Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ việt nam sang thị trường liên bang nga trong giai đoạn 2009-2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGỌAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN BANG NGA TRONG
GIAI ĐOẠN 2009-2020
Sinh viên thực hiện: HUỲNH MAI NGỌC
Lớp: Nhật 1
Khóa: K44
Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ NGUYỄN ĐỨC VINH
TP.Hồ Chí Minh, Tháng 5 Năm 2009
NHẬN XÉT CỦA GVHD Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA VIỆC XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN BANG NGA 4
I. Tổng quan về thị trường sản phẩm gỗ Liên Bang Nga 4
1. Tình hình cung cầu sản phẩm gỗ của Liên Bang Nga 4
1.1 Tình hình cung 4
1.2 Tình hình cầu 6
2. Cơ hội và thách thức đối với việc xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam vào thị
trường Liên Bang Nga 7
2.1. Cơ hội 7
2.1.1. Điều kiện thu nhập của người dân Nga 7
2.1.2. Việc gia nhập WTO của Liên bang Nga 8
2.2. Thách thức 9


2.2.1. Tình hình kinh tế thế giới 2008 9
2.2.2 Tình hình cạnh tranh trên thị trường 10
2.2.3 Quy định về người nước ngoài kinh doanh bán lẻ trên thị trường Liên
Bang Nga 11
3. Những rào cản thương mại khi xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Liên
Bang Nga 11
3.1 Rào cản thuế quan 12
3.2 Rào cản phi thuế quan 13
II. Vai trò của sản phẩm gỗ trong chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam 15
1. Chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam 15
2. Vai trò của việc xuất khẩu sản phẩm gỗ 17
III. Sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Liên
Bang Nga trong giai đoạn 2009-2020 18
1. Điều kiện và tiềm năng sản xuất gỗ của Việt Nam 18
1.1 Vị trí địa lý 18
1.2 Nguồn nguyên liệu 19
1.3 Nguồn lao động 19
1.4 Các cơ chế và chính sách hỗ trợ của Nhà Nước 21
2. Tiềm năng của thị trường Liên Bang Nga 22
3. Triển vọng quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam – Liên Bang Nga 23
IV. Kinh nghiệm xuất khẩu sản phẩm gỗ của một số nước 25
1. Trung Quốc 25
2. Malaysia 26
3. Thái Lan 27
4. Indonesia 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN BANG NGA TRONG GIAI ĐOẠN 2005-2009 30
I. Tổng quan tình hình xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam trong giai đoạn
2005-2009 30
II. Tình hình xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Liên Bang Nga giai

đoạn 2005-2009 32
1. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 32
2. Cơ cấu sản phẩm gỗ xuất khẩu 34
3. Tình hình giá xuất khẩu sản phẩm gỗ 36
4. Tình hình chất lượng sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam 37
5. Phương thức tổ chức giao nhận và vận tải xuất nhập khẩu sản phẩm gỗ 38
6. Tín dụng xuất khẩu và các biện pháp thanh toán 39
7. Tình hình tổ chức đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu 41
8. Hoạt động xúc tiến thương mại 42
III. Nhận xét chung 44
1. Những kết quả đạt được 44
2. Những mặt còn hạn chế 46
2.1. Về nguồn nhân lực 46
2.2. Về nguồn nguyên liệu 47
2.3. Tình trạng vốn 49
2.4. Công nghệ chế biến 50
2.5. Khả năng cạnh tranh 50
2.6.Xây dựng thương hiệu 52
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM
GỖ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN BANG NGA GIAI ĐOẠN
2009-2020 54
I. Một số dự báo về xu hướng tiêu dùng sản phẩm gỗ ở thị trường Liên bang Nga
trong giai đoạn tới 54
II. Quan điểm, mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị
trường Liên Bang Nga 55
1. Hệ thống các quan điểm
1.1Quan điểm của cơ quan quản lý nhà nước 55
1.2Quan điểm của các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ của Việt Nam 56
1.3Nhận xét chung 57
2. Mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường Liên

Bang Nga 57
III. Các giải pháp thực hiện 59
1. Giải pháp về nguồn nguyên liệu 59
2. Đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao cho làng nghề 61
3. Đầu tư nâng cao thiết bị máy móc và đổi mới về công nghệ chế biến 62
4. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm 62
5. Các doanh nghiệp cần xây dựng thương hiệu cho sản phẩm gỗ Việt Nam xuất
khẩu sang Liên Bang Nga 68
6. Nhà nước cần có nhiều chính sách quan tâm hỗ trợ về vốn cho danh nghiệp. .70
IV. Một số đề xuất, kiến nghị 70
1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước 70
2. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam 72
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hiện nay, việc biết phát huy những lợi thế, tiềm năng để xuất khẩu, thực hiện
tích lũy trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế đang là vấn đề đặt ra với các
nền kinh tế trong đó có Việt Nam. Với những lợi thế về nguồn tài nguyên rừng,
nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ… ngành chế biến gỗ đã được nước ta lựa
chọn để ưu tiên đầu tư phát triển nhằm tích lũy vốn và năng lực sản xuất tương lai
cho nền kinh tế.
Có thể nói gỗ là một loại nguyên liệu xanh, có giá trị ưu việt hơn các sản phẩm
ưu việt khác. Ngày nay, người tiêu dùng toàn cầu rất quan tâm đến tính năng cũng
như độ an toàn của nguyên vật liệu. Ưu điểm lớn nhất của sản phẩm gỗ là không
chỉ có khả năng tái chế như sắt, thép, nhôm…mà còn có khả năng tái sinh. Gỗ hấp
thụ được CO2, ngay cả khi được chế biến thành phẩm thì khả năng hấp thụ CO2
vẫn đạt 50% so với lúc còn trên cây. Mức năng lượng để sấy gỗ thấp hơn 100 lần so
với mức năng lượng để xử lý các nguyên liệu khác và gỗ cũng có khả năng ác điện

