị quyết 06/NQ-TW của Bộ chính trị khoá VIII về
“Một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn” (năm 1998); Nghị quyết
Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành trung ương khóa VIII về “Chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm
2000” (năm 1996), Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành TW khóa
VIII về “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để CNH, HĐH, phấn đấu hoàn thành các
mục tiêu kinh tế-xã hội đến năm 2000”; Nghị quyết Đại hội Đảng khoá IX
(năm 2000), Nghị quyết trung ương 5 Ban chấp hành Trung ương khoá IX về
“Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010” (năm
2001); Nghị quyết Đại hội X (năm 2005) và gần đây là nghị quyết số 26 Hội
nghị lần thứ VII Ban chấp hành TƯ khóa X về “Nông nghiệp, Nông dân,
Nông thôn” (năm 2008) đã chỉ ra đường lối, quan điểm, nhiệm vụ và giải
pháp lớn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đến năm
2020.
Vấn đề quan trọng đặt ra là cần phải thực hiện chương trình phát triển
nông thôn một cách cụ thể và phù hợp với bối cảnh nông thôn Việt Nam hiện
tại và tương lai, trên cơ sở phát huy nội lực của cộng đồng nông thôn. Vì vậy,
để có thể thay đổi được toàn diện bộ mặt nông thôn Việt Nam thì vấn đề phát
triển con người cần được quan tâm hàng đầu, trong tổ chức cộng đồng nông
thôn lấy người dân làm trọng tâm.
2
Trước tình hình đó, việc xem xét một cách toàn diện, đánh giá đúng thực
trạng, rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, đề ra các chủ trương, giải
pháp đúng đắn kịp thời; nhất là tạo sự phát triển một cách đồng bộ, tích cực
nhằm thay đổi một cách căn bản bộ mặt của nông nghiệp, nông thôn phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đề án “Xây dựng nông thôn mới thành phố Cần Thơ” do Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì xây dựng với sự tham gia của các ban,
ngành, địa phương trong thành phố dựa trên các quan điểm chỉ đạo của Đại
hội X Đảng Cộng sản Việt Nam, Chương trình mục tiêu quốc gia về nông
thôn mới, Quyết định 21/2007/QĐ-TTg, ngày 08/02/2007 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố
Cần Thơ đến năm 2020 cũng như xuất phát từ thực tiễn; từ đó nêu lên những
giải pháp nhằm từ nay đến năm 2020 đưa sản xuất nông nghiệp tiến lên một
nền nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất hàng hoá hiện đại, có khả năng cạnh
tranh cao; nông thôn hiện đại, văn minh; nông dân có đời sống vật chất và
tinh thần được nâng cao, giảm chênh lệch giữa đô thị với nông thôn, đóng góp
tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố theo hướng
thương mại, dịch vụ, công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Chương trình xây dựng nông thôn mới là một trong nhiều phương pháp
thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Và Quyết định
491/QĐ-TTg năm 2009 về Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới do Thủ
tướng Chính phủ ban hành đã chỉ ra những chỉ tiêu nhằm mục đích hướng
chương trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tốt.
Những thành tựu đã đạt được về chương trình xây dựng nông thôn mới,
chương trình nông thôn mới đã làm thay đổi nếp sống, nếp nghĩ và giúp cho
người dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, canh tác nhằm tăng năng
3
suất, chất lượng sản phẩm giúp phát triển kinh tế nông hộ. Bên cạnh đó về
mặt văn hóa - xã hội, đã giúp khôi phục các thuần phong mỹ tục tập quán lễ
hội, vui chơi giải trí khích lệ tinh thần cho nhân dân. Bộ mặt làng, xã cũng
được thay đổi rõ rệt, cảnh quan môi trường được bảo vệ.
Điều quan trọng là mô hình đã khơi dậy được niềm tin của nhân dân vào
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Nói chung mô hình đã thúc đẩy được sự
tăng trưởng khá mạnh mẽ kinh tế - xã hội nông thôn ở địa phương. Tuy nhiên,
mô hình thí điểm xây dựng nông thôn mới còn nhiều khó khăn và bất cập,
một số tiêu chí về kết cấu cơ sở hạ tầng còn chậm triển khai do thiếu nguốn
vốn; vấn đề khai thác và sử dụng các nguồn tài chính cho chương trình chưa
cụ thể, rõ ràng
Xuất phát từ những vấn đề trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số
giải pháp đẩy mạnh việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ từ kinh nghiệm
thí điểm tại xã Mỹ Khánh”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở nghiên cứu kết quả thực hiện chương trình thí điểm xây dựng
nông thôn mới tại xã Mỹ Khánh, đề ra một số giải pháp góp phần thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Phong Điền từ kinh
nghiệm thí điểm tại xã Mỹ Khánh.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá được cơ sở lý luận về vấn đề xây dựng nông thôn mới.
- Đánh giá được thực trạng và kết quả thực hiện thí điểm chương trình
xây dựng nông thôn mới tại xã Mỹ Khánh - Phong Điền - Cần Thơ.
