Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

sự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi trong giai đoạn 1945 1975 (tiểu luận)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.61 KB, 18 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tiểu luận này là một phần kết quả của quá trình học tập, nghiên
cứu chuyên đề “Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975” dưới sự
dẫn dắt và truyền đạt nhiệt tình, nghiêm túc và khoa học của thầy phụ
trách Chuyên đề, Phó giáo sư - Tiến sỹ Trần Hữu Tá.
Trong điều kiện hiện tại của bản thân, mặc dù đã có nhiều cố
gắng trong việc tìm hiểu, nghiên cứu để thực hiện bài viết một cách
tốt nhất nhưng do nhiều nguyên nhân, chủ quan cũng như khách
quan, bài viết chắc chắn sẽ cịn nhiều thiếu sót, bất cập, cần có sự chỉ
giáo quý báu của thầy; sự phê bình, đóng góp ý kiến với thiện ý xây
dựng của đồng môn, đồng nghiệp và người đọc. Khi ấy, người viết sẽ
cố gắng thể hiện tốt hơn và hy vọng bài viết sẽ hoàn chỉnh hơn.
Nhưng trước hết, người viết xin trân trọng và chân thành tri ân
những điều dạy bảo và chỉ dẫn của Phó giáo sư – Tiến sỹ Trần Hữu
Tá, một người thầy mẫu mực trong nhân cách; tận tâm trong giảng
dạy và nghiêm túc, khách quan trong khoa học! Nhân đây, người viết
cũng xin vô cùng cảm ơn các đồng môn, đồng nghiệp đã giúp đỡ, góp
ý để bài viết được hồn thành!
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2014
Người thực hiện
Nguyễn Thanh Tùng


2

MỤC LỤC
I/PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………..Trang 2
1. Lý do chọn đề tài……………………………………..Trang 2
2. Phương pháp nghiên cứu……………………………Trang 4
3. Kết cấu bài viết………………………………………Trang 5
II/ PHẦN NỘI DUNG………………………………………..Trang 5


1. Vài nét về Nguyễn Đình Thi………………………..Trang 5
2. Sự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi về mặt nội dung:

…………………………………………………………..Trang 6
3. Đổi mới về mặt nghệ thuật của thơ Nguyễn Đình Thi
……………………..…………………………………….Trang 11
III/ PHẦN KẾT LUẬN……………………………………….Trang 16


3

I/ PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập, tự do cho dân tộc. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ của
những kẻ mất nước đã đứng lên trở thành người làm chủ, tự quyết định vận
mệnh của mình. Tuy nhiên cơng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và thống
nhất đất nước vẫn cịn là một hành trình dài, đầy hy sinh gian khổ. Cùng với
tiến trình lịch sử của dân tộc, văn học cũng khép lại một chặng đường, chặng
đường hiện đại hóa, và mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây
dựng xã hội chủ nghĩa. Nền văn học cách mạng ra đời. Đó là một nền văn học
cần thống nhất được thiên hướng sáng tạo của cá nhân với yêu cầu của nhân
dân và thời đại. Chính vì vậy, văn học giai đoạn này(ở đây chỉ nói riêng đối
với bộ phận văn học cách mạng) mang những đặc điểm riêng, khác với văn
học giai đoạn trước. Đó là nền văn học phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng,
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành một bộ phận của sự nghiệp
cách mạng, khơng có sự phân hóa thành nhiều khuynh hướng, trường phái
như trước năm 1945. Trong nền văn học giai đoạn này, các tác giả có thể có
tiếng nói riêng nhưng ở họ đều chung một con đường, một tư tưởng, một

nhiệm vụ: Nhà văn chiến sỹ. Họ bám sát thực tiễn cách mạng, bám sát vận
động xã hội, phản ánh kịp thời những vấn đề quan trọng, lớn lao của đất nước.