tốt hơn bê tông, tạo độ an toàn cao cho người sử dụng. Với những đặt tính ưu việt
như vậy, sản phẩm gỗ ngày nay đã trở thành sự lựa chọn số một của người tiêu
dùng trên thế giới, đặt biệt là những quốc gia châu Âu, những quốc gia rất yêu thiên
nhiên, thích cuộc sống gần gũi môi trường, trong đó có Liên Bang Nga. Tại Nga,
tầng lớp trung lưu ngày một nhiều, người dân làm việc trong các thành phố nhưng
thích sống ở ngoại ô. Họ rất chịu chi cho việc sắm sửa làm đẹp nhà cửa và chuộng
những sản phẩm chất lượng cao, kiểu dáng đẹp, phù hợp với không gian cũng như
phong cách Nga. Có thể nói, Nga là một thị trường đầy tiềm năng mà các doanh
nghiệp gỗ Việt Nam có thể xúc tiến đưa hàng hóa vào đây. Hiện, dân số Nga
khoảng 142 triệu dân, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 9.075USD/năm. Nga
được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ đô thị hóa và phát triển nhà
cửa cao trong khu vực các nước Đông Âu. Hàng năm mặt hàng đồ gỗ nhập khẩu
chiếm 43% trên tổng nhu cầu tiêu dùng của người dân Nga.
Thực tế cho thấy từ năm 2002 đến nay, sản phẩm gỗ Việt Nam đã có mặt ở 120
quốc gia và vùng lãnh thổ.Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu gỗ tháng
11 năm 2008 đạt khỏang 2.56 tỉ USD, đứng thứ 5 trên thế giới và thứ 2 trong khu
vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, xuất khẩu gỗ đang gặp nhiều khó khăn về vốn,
nguyên liệu…Những khó khăn đó đòi hỏi sự hợp lực của nhà nước cùng với các
doanh nghiệp trong nước để tìm ra hướng giải quyết giúp cho ngành sản xuất gỗ
của nước ta ngày một phát triển.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN BANG
NGA GIAI ĐOẠN 2009-2020”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là tình hình xuất khẩu các sản phẩm gỗ,
đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ của các doanh nghiệp
Việt Nam vào thị trường Liên bang Nga trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu là trên lãnh thổ Việt Nam, nghiên cứu thực trạng trong giai
đoạn 2005-2009 và đề xuất giải pháp cho giai đoạn 2009-2020.
3. Mục đích nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu toàn diện hoạt động xuất khẩu gỗ của Việt Nam sang thị
trường Liên Bang Nga trong những năm qua nhằm làm sáng tỏ 3 mục đích sau:
Chỉ ra cơ sở thực tiễn của việc cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt
Nam sang thị trường Liên Bang Nga.
Phân tích thực trạng việc xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam giai đoạn 2005-2008
để chỉ ra những mặt đạt được, những mặt hạn chế từ đó dự báo được cung cầu của
thị trường thế giới trong thời gian tới.
Đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị
trường Liên Bang Nga giai đoạn 2009-2020.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu đề tài một cách toàn diện, tác giả sử dụng phương pháp nghiên
cứu chung chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bên cạnh đó tác giả cũng dùng các biện
pháp nghiên cứu riêng như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu…
để rút ra nhận định mang tính khoa học nhằm làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu.
4. Kết cấu khóa luận:
Khóa luận ngoài phần mở đầu và kết luận, có kết cấu chặt chẽ gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt
Nam sang thị trường Liên Bang Nga.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường
Liên Bang Nga trong giai đoạn 2005-2008
Chương 3: Các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam
sang thị trường Liên Bang Nga giai đoạn 2009-2020.
5. Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài nghiên cứu toàn diện thực trạng trong xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt
Nam sang thị trường Liên Bang Nga giai đoạn 2005-2008 có ý nghĩa như sau:
Là cơ sở thực tiễn để nhà nước và doanh nghiệp trong nước xây dựng chiến lược
xuất khẩu giai đoạn 2009-2020.
Là tài liệu tham khảo đối với những người cần quan tâm, sinh viên trong việc
tìm hiểu tình hình xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam tại thị trường Liên Bang Nga.
Cuối cùng tác giả cũng xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Nguyễn Đức

Vinh – Giảng viên trường Đại Học Ngoại Thương – Cơ Sở II TP.HCM đã nhiệt tình
hướng dẫn để tôi hoàn thành khóa luận này. Do nguồn tài liệu tham khảo có hạn và hạn
chế trong kinh nghiệm nên dù tác giả đã cố gắng hết sức song chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong sự chỉ dẫn và góp ý tận tình của quý thầy cô để đề tài
được hoàn chỉnh hơn và có tính ứng dụng cao hơn trong thực tế.
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA VIỆC XUẤT KHẨU SẢN
PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN BANG NGA
I. Tổng quan về thị trường sản phẩm gỗ Liên Bang Nga
1. Tình hình cung cầu sản phẩm gỗ của Liên Bang Nga hiện nay
1.1 Tình hình cung
Nước Nga có nguồn tài nguyên rừng khổng lồ với trữ lượng 82 tỉ m3 gỗ, trong
đó gỗ được phép khai thác chiếm 531 triệu m3. Hàng năm nguồn gỗ được bổ sung
thêm 920 triệu m3. Năm 2005, Nga xuất khẩu khoảng 58 460,8 ngàn tấn gỗ với tổng trị
giá khoảng 5 281,3 triệu USD, cụ thể phân bổ như sau:
Mã HS Mô tả hàng hóa
Tổng cộng
Các quốc gia
nước ngoài
Các nước CIS
(ngàn
tấn)
Triệu
USD
(ngàn
tấn)
Triệu
USD
(ngàn
tấn)
Triệu