4
- Đúc rút được các bài học kinh nghiệm từ kết quả thực hiện thí điểm
chương trình xây dựng nông thôn mới tại xã Mỹ Khánh - Phong Điền - Cần
Thơ.
- Đề xuất được một số giải pháp góp phần thực hiện chương trình xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Phong Điền từ kinh nghiệm thí điểm
tại xã Mỹ Khánh.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình và kết quả thực hiện thí
điểm chương trình xây dựng nông thôn mới tại xã Mỹ Khánh - Phong Điền -
Cần Thơ
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về nội dung nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu vào công tác tổ chức thực hiện chương
trình thí điểm XDNTM và kết quả thực hiện chương trình thí điểm theo các
tiêu chí cuả chương trình thí điểm XDNTM.
Luận văn tập trung nghiên cứu về thực hiện chương trình XDNTM trên
địa bàn Huyện Phong Điền từ kinh nghiệm thí điểm tại xã Mỹ Khánh.
+ Phạm vi về không gian:
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi huyện Phong Điền.
+ Phạm vi về thời gian:
Nghiên cứu và thu thập số liệu về quá trình thực hiện chương trình
XDNTM trên địa bàn thí điểm tại xã Mỹ Khánh trong giai đoạn 2010-2011.
5
4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Cơ sở lý luận về vấn đề: Xây dựng nông thôn mới;
- Thực trạng và kết quả thực hiện thí điểm xây dựng nông thôn mới tại
xã Mỹ Khánh;
- Các bài học kinh nghiệm từ mô hình thí điểm xã Mỹ Khánh.
- Một số giải pháp đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thực hiện chương
trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Phong Điền thành phố Cần
Thơ.
6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
1.1.1. Nông thôn và vai trò của nông thôn ở nước ta
1.1.1.1. Khái niệm nông thôn
Nông thôn được coi như là khu vực địa lý nơi đó sinh kế cộng đồng gắn
bó, có quan hệ trực tiếp đến khai thác, sử dụng môi trường và tài nguyên thiên
nhiên cho hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay trên thế giới chưa thống nhất định nghĩa về nông thôn. Có
nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng chỉ cần dựa vào trình độ phát triển cơ sở hạ tầng.
Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường,
phát triển hàng hóa để xác định vùng nông thôn.
Khái niệm nông thôn chỉ có tính chất tương đối và luôn biến động theo
thời gian để phản ánh biến đổi về kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trên thế
giới.
Tại Việt Nam, quan điểm phỏ biến cho rằng nông thôn là vùng sinh sống
của tập hợp dân cư, trong đó chủ yếu là nông dân . Tập hợp cư dân này tham
gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường trong một thể
chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác.
1.1.1.2. Vai trò của nông thôn ở nước ta
Nông nghiệp nông thôn Việt Nam tập trung vào ba ngành quan trọng
gồm: Chăn nuôi, thủy sản và gạo. Trong đó, gạo và chăn nuôi đóng vai trò
quan trọng trong an ninh lương thực quốc gia và tạo sinh kế cho hàng triệu
7
người dân. Ngành thủy sản hiện đóng vai trò đầu tàu trong xuất khẩu nông
lâm thủy sản nói riêng và xuất khẩu của cả nước nói chung.
Nông thôn ở nước ta bao gồm những vai trò sau:
- Thứ nhất, nông thôn là địa bàn sản xuất và cung cấp lương thực thực
phẩm cho tiêu dùng của cả xã hội. Người nông dân ở nông thôn sản xuất lương
thực, thực phẩm để nuôi sống họ và cung cấp cho nhân dân cả nước. Sự gia
tăng dân số là sức ép to lớn đối với sản xuất nông nghiệp trong việc cung ứng
đủ lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội. Vì vậy, sự phát triển bền vững nông
thôn sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu lương thực và thực phẩm tiêu dùng cho toàn
xã hội và nâng cao năng lực xuất khẩu các mặt hàng này cho quốc gia.
- Thứ hai, với số dân chiếm đa số sống bằng nông nghiệp, khu vực nông
thôn thực sự là nguồn nhân lực dồi dào cho khu vực thành thị. Sự thâm nhập
của lao động vào thành thị cũng như sự gia tăng dân số đều đặn ở các vùng
thành thị là không đủ để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế quốc
gia. Nếu việc di chuyển nhân công ra khỏi nông nghiệp sang các ngành khác bị
hạn chế thì sự tăng trưởng sẽ bị ảnh hưởng và việc phát triển kinh tế sẽ phiến
diện. Vì vậy, phát triển bền vững nông thôn sẽ góp phần làm ổn định kinh tế
của quốc gia.
- Thứ ba, nông thôn là thị trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm của
khu vực thành thị hiện đại. Trước hết nông thôn là địa bàn quan trọng tiêu thụ
các sản phẩm của công nghiệp. Nếu thị trường rộng lớn ở nông thôn được khai
thông, thu nhập người dân nông thôn được nâng cao, sức mua của người dân
tăng lên, công nghiệp có điều kiện thuận lợi để tiêu thụ sản phẩm sản xuất của
toàn ngành không chỉ hàng tiêu dùng mà cả các yếu tố đầu vào của nông
nghiệp. Phát triển nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển công nghiệp và
những ngành sản xuất khác trên phạm vi toàn xã hội. Năm 2010, xuất khẩu
8
nông sản của Việt Nam đạt hơn 19 tỷ USD. Và ngành nông, lâm nghiệp và
thủy sản vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế với hơn 20%
GDP và 28% kim ngạch xuất khẩu cả nước trong năm 2010.