4

Trong suốt chặng đường 30 năm phát triển, bỏ qua những hạn chế mà
bất kỳ nền văn học nào ít nhiều cũng đều mắc phải, văn học cách mạng đã đạt
được những thành tựu lớn, thể hiện ở tất cả các thể loại, đóng góp đáng kể
vào sự phát triển chung của văn học dân tộc. Một trong những lĩnh vực văn
học đạt được nhiều thành tựu lớn, thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ là thơ ca với
sự đóng góp tài năng, tâm huyết của nhiều nghệ sỹ thuộc nhiều thế hệ như Tố
Hữu, Chế Lan Viên, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Dần, Nguyễn
Mỹ, Lê Anh Xuân, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật…Sự đổi mới của thơ ca
trong giai đoạn này thể hiện cả về mặt nội dung lẫn hình thức. Một trong
những tên tuổi góp phần tích cực cho sự tìm tịi và đổi mới của thơ ca giai
đoạn này Nguyễn Đình Thi.
Nguyễn Đình Thi thuộc kiểu nghệ sĩ đa tài, ông vừa là nhạc sĩ với
những ca khúc bất hủ, vừa là nhà văn với những sáng tác trải ra trên các lĩnh
vực: thơ, văn xuôi, kịch, tiểu luận phê bình...Song thơ là cái mà ơng thiết tha
nhất, dụng cơng nhiều nhất trong việc tìm tịi đổi mới, như chính ơng từng
phát biểu : “Thơ là cái thiết tha nhất của tơi, và cái tìm tịi rất khổ của tơi”.
Thơ của nguyễn Đình Thi thời kì đầu kháng chiến đã đem lại cho thơ ca Cách
mạng một âm hưởng mới với những cách tân đầy táo bạo.
Nguyễn Đình Thi ln trăn trở và dành nhiều tâm huyết nhất cho sự tìm
tịi một hướng sáng tạo nhằm đổi mới diện mạo thơ ca. Nhờ tài năng và bản
lĩnh sáng tạo, Nguyễn Đình Thi đã tạo ra một phong cách thơ riêng, độc đáo
và hiện đại. Thơ ông dạt dào cảm hứng yêu thương sâu lắng về đất nước “vất
vả, gian nan, tươi thắm vô ngần”. Đất nước đau thương và quật khởi, con
người vất vả và anh hùng là chủ đề quán xuyến trong thơ Nguyễn Đình Thi.

Với tình cảm gắn bó tha thiết với đất Việt yêu thương, với niềm tự hào về
truyền thống vẻ vang của dân tộc, Nguyễn Đình Thi đã cho ra đời những bài
thơ bất hủ như “Đất nước”, “Nhớ”, “Bài thơ Hắc Hải”, “Lá đỏ”… Những


5

câu thơ tha thiết lắng đọng giàu chất triết lý chiêm nghiệm về sự kỳ diệu của
sự sống, của tình yêu, của sức mạnh tiềm ẩn trong con người Việt Nam hiền
lành, đơn hậu. Thơ Nguyễn Đình Thi hàm súc và giản dị, đằng sau từng lời
thơ đều như có dư ba, đều có khả năng gợi khơng khí, gợi hình ảnh và tâm
trạng. Câu thơ của ơng phóng khống tự do, khơng câu nệ vần, thậm chí
khơng vần nhưng vẫn giàu nhạc điệu. Mỗi bài thơ đều có chất nhạc riêng
khơng lẫn được. Chính những nỗ lực đổi mới thơ ca, chính những tìm tịi thể
nghiệm táo bạo của Nguyễn Đình Thi đã khiến thơ ơng trở thành đề tài gây
tranh luận ngay từ năm 1949. Trong suốt một thời gian dài sau đó, ơng vẫn cơ
đơn, âm thầm một mình bước lặng lẽ trên con đường thơ mà ông đã lựa chọn.
Không ít những lời gièm pha, không ít những lời kỳ thị của đồng nghiệp
nhưng ông vẫn tin tưởng, vẫn kiên trì một lối đi riêng bởi đó là "niềm tha thiết
nhất" của ơng. Và thời gian chính là sự khẳng định rõ ràng nhất cho chân lý
của cuộc sống. Thực tế phát triển của thơ ca tiếng Việt Nam đã chứng minh
những cách tân của ông về thơ ca là hoàn toàn đúng đắn và hợp quy luật. Thế
hệ các nhà thơ trẻ Việt Nam hiện nay đã và đang kế thừa và phát huy những
thành tựu cũng như những hướng tìm tịi của ơng.
Qua nghiên cứu học tập chuyên đề “Văn học Việt Nam giai đoạn 1945
– 1975”, dưới sự dạy bảo tận tình của Phó giáo sư – Tiến sỹ Trần Hữu Tá,
người viết xin mạo muội nêu lên những ý kiến thiển cận của mình về sự đổi
mới của thơ Nguyễn Đình Thi trong giai đoạn 1945 - 1975 như là một bài tự
kiểm tra kiến thức sau khi tiếp nhận chuyên đề.