USD
4403
Sản phẩm gỗ thô
chưa chế biến
(ngàn m3)
47 937,9 2 856,347376,2 2825,9 561,7 30,4
4407
Sản phẩm gỗ đã
chế biến
8 998,8 1 899,0 7278,0 1675,0 1720,8 224,0
4412 Gỗ dán (ngàn m3) 1 524,1 526,0 1413,3 483,2 110,8 42,8
Nguồn: Tổng cục hải quan Liên Bang Nga
Bảng 1.1: Tình hình xuất khẩu sản phẩm gỗ của Liên Bang Nga năm 2005
Vùng Viễn Đông Nga với diện tích 6 215,9 ngàn km2 gắn liền với hình ảnh núi
rừng trùng điệp có nguồn lâm sản dồi dào, đặt biệt là gỗ, chiếm 25% diện tích rừng
nuớc Nga và chiếm tới 33% trữ lượng gỗ toàn Liên Bang Nga. Trong vùng có nhiều
loại gỗ nổi tiếng như gỗ tùng, bách, bạc dương, thông, sồi, tuyết tùng,…
Những năm qua vùng này xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm gỗ tròn chưa chế
biến. Năm 2006 Viễn Đông xuất khẩu khoảng 14 triệu m3 gỗ trị giá 1 184 6 triệu USD
(chiếm 14,5% kim ngạch xuất khẩu toàn vùng), trong đó gỗ cây chiếm đến 80%. Quý
I/2007, theo số liệu hải quan Viễn Đông, toàn vùng xuất khẩu 4,8 triệu m3 (tăng 25%
so với quý I/2006), trong đó gỗ cây chiếm 97%. Lượng gỗ cây xuất khẩu đi các nước
như sau: Trung Quốc chiếm 56%, Nhật 29%, Hàn Quốc 11%, luợng không đáng kể
(4%) xuất khẩu đi Triều Tiên, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Việt Nam.[27]
Lượng gỗ dán xuất khẩu của Nga cũng tăng đều trong vòng 10 năm từ 1997 đến
2007 với diễn biến được thể hiện qua biểu đồ sau:
Nguồn: www.russiaexport.net
Biểu đồ 1.2: Sản lượng gỗ dán xuất khẩu của Liên Bang Nga từ năm 1997-
2007
Theo báo cáo năm 2007 về mặt hàng sản phẩm gỗ của Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, Nga được xếp vào top 10 quốc gia có giá trị xuất khẩu gỗ lớn nhất thế
giới. Năm 2006, Liên Bang Nga xuất được 1416,697 triệu USD, và giá trị xuất khẩu
năm 2007 là 1894,142 triệu USD, tăng 33.7% so với năm 2006.
Tên các
nước
Năm 2006 (triệu
USD)
Năm 2007 (triệu
USD)
So sánh 07/06
Canada 4231,129 3120,741 -0,2624
Đức 1846,295 2291,664 0,2412
Trung
Quốc
1591,585 2120,772 0,3324
Nga 1416,697 1894,142 0,337
Mỹ 1615,993 1687,784 0,044
Áo 973,6495 1429,8 0,4684
Thuỵ Điển 1105,318 1397,112 0,2639
Malaysia 997,2879 1163,996 0,1671
Phần Lan 788,494 1014,961 0,2872
Pháp 733,4632 887,9412 0,2106
                      (Nguồn: GTIS)
Bảng 1.3: Giá trị xuất khẩu gỗ của 10 quốc gia lớn nhất năm 2007 so với
năm 2006
1.2 Tình hình cầu
So với các nước Tây Âu thì nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ của người Nga còn thấp,
tổng mức tiêu dùng đồ gỗ của Nga chỉ có 0.61% trên tổng xuất lượng đồ gỗ thế giới.
Theo số liệu của cơ quan nghiên cứu về thị trường đồ gỗ cao cấp Nga, thực hiện năm
2008 thì mức tiêu dùng đồ gỗ trong 3 năm qua như sau:

Năm 2005 2006 2007 Ước 2008
Tổng mức tiêu dùng (tỷ
USD)
3,389 3,954 4,518 5,177
Tỷ lệ tăng/năm trước (%) 16,7 14,3 14,6
Từ năm 2000 đến nay, nhu cầu nhập khẩu đồ gỗ của Nga đã không ngừng tăng
lên. Số liệu dưới đây sẽ cho ta thấy được kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ của Nga cao hơn
rất nhiều so với kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này.
Nguồn www.russiaexport.net
Biểu đồ 1.4 : Kim ngạch xuất nhập khẩu đồ gỗ và sản phẩm phụ của Nga từ
năm 1996-2006
Nga là một trong những thị trường lớn nhập khẩu đồ gỗ cao cấp từ các nước như
Ý, Đức, Tây Ban Nha…; đồ gỗ trung bình từ Trung Quốc, Indonesia…Về xu hướng
tiêu dùng, người Nga không tiếc tiền cho việc làm đẹp nhà của và chuộng sản phẩm
chất lượng cao, kiểu dáng đẹp phù hợp với không gian và phong cách Nga. Những
người có tuổi đời từ 36-40 thích đồ gỗ theo phong cách hiện đại và những người có
tuổi đời từ 45-62 thích phong các cổ điển. Số liệu dưới đây cho thấy phong các tiêu
dùng năm 2007:
Đối tượng % giá trị
Đồ gỗ văn phòng 23
Đồ dùng nội thất 77
Sản phẩm có bọc nệm 26
Sản phẩm không bọc nệm 74
Ngoại ô Mạc Tư Khoa 36
Nội thị Mạc Tư Khoa 64
Đồ gỗ cao cấp 15
Đồ gỗ trung bình và thấp 85
Phần lớn người Nga làm việc trong các thành phố, tầng lớp trung lưu ngày một
nhiều và đa số đều có nhà ngoại ô. Nhà ngoại ô trở thành phổ biến với tên gọi “datra”
là đối tượng mua sắm đồ gỗ nhiều nhất. Doanh nghiệp sản xuất hàng có phong cách cổ