- Thứ tư, nông thôn có rất nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, bao gồm
nhiều tầng lớp, nhiều thành phần khác nhau. Mỗi sự biến động dù tích cực hay
tiêu cực đều sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và
an ninh quốc phòng của cả nước. Do đó, sự phát triển và ổn định nông thôn sẽ
góp phần quan trọng trong việc đảm bảo ổn định tình hình của cả nước.
- Thứ năm, nông thôn chiếm đại đa số nguồn tài nguyên, đất đai, khoáng
sản, động thực vật, rừng, biển, nên sự phát triển bền vững nông thôn có ảnh
hưởng to lớn đến việc bảo vệ môi trường sinh thái, việc khai thác sử dụng có
hiệu quả các nguồn tài nguyên khu vực nông thôn bảo đảm cho sự phát triển
lâu dài và bền vững của đất nước.
Với những vai trò quan trọng nêu trên, nông thôn là phần cơ bản và đòi
hỏi tất yếu cần phát triển nông thôn trong quá trình phát triển quốc gia.
1.2. CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA NHÀ
NƯỚC
Hiện nay, chương trình XDNTM được coi là một chương trình quốc gia,
được chỉ đạo thống nhất từ trong ương tới các địa phương.
Mục tiêu của chương trình XD NTM ở nước ta là: “Xây dựng nông thôn
mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản
sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo
vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng
cường”.
9
Về mục tiêu cụ thể, phấn đấu đến năm 2015 đạt 20% số xã đạt chuẩn
nông thôn mới và đến 2020: 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; 100% số xã
có quy hoạch nông thôn mới được duyệt; 100% cán bộ cơ sở được đào tạo,
tập huấn về kiến thức xây dựng nông thôn mới; thu nhập bình quân của cư
dân nông thôn bằng 2,5 lần so với hiện nay; tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 3%.
Nội dung chính của Chương trình Xây dựng nông thôn mới được xác
định là: (1) Quy hoạch xây dựng nông thôn mới; (2) Phát triển hạ tầng kinh tế
- xã hội; (3) Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập; (4)
Giảm nghèo và an sinh xã hội; (5) Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức
sản xuất có hiệu quả ở nông thôn; (6) Phát triển giáo dục - đào tạo ở nông
thôn; (7) Phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn; (8) Xây dựng
đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông nông thôn; (9) Cấp nước sạch và
vệ sinh môi trường nông thôn; (10) Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính
quyền, đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn; (11) Giữ vững an ninh, trật tự
xã hội nông thôn.
Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới được Thủ tướng Chính phủ ban
hành ngày 16/4/2009. Bộ tiêu chí là căn cứ để xây dựng nội dung Chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; chỉ đạo thí điểm xây
dựng mô hình nông thôn mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; đồng thời là cơ sở để kiểm tra, đánh giá công nhận xã, huyện, tỉnh đạt
nông thôn mới.
Bộ tiêu chí đưa ra chỉ tiêu chung cả nước và các chỉ tiêu cụ thể theo từng
vùng: Trung du miền núi phía Bắc (TDMNPB), Đồng bằng sông Hồng
(ĐBSH), Bắc Trung Bộ (BTB), Duyên hải Nam Trung Bộ (DHNTB), Tây
Nguyên (TN), Đông Nam Bộ (ĐNB) và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi vùng.
10
Mười chín tiêu chí để xây dựng mô hình nông thôn mới bao gồm: Quy
hoạch và thực hiện quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở
vật chất văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở dân cư, thu nhập bình quân
đầu người/năm, tỷ lệ hộ nghèo, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất,
giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường, hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững
mạnh và an ninh, trật tự xã hội.
Mỗi tiêu chí đều được quy định mức chỉ tiêu cụ thể đối với từng xã để
được công nhận đạt xã nông thôn mới
1
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN
1.3.1. Ở nước ngoài
Tình hình thực hiện phát triển nông thôn ở các nước trên Thế giới cũng
được các nước rất chú trọng.
♦ Ở Trung Quốc
Nông thôn Trung Quốc đã có những bước thay đổi lớn từ sau cải cách
mở cửa (1978). Từ 1979, chế độ quản lý kinh tế nông thôn được thay đổi từ
cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường. Qua mười năm thực
hiện chính sách cải cách mở cửa, đời sống nông dân đã thay đổi đáng kể,
nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề cần phải quan tâm giải quyết. Nông thôn
Trung Quốc hiện nay còn tồn tại nhiều vấn đề nổi cộm: Trong xã hội, địa vị
của nông dân và thu nhập của cư dân nông thôn còn thấp, khoảng cách so với
1
- Thủ tướng Chính phủ, 2010, Quyết định 800-QĐ-TTg ngày 4/6/2010 về chương trình mục tiêu quốc gia
về nông thôn mới giai đọan 2010.
- Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2009, Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới Hà Nội.
11
thành thị ngày càng lớn, diện mạo của nông thôn còn lạc hậu, còn khoảng
cách khá xa so với thành thị trên nhiều phương diện, nông nghiệp phát triển
còn gặp rất nhiều khó khăn, vấn đề nổi bật là thu nhập ở nông thôn còn thấp,
tăng chậm, trong khi đó ở thành thị thu nhập tăng rất nhanh. Chẳng hạn, năm
1978 chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn là 2,9 lần; sau 10 năm
là 3,31 lần và có xu hướng ngày càng gia tăng. Trước tình hình đó Trung
Quốc đã đưa ra chính sách “Tam nông” nhằm thay đổi bộ mặt của nông thôn.
Mục đích của chính sách “tam nông” là xây dựng xã hội nông thôn Trung
Quốc ngày càng hiện đại, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn, góp
phần đưa đất nước phát triển.
2
♦ Ở Hàn Quốc
Nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến khu vực kinh tế nông thôn khi
thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ I (1962-1966) và thứ II (1966-1971) với
chủ trương công nghiệp hóa hướng đến xuất khẩu, tháng 4 năm 1970, Chính
phủ Hàn Quốc phát động phong trào Saemaul Undong. Mục tiêu của phong
trào này là "nhằm biến đổi cộng đồng nông thôn cũ thành cộng đồng nông
thôn mới: mọi người làm việc và hợp tác với nhau xây dựng cộng đồng mình
ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Cuối cùng là để xây dựng một quốc gia ngày
một giàu mạnh hơn"
Theo đó, Chính phủ vừa tăng đầu tư vào nông thôn vừa đặt mục tiêu thay
đổi suy nghĩ ỷ lại, thụ động vốn tồn tại trong đại bộ phận dân cư nông thôn.
Điểm đặc biệt của phong trào NTM của Hàn Quốc là Nhà nước chỉ hỗ trợ một
2
2
GS.TS Phạm Vân Đình, CN. Nguyễn Thanh Phong.Viện kinh tế & Phát triển, Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội.
12
phần nguyên, vật liệu còn nông dân mới chính là đối tượng ra quyết định và
thực thi mọi việc. Saemaul Undong cũng rất chú trọng đến phát huy dân chủ
trong xây dựng NTM với việc dân bầu ra một nam và một nữ lãnh đạo phong
trào. Ngoài ra, Tổng thống còn định kỳ mời 2 lãnh đạo phong trào ở cấp làng
xã tham dự cuộc họp của Hội đồng Chính phủ để trực tiếp lắng nghe ý kiến từ
các đại diện này. Nhằm tăng thu nhập cho nông dân, Chính phủ Hàn Quốc áp
dụng chính sách miễn thuế xăng dầu, máy móc nông nghiệp, giá điện rẻ cho
chế biến nông sản. Ngân hàng Nông nghiệp cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư
về nông thôn với lãi suất giảm 2% so với đầu tư vào ngành nghề khác Năm
2005, Nhà nước ban hành đạo luật quy định mọi hoạt động của các bộ, ngành,
chính quyền phải hướng về nông dân. Nhờ hiệu quả của phong trào Saemaul
Undong mà Hàn Quốc từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trở thành
một quốc gia giàu có, hiện đại bậc nhất châu Á.
♦ Ở Nhật Bản
Từ năm 1979, Tỉnh trưởng Oita-Tiến sĩ Morihiko Hiramatsu đã khởi
xướng và phát triển phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm" (One Village, one
Product-OVOP) với mục tiêu phát triển vùng nông thôn của khu vực này một
cách tương xứng với sự phát triển chung của cả Nhật Bản. Phong trào "mỗi
làng một sản phẩm" dựa trên 3 nguyên tắc chính là: địa phương hóa rồi hướng
tới toàn cầu; tự chủ, tự lập, nỗ lực sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực. Trong
đó, nhấn mạnh đến vai trò của chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ kỹ
thuật, quảng bá, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm được xác định là thế mạnh. Sau 20
năm áp dụng OVOP, Nhật Bản đã có 329 sản phẩm đặc sản địa phương có giá
trị thương mại cao như như nấm hương Shitake, rượu Shochu lúa mạch, cam
Kabosu, giúp nâng cao thu nhập của nông dân địa phương.
♦ Ở Thái Lan
13
Thông qua mô hình OVOP, Chính phủ đã xây dựng dự án cấp quốc gia
"mỗi xã, một sản phẩm" (One Tambon one Product-OTOP) nhằm tạo ra sản
phẩm mang tính đặc thù của địa phương có chất lượng, độc đáo, bán được
trên toàn cầu. Sản phẩm của OTOP được phân loại theo 4 tiêu chí: có thể xuất
khẩu với giá trị thương hiệu; sản xuất liên tục và nhất quán; tiêu chuẩn hóa;
đặc biệt, mỗi sản phẩm đều có một câu chuyện riêng. Các tiêu chí trên đã tạo
thêm lợi thế cho du lịch Thái Lan vì du khách luôn muốn được tận mắt chứng
kiến quá trình sản xuất sản phẩm, từ đó có thể hiểu biết thêm về tập quán, lối
sống của người dân địa phương.