2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thực hiện bài viết này, người viết chủ yếu vận dụng các phương pháp,
thao tác chủ yếu sau đây:


6

- Phân tích
- tổng hợp
3/ KẾT CẤU BÀI VIẾT
Bài viết gồm ba phần chính:
- Phần mở đầu trình bày lý do mà người viết chọn đề tài thể hiện;
phương pháp thực hiện và kết cấu bài viết;
- Phần thứ hai là nội dung chính mà người nghiên cứu Chuyên đề cần
trao đổi, gồm các vấn đề:
1. Vài nét về nhà thơ Nguyễn Đình Thi
2. Sự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi về mặt nội dung
3. Sự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi về mặt nghệ thuật
- Phần kết luận

II. PHẦN NỘI DUNG: SỰ ĐỔI MỚI CỦA THƠ NGUYỄN
ĐÌNH THI TRONG GIAI ĐOẠN 1945 - 1975
1/ VÀI NÉT VỀ NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI
Nguyễn Đình Thi q ở Hà Nội nhưng sinh ở Luang Prabang (Lào).
Đến năm tuổi, Nguyễn Đình Thi theo bố mẹ trở về nước và đi học ở Hà Nội
rồi Hải Phịng. Từ nhỏ, Nguyễn Đình Thi đã nổi tiếng thông minh, học rất
giỏi tất cả các môn, đặc biệt là môn Triết. Đang đi học mà ông đã viết sách
triết học như “Triết học nhập môn” (1942), “Triết học Căng” (1942), “Triết
học Nit-xơ” (1942), “Triết học Anh-xtanh” (1942), “Siêu hình học” (1942) và
cùng một số người bạn học bí mật nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Sau khi tốt

nghiệp Tú tài, ông học Luật ở Đại học Đông Dương và trở thành một trong


7

những cán bộ chủ chốt của Hội Văn hoá Cứu quốc. Là trí thức u nước,
Nguyễn Đình Thi đã sớm trở thành người chiến sĩ cách mạng trung kiên. Ông
đã từng là đại diện của Việt Minh trong Đảng Dân chủ. Hai lần bị kẻ thù bắt
bớ, tra tấn, mua chuộc nhưng ơng vẫn một lịng thuỷ chung với Cách mạng.
Tháng 7.1945, Nguyễn Đình Thi được đi dự Quốc dân Đại hội tại Tân Trào
và được cử vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam. Từ đó cho đến cuối
đời, Nguyễn Đình Thi liên tục đảm nhận những cương vị quan trọng trong
lĩnh vực văn học, nghệ thuật: Tổng thư ký Hội Văn nghệ, Tổng thư ký Hội
Nhà văn, Chủ tịch Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật
Việt Nam.
Nguyễn Đình Thi là người hoạt động chính trị, đã từng là sĩ quan quân
đội, nhưng nhắc đến ông là mọi người nghĩ đến một nghệ sĩ đa tài. Ông sáng
tác nhạc, làm thơ, viết tiểu thuyết, kịch, tiểu luận phê bình. Ở lĩnh vực nào
ơng cũng có những đóng góp đáng trân trọng.
2/ SỰ ĐỔI MỚI CỦA THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI VỀ MẶT NỘI
DUNG
2.1/ Đổi mới về đề tài
Thế giới Thơ Mới bị giới hạn trong cái “tơi”, ít gắn bó với những vấn
đề cơ bản của đời sống cần lao. Đến thơ Cách mạng, mà Nguyễn Đình Thi là
một trong những cây bút đi đầu, thế giới thơ mở ra thực tại rộng lớn hơn. Nhà
thơ hướng tới đời sống thực tại phong phú, sống động. Thơ Nguyễn Đình Thi
ghi lại một cách tươi mới, tự nhiên hiện thực sinh động của sự sống đang lên.
Thực tế Cách mạng đã “thổi lửa” vào tâm hồn nhà thơ, giúp ơng tìm được
cho mình “ngọn nguồn phong phú nhất”, “muôn màu muôn vẻ”, để “tiếp sức
sống tươi trẻ cho nghệ thuật, tạo ra giá trị tinh thần cho loài người”.