điển và chất lượng cao sẽ có ưu thế khi thâm nhập phân khúc thị trường này.
2. Cơ hội và thách thức đối với việc xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam vào thị
trường Liên Bang Nga
2.1 Cơ hội
2.1.1 Điều kiện thu nhập của người dân Nga
Thu nhập của người Nga tăng lên đều đặn, cho phép nước này vượt qua những
quốc gia thường được gọi là giàu có hơn căn cứ vào mức thu nhập và GDP bình quân
đầu người. Trong tương lai gần, những chỉ số này của Nga sẽ ngang bằng các nước
Châu Âu, thậm chí có thể còn cao hơn. Sự gia tăng thu nhập được nhận thấy không chỉ
trong giới nhà giàu mà ở tất cả mọi tầng lớp dân Nga. Thu nhập của tầng lớp siêu giàu
ở Nga tăng lên cũng như tất cả mọi tầng lớp khác. Ngày nay, ở Nga có khoảng
119.000-250.000 gia đình có thu nhập hằng năm gần 1 triệu USD. Trong danh sách do
tạp chí Forbes đưa ra năm 2006, số nhà tỷ phú Nga đã tăng từ 50 lên 60 người, đứng
thứ hai trên thế giới cùng Đức. Mức thu nhập mong muốn, vốn phụ thuộc vào thu nhập
thực tế và dao động trong khoảng 12.000 – 50.000 rúp/tháng/thành viên trong gia đình,
đang bắt đầu giảm cách biệt với mức thu nhập thực tế của người Nga. Theo các nhà
khoa học, “số người đã đạt được thu nhập đảm bảo cuộc sống đầy đủ đang tăng lên và
hiện chiếm tỉ lệ 11% năm 2007 so với 9% năm 2006”.[23]
Theo số liệu của Rosstat – cơ quan thống kê của Nga – trong những năm 2000-
2006, mức tăng thu nhập thực tế của dân Nga khoảng 9%-12%/năm. Tháng 6-2007, thu
nhập của dân Nga đạt 12.200 rúp/người (trong vòng nửa năm tăng 11%), còn tiền
lương thực tế tăng 17,5%. Ngoài ra, GDP bình quân đầu người ở Nga, tính theo đồng
giá khả năng mua sắm, đạt 12.200 USD trong năm 2006, nhiều hơn Bulgaria
(10.700USD), Romania (9.100USD), Thổ Nhĩ Kỳ (9000USD). Chất lượng cuộc sống ở
Nga cũng tăng lên một cách thích hợp. Mức độ phồn vinh nước Nga đạt được là không
có giới hạn. Theo dự báo được đưa ra trong “Quan điểm phát triển kinh tế - xã hội Nga
đến năm 2020”, trước năm 2015, GDP bình quân đầu người ở Nga không dưới 21.000
USD; trước năm 2020 là 30.000 USD, gần bằng với mức độ phát triển hiện nay của các
nước khu vực đồng euro. Đồng thời, sự cách biệt trong mức thu nhập cá nhân so với
Mỹ gảm từ 3 lần xuống còn 2 lần.[23]

2.1.2 Việc gia nhập WTO của Liên Bang Nga
Hiện nay Liên Bang Nga đang cố gắng kết thúc giai đoạn đàm phán cuối cùng
để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Có thể nói, việc Liên bang Nga gia
nhập WTO có ý nghĩa đặt biệt to lớn không những đối với nước Nga mà còn đối với
các thành viên WTO khác, một trong số đó là Việt Nam. Sau khi cả Việt Nam và Liên
Bang Nga đều gia nhập vào WTO, quan hệ hợp tác về kinh tế, thương mại giữa hai
nước sẽ được cải thiện đáng kể, tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi hơn do những rào cản về
bảo hộ mậu dịch vốn đã tồn tại lâu nay giữa hai nước sẽ được xóa bỏ. Đối với hầu hết
các mặt hàng của Việt Nam xuất sang Liên Bang Nga nói chung cũng như sản phẩm gỗ
nói riêng, sự bảo hộ mậu dịch sản xuất trong nước Nga cũng như thuế quan nhập khẩu
sẽ giảm xuống theo đúng như lộ trình cam kết với WTO. Và mặt hàng gỗ Việt Nam sẽ
ngày càng có nhiều cơ hội để thâm nhập sâu rộng vào thị trường tiềm năng này.
2.2 Thách thức
2.2.1. Tình hình kinh tế thế giới 2008
Có thể nói năm 2008 được coi là một năm tồi tệ nhất của nền kinh tế thế giới
trong nhiều thập niên qua. Khởi đầu từ một sự suy giảm nhẹ của nền kinh tế Mỹ rồi gia
tốc thành một cuộc khủng hoảng tín dụng và tài chánh lan rộng trên toàn thế giới. Đầu
năm 2008, thế giới phải đối đầu với lạm phát và nguy cơ khủng hoảng năng lượng,
lương thực. Giá nhiều mặt hàng lên cao, đặt biệt là dầu mỏ, lương thực. Từ tháng
9/2008, cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ lan sang hầu hết các nước, làm
rung chuyển thị trường tài chính thế giới. Khủng hoảng nền kinh tế tiền tệ đã tác động
mạnh đến nền kinh tế thực. Thế giới đang phải đối đầu với nguy cơ suy thoái, các nền
kinh tế lớn là Hoa Kỳ, Nhật Bản và nhiều nước công nghiệp hàng đầu Châu Âu trong
đó có Liên Bang Nga đã rơi vào suy thoái và khó có khả năng phục hồi trước nửa đầu
năm 2010.[31]
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này, kinh tế Liên Bang Nga đã xuống dốc
nghiêm trọng. Sản xuất công nghiệp giảm mạnh. Lạm phát tăng cao hơn dự đóan của
Chính Phủ. Đồng Rúp mất giá nhiều so với đồng đôla Mỹ và Euro. Thu nhập bình
quân đầu của người lao động cũng bị giảm. Theo số liệu của Cơ quan Thống kê Nga,
so với tháng 1/2008, trong tháng 01/2009 sản xuất công nghiệp giảm 16%. Đây là mức