3
1.3.2. Ở trong nước
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26-
NQ/TW, ngày 5-8-2008 “Về nông nghiệp nông dân, nông thôn” nhằm “không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, bảo đảm
hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều
khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các
nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ
nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng
hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia
cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch;
xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng
cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự
3
- Www.baomoi.com › Kinh tế (Hàn Quốc, Nhật bản, Thái Lan).
14
lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố
liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế -
xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
4
Thực hiện Nghị quyết trên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương khóa X
đã ban hành các Kết luận về một số nội dung trong Nghị quyết, bao gồm Đề
án An ninh lương thực quốc gia, Đề án Chương trình Xây dựng thí điểm mô
hình nông thôn mới cấp xã, Đề án về Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội
Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và
xây dựng giai cấp nông dân. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
24/2008/NQ-CP, ngày 28-10-2008, xác định “Chương trình mục tiêu Quốc
gia xây dựng nông thôn mới”. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
800/QĐ-TTg, ngày 4-6-2010 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 gồm 11 nội dung, với 19 tiêu chí.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng nông thôn
mới: “Quy hoạch phát triển nông thôn gắn với đô thị và bố trí các điểm dân
cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi
trường. Triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc
điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể vững chắc trong từng giai đoạn; giữ
gìn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam. Đẩy
mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai
thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động…”
5
4
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2008, tr. 125-126.
5
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 197-
198.
15
Với Nghị quyết của Đảng, những quyết sách của Chính phủ và sự vào
cuộc mạnh mẽ với quyết tâm chính trị cao của các bộ, ban, ngành ở Trung
ương, các cấp chính quyền ở cơ sở, việc xây dựng nông thôn mới theo đúng
lộ trình thực sự trở thành một cuộc vận động cách mạng của đất nước trên con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Hiện nay, toàn xã hội đã và đang tích cực vào cuộc, cùng thực hiện sự
nghiệp xây dựng nông thôn mới. Cấp ủy, chính quyền từ Trung ương đến cơ
sở đã sớm triển khai Nghị quyết của Đảng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền;
bước đầu tạo sự chuyển biến trong nhận thức của cán bộ, người dân. Hầu hết
cấp ủy đảng các cấp đã tổ chức quán triệt Nghị quyết, trong đó nhiều xã tổ
chức phổ biến trực tiếp đến nhân dân tại thôn, bản. Nhìn chung, cán bộ cơ sở
và nhân dân rất phấn khởi, kỳ vọng vào một nông thôn mới phát triển mang
lại sự cải thiện nhanh hơn đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nông
thôn thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Các bộ, ngành chức năng liên quan đã
nhanh chóng xây dựng, triển khai nhiều cơ chế chính sách để đưa Nghị quyết
vào cuộc sống.
Ở địa phương: tất cả các tỉnh, thành phố đã xây dựng chương trình hành
động triển khai Nghị quyết. Nhiều tỉnh, thành phố chủ động ban hành các
chính sách mới, đặc thù phù hợp với thực tế của địa phương. Những việc nêu
trên đã có tác động tích cực đến phát triển nông nghiệp, nông thôn trước mắt
và lâu dài, tạo được niềm tin cho cán bộ, nông dân vào chủ trương phát triển
nông nghiệp, nông thôn của Đảng.
Các bộ, ngành đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
chiến lược, quy hoạch nhiều lĩnh vực trong nông nghiệp, nông thôn phục vụ
yêu cầu phát triển toàn diện, theo hướng hiện đại, như Chiến lược phát triển
16
thủy lợi; Chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2020; Quy hoạch hệ thống
cảng cá, bến cá đến năm 2020; Đề án phát triển cao su đến năm 2020; Đề án
phát triển giống cây trồng, vật nuôi, v.v
Thông tư số 54/TT-NNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quy định: “vùng/khu vực nông thôn mới Việt Nam
XHCN là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã,
thị trấn; được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã". Như vậy, nông
thôn mới trước hết phải là nông thôn, chứ không phải là thị tứ, thị trấn Nông
thôn mới vừa bao hàm chức năng lịch sử vốn có của nông thôn là vùng nông
dân quần tụ trong đơn vị làng xã và chủ yếu làm nông nghiệp, vừa có những
thuộc tính khác với nông thôn truyền thống. Đó là: làng xã văn minh, sạch
đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng
hoá; đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được
nâng cao; giá trị văn hoá truyền thống được bảo tồn, phát triển; xã hội nông
thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ.
Những kết quả bước đầu trong triển khai thực hiện Chương trình xây
dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Ngay trong những năm đầu triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia
về xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào của cả nước, các nhiệm
vụ về xây dựng nông thôn mới được xác định rõ trong nghị quyết đại hội
Đảng các cấp từ tỉnh đến huyện và xã. Ban Bí thư Trung ương khóa X đã trực
tiếp chỉ đạo Chương trình thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới cấp xã
tại 11 xã điểm ở 11 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng, miền.