8

2.2/ Cảm hứng mới :
Nguyễn Đình Thi quan niệm: “Thơ phải có tư tưởng , phải có ý thức”,
thơ phải nói lên được những tư tưởng mới của thời đại. Tư tưởng trong thơ,
theo Nguyễn Đình Thi, là tư tưởng gắn liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống.
Mà đời sống ở đây không được hiểu là những hoạt động mưu sinh của sự sinh
tồn mà là sự sống của tâm hồn, là “trạng thái tâm lý đang rung chuyển mạnh
mẽ khác thường”. Ơng khẳng định: “Thơ là tiếng nó iđầu tiên, tiếng nói thứ
nhất của tâm hồn khi đua, chạm với cuộc sống. Toé lên ở nơi giao nhau giữa
tâm hồn với ngoại vật, trước hết là những cảm xúc” và “và đem cảm xúc mà
đi thẳng vào sự suy nghĩ”. Trong bối cảnh những năm đầu kháng chiến chống
Pháp, cảm hứng chủ đạo của thơ Nguyễn Đình Thi là cảm hứng về đất nước
trong chiến tranh.
Tình yêu quê hương đất nước là một đề tài lớn trong thơ ca Cách Mạng
nói chung, thơ kháng chiến chống Pháp nói riêng. Nhưng với mỗi nhà văn đất
nước hiện lên với một gương mặt riêng. Với cảm hứng hiện thực kết hợp lãng
mạn bay bổng, đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Đình Thi hiện lên như
một thể thống nhất với sự chuyển hóa của hai đối cực: “vất vả đau thương”
nhưng “tươi thắm vơ ngần”.
Bằng những hình ảnh thơ đầy sức ám gợi, Nguyễn Đình Thi đã để lại
trong lịng người đọc những ấn tượng không thể quên về một đất nước đau
thương trước sự giày xéo của quân thù:
“Bức tường đầy vết đạn
Ơm bóng tối đổ nghiêng...
Hà Nội nát người trong gai sắt
Máu chảy hồng tươi bất khuất”
(Hà Nôi đêm nay)



9

“Cây cháy rũ vàng
Mặt em trắng tốt"
(Em bé gái)
“Ơi q hương ta đau xót
Đói gầy mắt nhìn thiêu đốt”
(Lúa)
Nhưng tâm điểm trong cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi
không phải ở nỗi vất vả, đau thương. Nhà thơ dường như dồn hết tâm sức của
mình để khắc họa một đất nước tươi thắm vô ngần, dù cho bom đạn kẻ thù
giày xéo... Đây là điều kì diệu của dân tộc Việt Nam, là điều kì diệu trong
những sáng tác của Nguyễn Đình Thi. Viết về đất nước đau thương nhưng
những câu thơ của ông không hề bi thương, người đọc ln nhận thấy một
cảm hứng vượt thốt, vượt thoát lên trên nỗi đau để khẳng định sức mạnh, sức
sống quật cường bất khuất của dân tộc mình: “Hà Nội nát người trong gai
sắt”, “máu chảy” nhưng là “hồng tươi bất khuất”, bức tường đầy vết đạn của
kẻ thù nhưng vẫn “cố vươn mình thẳng lên”, một dân tộc “chìm trong máu
chảy” nhưng vẫn đủ sức mạnh để “vùng đứng lên, đạp quân thù xuống đất
đen”...Nguồn sống diệu kì ấy được tạo nên bởi những con người biết sống,
chiến đấu và hi sinh cho lẽ phải. Đó là những con người :
“Vì Tổ quốc anh hi sinh lặng lẽ
Trên mơi lưu luyến nụ cười”
(Người tử sĩ)
Là đồng chí:
"Chiều qua đồn trúng đạn
Giữa vườn lê anh nhắm mắt thản nhiên
An Châu mấy anh khơng về nữa