thấp nhất kể từ năm 1994 trở lại đây. Đặt biệt công nghiệp chế biến giảm tới 24,1%,
công nghiệp sản xuất ô tô và thiết bị giảm 45,9%, sản xuất các loại thiết bị điện giảm
47,1%, sản xuất phân bón giảm 41,7%, luyện kim giảm 39,8% Nhìn tổng thể, sản xuất
công nghiệp ở Nga bị giảm mạnh so với nhiều nước phát triển ở Châu Âu.[14]
Đối với việc xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt nam trong thời kỳ này cũng chịu
ảnh hưởng đáng kể. Do kinh tế suy thoái nên lượng đặt hàng của khách hàng không
còn giữ mức tăng 20% mỗi năm như trước mà chỉ còn khoảng 10%. Ngoài ra, lợi
nhuận của nhiều doanh nghiệp chế biến gỗ giảm còn do hợp đồng đã ký trước đó với
giá thấp trong khi giá vốn hàng bán và chi phí liên tục leo thang: giá cả đầu vào biến
động tăng làm cho chi phí nguyên vật liệu và các chi phí khác tăng, ảnh hưởng lớn đến
giá thành sản phẩm.
2.2.2 Tình hình cạnh tranh trên thị trường
Hiện nay trên thị trường đồ gỗ Liên Bang Nga đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay
gắt giữa các doanh nghiệp sản xuất trong nước cũng như các doanh nghiệp nhập khẩu
vào thị trường này. Đặt biệt là khi gia nhập vào WTO, Liên Bang Nga sẽ mở rộng thị
trường cho hàng nhập khẩu bao gồm cả mặt hàng đồ gỗ. Lúc đó, bên cạnh đồ gỗ cao
cấp từ Ý, Đức, Tây Ban Nha thì đồ gỗ từ phân khúc trung bình từ Trung Quốc,
Malaysia cũng sẽ đẩy mạnh hơn việc xuất khẩu vào thị trường này, tạo nên một sự
cạnh tranh rất quyết liệt. Đây là một thách thức rất lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt
Nam phải nâng cao năng lực, chất lượng sản phẩm cũng như tăng cường nhiều biện
pháp xúc tiến thương mại nếu muốn tồn tại lâu dài, bền vững trên thị trường rộng lớn
này.
Ngoài ra, việc Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO đồng nghĩa với việc phải
thực hiện những cam kết cắt giảm trợ cấp cho hàng hóa xuất khẩu trong đó có mặt
hàng đồ gỗ. Khi là thành viên chính thức của WTO, thì tất cả các biện pháp trợ cấp,
trực tiếp trợ giá, trợ cấp, bảo hộ sản xuất trong nước không còn nữa và chúng ta sẽ phải
đối mặt với những thách thức to lớn, áp lực cạnh tranh nặng nề. Các doanh nghiệp
không thể dựa vào sự trợ cấp từ phía Chính phủ mà phải tự mình nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng hóa.
2.2.3 Quy định về người nước ngoài kinh doanh bán lẻ trên thị trường Liên

Bang Nga
Bắt đầu từ ngày 15/1/2007 Nga đã ra quy định hạn chế ở mức 40% đối với
người nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ tại các cửa hàng và chợ. Đây là nội
dung quan trọng nhất, một nghị định mới về người lao động và nhập cư được quốc hội
Nga phê chuẩn từ tháng 11/2006. Từ trước đến nay, hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam
vào Liên Bang Nga có một lượng không nhỏ do người Việt định cư tại Nga thực hiện
từ khâu nhập khẩu cho đến phân phối trên thị trường nội địa. Trong đó, kênh bán hàng
trực tiếp cho người Việt tại các chợ luôn được xem là cầu nối quan trọng trong bước
tiếp cận thị trường đầu tiên của các doanh nghiệp Việt Nam
Theo Vụ Châu Âu, mặc dù một phần các doanh nghiệp đã chủ động chuyển
hướng kinh doanh theo nhiều kênh khác nhau như thông qua thương hiệu của một đối
tác tại Nga , lập các công ty, thuê người Nga đứng bán hàng, chuyển quốc tịch, bán cho
các nhà phân phối hàng để đưa hàng vào bán tại các siêu thị, trung tâm thương mại…
Song trong một chừng mực nhất định, tình hình hoạt động của một cộng đồng Việt sau
khi Nga bắt đầu thực hiện Luật cấm người nước ngoài kinh doanh bán lẻ trên thị
trường đang và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lượng hàng nhập khẩu từ Việt Nam vào Nga
trong thời gian tới, trong đó có mặt hàng đồ gỗ. Thêm vào đó, từ ngày 1/4/2007, các
chính sách kinh doanh tại Liên Bang Nga một lần nữa bị siết chặt hơn khi các cấp
chính quyền Nga tiếp tục thực hiện các biện pháp nhằm kiểm tra gắt gao tình trạng
người nước ngoài bán lẻ trên thị trường. Có thể nói quy định này không chỉ ảnh hưởng
đến cộng đồng người Việt sinh sống tại Nga mà còn tạo ra một thách thức lớn cho các
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu gỗ nói riêng
trong việc xuất khẩu sản phẩm sang thị trường này.[32]
3. Những rào cản thương mại khi xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường
Liên Bang Nga
3.1 Rào cản thuế quan
Chính sách thuế nhập khẩu của Nga điều chỉnh chủ yếu nhằm tăng nguồn thu
ngân sách , khắc phục tình trạng thân hụt ngân sách tồn tại và kéo dài trong nhiều năm
qua. Hàng hóa nhập khẩu vào Nga phải chịu thuế nhập khẩu trên cơ sở chính sách đối
ngoại và được chia ra làm 4 mức thuế suất dàng cho 4 nhóm nước, cụ thể là:

Nhóm nước có quan hệ tối huệ quốc với Nga chịu mức thuế suất theo quy định
được công bố và mức thuế này chính là cơ sở để áp dụng đối với các nước khác nên
thường gọi là “thuế suất cơ sở công bố”.
Nhóm nước không có quan hệ tối huệ quốc với Nga chịu mức thuế suất bằng 2
lần thuế suất cơ sở công bố.
Nhóm nước đang phát triển( trong đó có Việt Nam ) chịu mức thuế suất bằng 75
% thuế suất cơ sở công bố.
Nhóm nước kém phát triển và các nước SNG được miễn thuế hoàn toàn đối với
hàng hóa khi xuất khẩu vào Nga.
Một số hàng hóa không khuyến khích nhập khẩu còn phải chịu thêm thuế nhập
khẩu đặc biệt với mức thuế suất rất cao như xăng, xe con, rựu…
Hàng hóa nhập khẩu vào Nga sau khi chịu thuế nhập khẩu và thuế nhập khẩu
đặt biệt nếu có còn phải chịu thuế giá trị gia tăng.
Hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu vào Nga muốn được hưởng mức thuế
suất bằng 75% mức thuế cơ sở công bố phải thỏa mãn về xuất xứ được quy định trong
“hệ thống ưu đãi phổ cập” GSP của Nga. Trong đó có quy định về hàng hóa có xuất xứ
toàn bộ tại một nước là hàng hóa được sản xuất toàn bộ tại một nước (có danh mục quy
định các loại hàng cụ thể). Quy định hàng hóa được gia công đầy đủ là hàng hóa trong
quá trình sản xuất có hai hoặc nhiều nước tham gia (có quy định tiêu chuẩn gia công
đầy đủ. Khi hàng hóa nhập khẩu vào Nga, để được hải quan xác định đủ tiêu chuẩn
GSP thì doanh nghiệp phải chứng minh sự phù hợp về xuất xứ. Hải quan Nga quy định
rất chặt chẽ về giấy chứng nhận xuất xứ và có thể tiến hành điều tra xác minh khi có
dấu hiệu nghi ngờ.[8]
Về sản phẩm đồ gỗ nhập khẩu, hiện tại Nga tính thuế dựa trên lượng hàng, thuế
nhập khẩu 1.300 EU/tấn, thuế VAT 18% tính trên giá trị tối thiểu 5.000 USD/tấn. Kiểu
thu thuế của Nga là đồ gỗ chứa trong container vào cảng chạy qua bàn cân ( giống như
các trạm cân trên quốc lộ của Việt Nam) rồi tính khối lượng để tính thuế, nên hàng đồ
gỗ càng nặng, càng pha trộn nhiều kim loại thì càng bị đánh thuế cao.
Hàng nhập khẩu muốn được lưu thông hợp pháp trên thị trường Liên Bang Nga
phải hoàn chỉnh các thủ tục hải quan sau khi đã nộp xong thuế nhập khẩu, thuế VAT,

thuế tiêu thụ đặt biệt đối với xe hơi, đồ uống có cồn, các loại xì gà và thuốc lá và các
loại phí hải quan. Trong quá trình bán lẻ phải nộp thuế bán hàng 5%. Phí hải quan phải
trả tại Nga bằng đồng rúp với mức trên 0,1% trị giá hàng nhập khẩu cùng với 0,05%
bằng ngoại tệ theo tỷ giá công bố của Ngân hàng. Dịch vụ phí hải quan cho công ty
làm dịch vụ do các bên thỏa thuận song theo thông lệ không thấp hơn 300 USD cho
một tờ khai. Thuế VAT tính chung cho các mặt hàng nhập khẩu ở mức 20% trị giá
nhập khẩu ( trừ một số mặt hàng thực phẩm như thịt, sữa, trứng, bột mỳ, cá và các sản
phẩm từ thịt, sữa, trứng, mỳ, cá, dầu thực vật, bơ thực vật, đường, muối, ngũ cốc, rau
có nguy cơ bị áp thuế nhập khẩu đặt biệt). [30]
3.2 Rào cản phi thuế quan
Hiện nay Liên Bang Nga vẫn đang tồn tại hệ thống tiêu chuẩn sản phẩm, quy
trình kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp được ban hành từ thời Liên Xô cũ. Một
số mặt hàng được bổ sung sau này, tuy nhiên vẫn được đánh giá dưới tên tiêu chuẩn
nhà nước GOCT R.
Hệ thống tiêu chuẩn và quy trình thông qua các tiêu chuẩn này hiện nay đang
được coi là lạc hậu và đang được coi là lạc hậu và đang được xem xét cải cách để phù
hợp xu thế hội nhập, cũng như đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Nhằm
mục tiêu này, ngày 27 tháng 12 năm 2003 đã ban hành luật Liên Bang về điều chỉnh kỹ
thuật nhằm soạn thảo ban hành và thực hiện các yêu cầu bắt buộc đối với sản phẩm,
quy trình sản xuất, khai thác, bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ và tiêu hủy hàng hóa,
công việc hoặc dịch vụ, đánh giá sự phù hợp của hàng hóa dịch vụ với các tiêu chuẩn
được ban hành. Tuy nhiên hiện nay Liên bang Nga vẫn áp dụng những tiêu chuẩn cũ.
[10]
Chính phủ Nga không công nhận những tiêu chuẩn quốc tế như hệ thống ISO-
9000. Thay vào đó nhiều sản phẩm nhập khẩu sử dụng ở Nga phải có giấy phép đảm
bảo chất lượng do Ủy Ban Chất Lượng Nhà Nước Nga (Gosstandard) cấp. Gosstandard
kiểm tra và cấp giấy phép sản phẩm theo hệ tiêu chuẩn của Chính phủ Nga. Khi đã
được cấp, giấy phép có giá trị trong 3 năm và phải luôn mang theo cùng với mọi
chuyến hàng. Giấy phép photo được chấp nhận khi chúng có dấu xác nhận của công ty
đang giữ giấy phép gốc. Những người bán lẻ ở Nga bắt buộc phải có giấy phép chất