Bộ máy quản lý và điều hành Chương trình xây dựng nông thôn mới đã
được hình thành từ Trung ương xuống địa phương. 63/63 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, 84,7% huyện và 52% số xã trên toàn quốc đã thành lập
17
được Ban Chỉ đạo. Các bộ, ngành đã ban hành 25 loại văn bản hướng dẫn địa
phương về tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, quy hoạch nông thôn mới. Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã triển khai cuộc vận động
“Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn với xây dựng nông
thôn mới”. Ngày 8-6-2011, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phát động thi
đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Dự toán hàng năm trình Quốc hội về bảo đảm chi ngân sách nhà nước
cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có tốc độ tăng cao hơn chi chung của cả
nước. Riêng năm 2011 cao gấp 2,21 lần so với năm 2008. Tổng vốn đầu tư
cho nông nghiệp, nông thôn trong 3 năm 2009-2011 chiếm khoảng 52% tổng
vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ
của cả nước, trong đó đầu tư cho phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
chiếm 37% tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Vốn tín dụng cho
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tiếp tục được ưu đãi. Doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp, nông thôn được ưu tiên theo Nghị định 61/2010/NĐ-CP của
Chính phủ.
Riêng năm 2011, Nhà nước đã bố trí 1.600 tỉ đồng từ nguồn ngân sách
Trung ương cho Chương trình để tập trung vào 5 nội dung, gồm quy hoạch,
đào tạo, tuyên truyền, phát triển sản xuất và xây dựng một số hạng mục kết
cấu hạ tầng thiết yếu. Nhiều địa phương, như Hà Tĩnh, Lào Cai, Hải Dương,
Vĩnh Long, Phú Thọ, Nam Định, Thái Bình, Sóc Trăng còn chủ động bổ sung
kinh phí lên tới 5.664,8 tỉ đồng từ nguồn ngân sách địa phương cho các xã để
triển khai chương trình ngay trong năm 2011. 10/13 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương tự túc ngân sách giai đoạn 2011-2015.
Với sự vào cuộc tích cực, khẩn trương của các bộ, ban, ngành ở Trung
ương, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương và bản thân
18
người dân nông thôn, trong gần ba năm qua, mặc dù phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức nhưng nông nghiệp, nông thôn đã vững vàng vượt qua
khó khăn, duy trì được tăng trưởng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội đất
nước.
Xin nêu một vài dẫn chứng và số liệu được thống kê bước đầu như sau:
Năm 2010, nông nghiệp nước ta đạt mức tăng GDP là 2,78%, sản lượng lúa
tăng thêm 1,17 triệu tấn (đạt 39,9 triệu tấn); sản lượng thịt các loại tăng 725
ngàn tấn, đạt 4,02 triệu tấn; tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản
tăng 990 ngàn tấn, đạt 5,12 triệu tấn; sản lượng muối tăng 340 ngàn tấn, đạt
1,18 triệu tấn; tỷ lệ che phủ rừng tăng 1,2%, đạt 39,5% diện tích. Tổng kim
ngạch xuất khẩu các loại nông, lâm, thủy sản đạt 19,53 tỉ USD (tăng 3,46 tỉ
USD so với năm 2008).
Giao thông nông thôn được coi là khâu đột phá trong xây dựng hạ tầng
nông thôn. Trong 2 năm, 2009 và 2010 đã huy động gần 33 ngàn tỉ đồng,
trong đó nhân dân đóng góp khoảng 11,2% và trên 24 triệu ngày công lao
động; các nguồn khác chiếm 14,4%; ngân sách nhà nước hỗ trợ 74,4% mở
mới và nâng cấp hơn 40 nghìn ki-lô-mét đường; xây dựng khoảng 4.200 cầu
bê tông, cầu liên hợp, cầu dầm sắt, cầu treo, cầu gỗ và gần 50 nghìn cống. Hạ
tầng thương mại ở nông thôn mở rộng, tăng nhịp độ và tần suất giao thương.
Nâng cấp và mở rộng hệ thống điện, nâng tỷ lệ số xã lên 97,8% với 95,4% hộ
sử dụng điện. Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin về cơ bản đã phát triển
đến các xã vùng sâu, vùng xa. Khoảng 70% số xã có điểm truy cập in-tơ-nét
công cộng và 97% số xã có điện thoại công cộng.
Cơ cấu kinh tế nông thôn có bước chuyển biến tích cực. Công nghiệp và
dịch vụ đã chiếm xấp xỉ 60% cơ cấu kinh tế nông thôn. Trên 40 tỉnh hoàn
thành việc xây dựng quy hoạch phát triển làng nghề nông thôn. Số lượng làng
19
nghề tăng lên, hiện có trên 2.971 làng nghề theo tiêu chí của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
Có thể khẳng định, Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban chấp hành Trung
ương (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là Nghị quyết mang tính
toàn diện và đầy đủ nhất để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn nước ta từ trước đến nay. Vì vậy, được nhân dân cả nước, nhất là cư dân
nông thôn tích cực đón nhận, kỳ vọng về một thời kỳ với tương lai phát triển
mạnh mẽ.