Nụ cuời cịn tươi ngun”


10

(Bài thơ viết cạnh đồn Tây)
Đọng lại trong tâm trí người đọc là nụ cười, nụ cười của những người
đã ngã xuống, của những người đang sống, nụ cười mang “niềm hi vọng xóa
thương đau”, nụ cười của ngày trở về, ngày chiến thắng:
"Bóng cờ bát ngát ngày vui, nước non reo cười, trên môi người cười
Tiếng cười
Ngày về”
(Người Hà Nội)
Cảm hứng chính trong những tác phẩm thời kì đầu kháng chiến của
Nguyễn Đình Thi là cảm hứng về đất nước trong cuộc trường chinh vĩ đại của
dân tộc nhưng khơng phải ơng khơng có những trầm tư về vị thế của con
người cá nhân trong cuộc trường chinh ấy. Cảm hứng về hạnh phúc cá nhân
trong cuộc đổi thay lớn của dân tộc tạo nên cho thơ Nguyễn Đình Thi giai
đoạn này nét riêng độc đáo mà nhiều nhà thơ sau này như Thanh Thảo, Hữu
Thỉnh… đã nối tiếp cảm hứng ấy.
Thơ Mới là tiếng thơ của cái tôi cá nhân có phần tích cực, có ý nghĩa
nhân bản, nhưng khơng ít trường hợp là cái tơi cơ đơn, buồn chán tìm kiếm sự
thốt li, hưởng lạc. Cuộc Cách mạng tháng tám thắng lợi mở ra một thời đại
mới, thời đại của cái ta, thơ văn ít nói đến cái tơi cá nhân, ít nói đến nỗi buồn,
tình u... Nhà phê bình Hồi Thanh cũng đã có nói: “Đời sống cá nhân
khơng có nghĩa gì trong đời sống bao la của tồn thể”...Nhưng Nguyễn Đình
Thi vẫn viết về tình yêu lứa đôi, và không thể phủ nhận rằng ông cũng có
những bài thơ tình đích thực. Cảm hứng về hạnh phúc, cá nhân trong thơ ơng
có những nét riêng đột phá. Tình u trong thơ ơng là những mối tình nảy nở
trong cuộc vạn lí trường chinh đầy bão tố của dân tộc. Những người chiến sĩ

nguyện hi sinh cho hạnh phúc của nhân dân của cộng đồng nhưng cũng có


11

hạnh phúc của riêng mình. Họ tự nguyện gác tình riêng để chiến đấu bởi họ
biết xa nhau chỉ là tạm thời, xa nhau để mong có ngày gặp lại:
"Đơi người yêu xa cách lại xa nhau
Yêu nhau nên họ xa nhau"
(Chuyện hai người yêu xa cách)
"Anh muốn em sung sướng suốt đời
Xa nhau hẹn ngày gặp lại”
(Chia tay)
Khi kẻ thù cịn giày xéo đất nước này thì mỗi cá nhân khơng thể có
tình u trọn vẹn. Vì thế tình u ln đồng hành cùng lí tưởng. Các nhà thơ
Cách mạng thường né tránh chuyện tình yêu, nhớ nhung vì sợ nỗi nhớ bi lụy
sẽ làm nhụt ý chí, cịn Nguyễn Đình Thi dám nói lên những cảm xúc rất thật
của lịng mình. Dưới ánh đèn khơng ngủ, bóng dáng người yêu lại hiện lên
nguyên vẹn với “cái miệng hay cười”, “đôi mắt em hay nghĩ ngợi”, tưởng như
“Thấy em bước vội / Tới tìm anh qua đêm lạnh xa xơi”...Nhưng cái miệng
hay cười của em là cái miệng “nói chuyện những ngày mai sẽ tới”, tiếng thì
thầm của em là tiếng “Thì thầm em nói em u q / Các anh vất vả vì giống
nịi”(Bài thơ viết cạnh đồn Tây). Tình yêu của em như ngọn lửa như ánh sao
chiếu rọi tim anh, chiếu rọi những chặng đường chiến đấu đầy gian lao phía
trước:
"Anh mang em như ngọn đèn chiếu rọi
Như trái tim anh đập khơng ngừng...
Đời anh có em như ngày có nắng
Yêu em anh yêu cả mọi người”
(Chia tay)