lượng cho tất cả các sản phẩm nhập khẩu đang được bày bán trong cửa hiệu của họ,
nếu vi phạm sẽ bị phạt một khoản tiền có thể lên tới 10.000 USD. [16]
Yêu cầu chung đối với tất cả các loại hàng hóa: Các hàng hóa được nhập khẩu
và lưu thông trên lãnh thổ Liên Bang Nga cần phải tuân thủ các điều luật của “Luật bảo
vệ người tiêu dùng và giải quyết các quan hệ giữa người mua và người bán trong khi
bán các hàng thực phẩm và phi thực phẩm”. Theo đó người bán hàng cần phải kịp thời
thông báo cho người mua báo cho người mua mọi thông tin chính xác và cần thiết về
hàng hóa và người sản xuất, đảm bảo cho việc lựa chọn hàng chính xác. [10]
Các thông tin bắt buộc về hàng hóa bao gồm: tên hàng, nhãn hiệu hàng hóa, nơi
sản xuất, tên người chịu trách nhiệm đối với hàng hóa ( khi có khiếu kiện, sửa chữa,
bảo hành), nêu rõ tiêu chuẩn mà hàng hóa đó phải đạt được, các thông tin về tính chất
tiêu dùng chung chủ yếu của hàng hóa, các quy định và điều kiện cần thiết để sử dụng
hàng hóa có hiệu quả và an toàn, thời gian và điều kiện bảo hành nếu hàng hóa được
đảm bảo, thời hạn sử dụng cũng như các khuyến cáo về các hậu quả xảy ra nếu hết các
thời hạn trên đối với các hàng hóa mà hết thời hạn sử dụng có thể gây ra các hậu quả
nghiêm trọng với cuộc sống, sức khỏe và tài sản của người mua hàng, hoặc không phù
hợp với ý nghĩa sử dụng của hàng hóa đó, giá cả và cách sử dụng hàng hóa. Các thông
tin trên được thể hiện dưới dạng mác hàng hóa và các giấy chứng nhận phù hợp với
tiêu chuẩn cho phép, bản sao giấy chứng nhận có chứng thực của người cấp, trong các
giấy tờ đi theo hàng hóa thì phải kèm vào mỗi hàng hóa xác nhận hàng hóa đó phù hợp
với các yêu cầu đặt ra ( số các giấy chứng nhận, thời hạn lưu hành, cơ quan cấp giấy
chứng nhận hoặc số đăng ký tờ khai phù hợp với tiêu chuẩn cho phép, thời hạn giấy
phép có hiệu lực). [10]
Các thông tin bắt buộc trên về hàng hóa phải thể hiện trên hàng hóa dưới dạng
bao bì hàng hóa, bao bì thương phẩm, giấy hướng dẫn sử dụng hàng hóa, yêu cầu với
mỗi loại hàng hóa đều được người nhập khẩu nêu rõ đối với nhà xuất khẩu. [10]
Về mặt hàng gỗ nhập khẩu vào Liên Bang Nga, yêu cầu về nhãn mác bao bì
phải theo tiêu chuẩn GOST R 51121-97, cần các kết luận vệ sinh phòng dịch theo các
tiêu chuẩn bảo vệ môi trường : GN2.1.6.1338-03; GH 2.1.6.1339-03; GH 2.3.3.972-00;
SP 2.6.1758-99. Giấy chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn GOST R 19917-93 [10]

.Ngày nay, chứng thư phù hợp GOST R là một loại chứng thư được chấp nhận rộng rãi
nhất ở Nga chứng nhận rằng hàng hóa của bạn đã đáp ứng được những tiêu chuấn an
toàn cần thiết. Vào năm 1993, SGS đã được Gosstandard của Nga ( tên gọi cũ là Cục
Liên Bang về quy định kỹ thuật và hệ thống đo lường ) chỉ định cung cấp dịch vụ cung
cấp chứng thư GOST R.
Đối với sản phẩm nội thất, người tiêu dùng Nga mong muốn gỗ có chất lượng
tốt như khô ráo, chịu lửa, không bị mối mọt, không bị nứt và được làm từ gỗ trưởng
thành trong những cánh rừng được quản lý tốt. Chất lượng sản phẩm đang là một yêu
cầu ngày càng quan trọng . Giờ đây người tiêu dùng Nga quan tâm nhiều đến chất
lượng hơn là giá cả.
II. Vai trò của sản phẩm gỗ trong chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt
Nam
1. Chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam
1.1 Tình hình thế giới
Tình hình thế giới trong những năm tới có nhiều thời cơ đan xen với nhiều thách
thức lớn. Một số xu thế tác động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta
trong giai đoạn 2009 -2020:
Khoa học và công nghệ, đặt biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học
tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thúc
đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu
sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu
hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính phụ thuộc
lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia
ngày càng rộng, văn hóa và bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các
đại dịch…
Đối với nước ta, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới được nâng
cao lên một bước mới gắn với việc thực hiện các cam kết quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải
ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế,
tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.

Châu Á - Thái Bình Dương vẫn là một khu vực phát triển năng động, trong đó
Trung Quốc có vai trò ngày càng lớn. Sau khủng hoảng tài chính – kinh tế, nhiều nước
Asean và Đông Á đang khôi phục đà phát triển với khả năng cạnh tranh mới. Tình hình
đó tạo thuận lợi cho chúng ta trong hợp tác phát triển kinh tế, đồng thời cũng gia tăng
sức ép cả trong và ngoài khu vực. [31]
Năm 2008 vừa qua là năm thị trường gỗ thế giới biến động tương đối phức tạp.
Trong những tháng đầu năm giá gỗ biến động phức tạp tăng giảm không theo quy luật.
Tuy nhiên, trong 6 tháng cuối năm, cũng như các mặt hàng khác do chịu ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, giá gỗ lại giảm mạnh xuống mức thấp nhất
kể từ năm 1991. Cuộc khủng hoảng đã khiến cho nhu cầu đi xuống với giá bất động
sản tại Mỹ sụp đổ và suy thoái kinh tế. [15]
1.2 Chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam
Chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu năm 2009 được quốc hội đề ra là 13%. Theo đó,
kim ngạch xuất khẩu năm 2009 là 70,85 tỷ USD với mục tiêu năm 2009 ổn định sản
xuất kinh doanh và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh. Một chiến lược
phát triển tổng thể các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước trong giai đoạn đầu
Việt Nam gia nhập WTO từ nay đến năm 2020 đã được xác lập, trong đó riêng ngành
chế biến gỗ phải đạt kim ngạch 5,5 tỷ USD. Theo các chuyên gia, với mục tiêu này khi
Việt Nam gia nhập vao WTO điều đó có thể thực hiện được, với điều kiện ngành phải
có những nỗ lực rất lớn, đồng thời phải khắc phục ngay những nhược điểm mà trước
tiên đó là sự tăng trưởng thiếu bền vững và mất cân đối giữa các thành phần doanh
nghiệp
2. Vai trò của việc xuất khẩu sản phẩm gỗ
Ngành chế biến xuất khẩu gỗ đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược
khuyến khích xuất khẩu của Việt nam giai đoạn 2001-2020. Trong những năm gần đây,
sản phẩm gỗ đã trở thành một trong năm mặt hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam. Kim
ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam liên tục tăng cao từ năm 2000 đến nay. Năm
2007, đồ gỗ đứng thứ 5 trong số các mặt hàng xuất khẩu lớn nhất. Liên tục trong 6 năm
qua, đồ gỗ là một trong những nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng nóng, với mức tăng
bình quân từ 28%-40%/năm. Giá trị xuất khẩu đồ gỗ tăng gấp 10 lần, đã đưa mặt hàng