Có thể coi đây là một cuộc vận động cách mạng to lớn và quan trọng
nhằm tập trung xác định rõ vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn; về
các hình thức tổ chức sản xuất và quan hệ sản xuất phù hợp, có hiệu quả ở
nông thôn; mối quan hệ giữa đô thị - nông thôn, công nghiệp - nông nghiệp và
giữa trí thức - nông dân để bảo đảm phát triển bền vững.
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1
2.1
.
.
ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN HUYỆN PHONG ĐIỀN
ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN HUYỆN PHONG ĐIỀN
20
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Huyện Phong Điền được thành lập theo Nghị định 05-NĐ/CP của Chính
phủ và chính thức đi vào hoạt động ngày 01/01/2004. Huyện Phong Điền có
vị trí nằm ở cửa ngõ phía Nam, tiếp cận khu đô thị trung tâm của thành phố
Cần Thơ. Với vị trí án ngữ chính trên trục giao thông vận tải đường thủy của
các tỉnh Miền Tây với thành phố Cần Thơ và các tỉnh phía Nam, kết hợp với
thế mạnh tiềm năng về đất đai, nông nghiệp, huyện có điều kiện thuận lợi
phát triển thương mại - dịch vụ - du lịch và đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá theo
hướng sinh thái trong thời gian tới.
* Vị trí địa lý
Với đặc thù là huyện nông nghiệp nằm ở phía Tây Sông Hậu, trực thuộc
thành phố Cần Thơ, có vị trí:
+ Phía Đông giáp quận Ninh Kiều,
+ Phía Đông - Đông Nam giáp quận Cái Răng,
+ Phía Tây giáp huyện Thới Lai,
+ Phía Bắc giáp quận Bình Thủy,
+ Phía Tây Bắc giáp quận Ô Môn,
+ Phía Nam giáp tỉnh Hậu Giang,
* Địa hình, khí hậu, thủy văn
Huyện Phong Điền với đặc thù là huyện nông nghiệp nằm ở phía Tây
Sông Hậu, trực thuộc thành phố Cần Thơ, có vị trí thuộc địa hình đồng bằng
tương đối bằng phẳng, có hệ thống sông ngòi chằng chịt với những tuyến
sông, kênh trục là đấu mối giao thông thủy quan trọng của TP Cần Thơ cũng
21
như của Khu vực ĐBSCL, đây là yếu tố thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp
và phát triển lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn.
Mang tính chất đặc thù của khí hậu nhiệt đới gió mùa, có nền nhiệt cao -
đều và phân làm hai mùa rõ rệt trong năm, Mùa mưa bắt đầu từ tháng 05 - 11;
mùa nắng từ tháng 12 - 04.
Nhiệt độ bình quân 27,6
o
C; nhiệt độ bình quân thấp nhất 21,1
o
C; nhiệt độ
bình quân cao nhất 36,7
o
C; tổng giờ nắng trong năm 2.613 giờ.
Lượng mưa trung bình/năm 2.134mm; lượng mưa cao nhất/năm
2.587mm; lượng mưa thấp nhất/năm 1.723mm; tổng số ngày mưa trung bình
cả năm 145 ngày.
Độ ẩm không khí trung bình cả năm : từ 82%
Độ ẩm trung bình cao nhất 86% (tháng 07); độ ẩm trung bình thấp nhất 79%
(tháng 12).
* Cơ cấu đất đai
Đơn vị hành chính gồm 06 xã và 01 thị trấn với 79 ấp: Thị trấn Phong
Điền (5 ấp), xã Nhơn Ái (7 ấp), xã Giai Xuân (14 ấp), xã Tân Thới (11 ấp), xã
Trường Long (20 ấp), xã Mỹ Khánh (8 ấp), xã Nhơn Nghĩa (14 ấp).
Qua Bảng 2.1 [Phụ lục 1a] nhận thấy diện tích đất nông nghiệp trong
huyện chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng diện tích đất tự nhiên của toàn xã. Trong
đó, diện tích đất nông nghiệp là 10.586,98 ha chiếm tỷ lệ 84,5% so với tổng
diện tích đất tự nhiên của toàn huyện. Đất nuôi trồng thủy sản có diện tích là
0,99 ha chiếm tỷ lệ 0.93% so với tổng diện tích đất nông nghiệp. Và đất trồng
cây hàng năm khác có diện tích là 3.886,98 ha chiếm tỷ lệ 36,71% so với tổng
diện tích đất nông nghiệp của huyện. Như vậy, huyện Phong Điền tập trung
diện tích đất nông nghiệp vào chủ yếu để trồng lúa, trồng hoa màu như: ngô,
22
lạc, đậu tương và rau các loại. Với đất phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ 15,47% so
với tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện. Đất ở là 30% so với tổng diện tích
đất phi nông nghiệp, đất chuyên dùng là 26,38% so với diện tích đất phi nông
nghiệp, đất sông và mặt nước chiếm tỷ lệ 41,14% so với diện tích đất phi
nông nghiệp. Còn lại đất tôn giáo, tín ngưỡng và đất nghĩa trang, nghĩa địa.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Đặc điểm dân cư, lao động
Dân số: 99.966 người (số liệu thống kê năm 2010) [Bảng 2.2 - Phụ lục
1a], trong đó: nam có 49.748 người, nữ có 50.218 người; Dân số phân bổ ở
khu vực nông thôn là 89.179 người, đạt tỷ lệ 89,21%; Dân số trong độ tuổi lao
động 65.568 người, chiếm tỷ lệ 65,59% dân số; Lao động trong nông nghiệp
chiếm tỷ lệ 55,19%
Đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là chủ trương
lớn của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và của toàn xã hội, nhằm nâng
cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn.