“sinh sau đẻ muộn” của Việt Nam đứng vào hàng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á về
lĩnh vực này trong năm 2007, chỉ sau Indonesia. Sau đây là những đóng góp của ngành
gỗ trong chiến lược phát triển xuất khẩu:
Phát huy những tiềm năng hiện có của ngành chế biến gỗ Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tiềm năng cho ngành gỗ, từ vị trí địa lý
thuận lợi, nguồn lao động dồi dào cho đến nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có
các cảng biển trải dài trên địa bàn cả nước, rất phù hợp cho việc vận chuyển những
container cồng kềnh, chiếm nhiều vị trí như đồ gỗ. Hoạt động sản xuất mặt hàng đồ gỗ
Việt Nam là sự kết hợp khá hoàn hảo những tiềm năng và lợi thế đó. Mặt hàng đồ gỗ
đã đưa dần tên tuổi của thương hiệu Việt ngang tầm với các quốc gia trong cùng khu
vực ASEAN, Châu Á và quốc tế, để có thể gần như được xếp hạng ngang bằng với các
quốc gia mạnh về mặt hàng này như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia…Những tác
động đó giúp Việt Nam trở nên năng động hơn, có những bước tiến mạnh mẽ trong quá
trình hội nhập khu vực và quốc tế, Việc đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị
trường Nga góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ hàng năm của Việt
Nam, gia tăng sản lượng sản xuất, tận dụng được những lợi thế tiềm năng sẵn có, giải
quyết được hàng ngàn lao động trong nước, giúp phát huy tối đa những tiềm năng sẵn
có của Việt Nam.
Góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Ngành gỗ đóng góp một phần không nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Năm 2008 vừa qua , tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam đạt 2,8 tỷ USD,
tăng 16,6 % so với năm 2007, đóng góp 16,8% tổng giá trị xuất khẩu nông sản trong
năm của cả nước,nằm trong top mười sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ và là
một trong 4 mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao nhất.
Nhìn vào biểu đồ phía dưới ta có thể thấy được mặt hàng gỗ chiếm một giá trị
rất lớn trong tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam năm 2008.
Nguồn : Bộ nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Biểu đồ 1.5: Gíá trị xuất khẩu nông sản năm 2008
III. Sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường
Liên Bang Nga trong giai đoạn 2009-2020

1. Điều kiện và tiềm năng sản xuất gỗ của Việt Nam
1.1 Vị trí địa lý
Việt Nam nằm ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, khu vực đang có những
dòng giao lưu kinh tế sôi động nhất thế giới và cũng là trung tâm trung chuyển của các
tuyến giao thông quan trọng. Vì thế, Việt Nam có rất nhiều lợi thế trong giao thương
quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có tiềm năng mạnh về giao thông với bờ biển dài
3444 km, cùng nhiều cảng biển trải dài từ Bắc đền Nam là những cửa ngõ giao lưu
kinh tế thuận lợi. Đồng thời do điều kiện vị trí địa lý , Việt Nam dễ dàng tiếp cận được
nguồn nguyên liệu dồi dào các quốc gia tiếp giáp như Trung Quốc, Lào, Campuchia,
và nằm gần những quốc gia cung cấp nguồn nguyên liệu gỗ hàng đầu thế giới như
Indonesia, Malaysia.
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới và một phần ôn đới ở
khu vực núi cao. Đất nước lại chạy dài theo nhiều vĩ độ, hình thành nên nhiều vùng
sinh thái khác nhau. Đặc điểm khí hậu này tạo sự đa dạng, phong phú cho rừng Việt
Nam nói chung và về các chủng loại gỗ nói riêng, đồng thời cho phép tổ chức các hoạt
động khai thác, chế biến quanh năm.
Những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý của Việt Nam đã tạo cho nước ta một
môi trường kinh tế năng động, linh hoạt, giảm được chi phí vận chuyển, mở rộng được
thị trường xuất khẩu hàng hóa và các hoạt động dịch vụ khác.
1.2 Nguồn nguyên liệu
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, diện tích rừng Việt
Nam hiện có là 10,916 triệu ha, trong đó diện tích rừng tự nhiên là 9,44 triệu ha, diện
tích rừng trồng lá 1,47 triệu ha, trữ lượng là 720,9 triệu m3 gỗ, độ che phủ là 33,2%.
Để bảo vệ rừng và giới hạn khai thác gỗ từ những rừng tự nhiên tại địa phương chỉ
khoảng 300.000m3 mỗi năm trong giai đoạn 2000 đến 2010, chủ yếu để phục vụ cho
nhu cầu xây dựng, sản xuất đồ gỗ trong nước (250.000 m3) và sản xuất hàng thủ công
mỹ nghệ xuất khẩu (50.000 m3). Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng đang
triển khai chương trình trồng mới khoảng 5 triệu ha rừng và cho đến năm 2010 Việt
Nam sẽ có thêm 2 triệu ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và 3 triệu ha rừng sản xuất.
Mặc dù trữ lượng gỗ Việt Nam đã bị giảm đi rất nhiều vì những lý do như tình

trạng khai thác rừng bừa bãi, tập quán di canh, di cư của một bộ phận dân tộc thiểu số,
nạn cháy rừng…nhưng rừng Việt Nam vẫn còn nhiều loại gỗ quý có giá trị cao để sản
xuất những sản phẩm được thế giới ưa chuộng. Hơn nữa, Việt Nam có đất, môi trường,
khí hậu nhiệt đới thích hợp cho việc trồng rừng và khôi phục rừng. Nhà nước cũng đã
thực thi nhiều biện pháp cứng rắn nhằm ngăn chặn tình trạng phá rừng bừa bãi, cùng
nhân dân khôi phục và bảo vệ nguồn tài nguyên của đất nước.
1.3 Nguồn lao động
Một trong những ưu điểm nổi bật khiến các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào
và là lợi thế của Việt Nam chính là nguồn nhân lực khá dồi dào, giá nhân công rẻ, đội
ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, chịu khó học hỏi.

×