Số người trong độ tuổi lao động 65.568/99.966 người, chiếm 65,6 % dân
số. Trong đó có 60.846 lao động có việc làm, 1.169 lao động chưa có việc
làm.
Lao động có việc làm hoạt động trong lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp
39.005 người, chiếm 59,48 % trên tổng số lao động. Lao động còn lại hoạt
động trong các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch
vụ và du lịch chiếm tỷ lệ 40,52% lao động.
Giai đoạn 2006-2011 thông qua các chương trình đào tạo nghề đã giải
quyết việc làm cho khoảng 34.000 lao động, đào tạo nghề cho 3.378 lao động,
23
giới thiệu cho 267 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, mặt bằng
chung về tay nghề, trình độ lao động nông thôn của huyện còn thấp, lao động
phổ thông và lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, việc làm trong
các ngành nghề chưa đa dạng, bấp bênh, thu nhập thấp và thiếu ổn định.
Bảng 2.3. Thống kê diện tích - dân số huyện Phong Điền (năm 2011)
STT Đơn vị Diện tích
(km2)
Dân số
(người)
Mật độ dân
số
(người/km2)
01 Thị trấn Phong Điền 8,14 10.787 1.326
02 Xã Nhơn Ái 16,32 14.075 862
03 Xã Giai Xuân 19,69 15.370 781
04 Xã Tân Thới 17,73 13.726 774
05 Xã Trường Long 31,00 18.350 592
06 Xã Mỹ Khánh 10,59 10.478 990
07 Xã Nhơn Nghĩa 21,79 17.180 788
Cộng 125.26 99.966 6.103
Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Phong Điền
2.1.2.2. Đặc điểm Y Tế, Văn hoá - Giáo dục
- Về y tế: Công tác chăm sóc sức khỏe được quan tâm, nâng cao chất
lượng phục vụ, công tác phòng ngừa dịch bệnh, chương trình y tế quốc gia, vệ
sinh an toàn thực phẩm được triển khai sâu rộng, đồng bộ đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khỏe nhân dân, huyện đã xây dựng hoàn thành Bệnh viện đa
khoa (200 giường), 7/7 xã, thị trấn có trạm y tế đạt chuẩn Quốc gia, các
công trình đã và đang hoàn thành sẽ mở ra tiềm năng cho phát triển kinh tế -
xã hội địa phương.
24
- Về văn hóa: Hệ thống truyền thanh cũng được từng bước nâng cấp
nhằm phủ sóng trong toàn huyện. Mạng lưới bưu điện được quan tâm đầu tư
phát triển đến địa bàn các xã phục vụ cho thông tin, liên lạc, đến nay đã có 07
điểm bưu điện văn hoá, 01 thư viện. Các hoạt động thể dục, thể thao, văn hoá,
văn nghệ đã thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu
niên, học sinh và các đoàn thể tham gia hoạt động sinh hoạt sôi nổi
- Về giáo dục: Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục của huyện
không ngừng phát triển cả về quy mô và chất lượng, đáp ứng khá tốt yêu cầu
đào tạo nguồn nhân lực.
- Kết quả thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ sở
đạt chuẩn phổ cập từ năm 2004 và được tái công nhận hàng năm.
- Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2011 đạt 78,7%.
- Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học phổ thông
hoặc học nghề 75,5%.
- Cơ sở vật chất được đầu tư xây dựng ngày càng khang trang hơn.
Hàng năm trang thiết bị dạy học được bổ sung và hoàn thiện dần, góp phần
đáng kể vào việc nâng cao chất lượng dạy và học.
- Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên không ngừng được tăng cường về
số lượng và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu công tác đặt ra. Chất
lượng giáo dục từng bước được củng cố và phát triển vững chắc.
2.1.2.3. Các hình thức tổ chức sản xuất
Kinh tế hộ vẫn là chủ lực, đóng góp vào việc nâng cao năng suất, sản
lượng, mở mang thêm nhiều ngành nghề trong nông nghiệp; cơ cấu hộ nông
nghiệp có xu hướng ngày càng chuyển dần sang dịch vụ, tiểu thủ công
nghiệp. Kinh tế hợp tác, hợp tác xã, tổ hợp tác được Đảng và Nhà nước quan
25