Lần đầu tiên trong thơ kháng chiến, cảm hứng về tình u hịa quyện
với cảm hứng về Tổ quốc. Nguyễn Đình Thi đã dung hịa được cá nhân và tập


12

thể, cá nhân với cộng đồng, cái chung với cái riêng.Tình u trong thơ
Nguyễn Đình Thi khơng não nùng như những bài thơ tình trong Thơ Mới,
tình yêu trong thơ ông hòa quyện những phẩm chất mới, hiện đại của tình yêu
thế hệ trẻ trong thời đại mới. Tình yêu em, tình u đơi lứa ln đồng hành
cùng tình u Tổ quốc dân tộc. Chính sự kết hợp hài hịa khơng gượng ép này
khiến cho ơng có những bài thơ tình đích thực.
3/ SỰ ĐỔI MỚI CỦA THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI VỀ MẶT NGHỆ
THUẬT
Thơ Mới ra đời là một cuộc cách mạng trong thơ ca. Về mặt hình thức,
Thơ Mới đã phá vỡ nhiều khuôn khổ ràng buộc với những quy phạm chặt chẽ,
tạo ra những khả năng mới và rộng rãi cho thơ trong việc phám phá và biểu
hiện đời sống, đặc biệt là đời sống nội tâm của cái tôi cá nhân cá thể. Tuy
nhiên xu hướng tự do hóa cho hình thức thơ ấy chỉ đi được những bước khởi
đầu. Thơ Mới nhanh chóng tìm đến những hình thức thể loại khá ổn định theo
con đường “từ xung khắc đến hịa giải với truyền thống” (Trần Đình Hượu).
Sứ mệnh cách tân thơ theo hướng tự do hóa được chuyển sang tay các nhà thơ
Cách mạng mà Nguyễn Đình Thi được xem là một trong những người “chủ
xướng”. “Thơ Nguyễn Đình Thi đã tạo ra một điệu mới như tiếng sóng reo
trong lặng lẽ, tấu lên một thứ nhạc mới - trong lặng mà rung ngân...” (Chu
Văn Sơn ). Những cách tân táo bạo của ông đã đem đến cho thơ ca Cách
mạng một diện mạo mới đến mức có nhà nghiên cứu đã so sánh nếu “Nguyễn
Đình Thi cứ dám là mình, cứ dám đi cho thật hết cái lẽ phải của thơ theo
quan niệm của mình”, khơng tìm cách dung hịa giữa cách tân và truyền
thống trước sự phản ứng gay gắt của một số nhà thơ và độc giả đương thời thì



13

“rất có thể ơng đã có vai trị như Xn Diệu với phong trào Thơ Mới”(Chu
Văn Sơn).
So với các thi sĩ trong phong trào Thơ Mới, các nhà thơ thuộc giai đoạn
văn học Cách mạng nói chung và thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng đã
đem đến cho thơ ca những cách tân đáng kể về mặt thi liệu, ngơn ngữ thơ,
giọng điệu, thể thơ... Đóng góp nổi bật nhất của Nguyễn Đình Thi trong việc
hiện đại hóa hình thức thơ ca giai đoạn đầu kháng chiến là sự đổi mới về thể
thơ và ngôn ngữ thơ.
3.1/ Đổi mới về ngôn ngữ thơ:
Nếu như các nhà Thơ Mới và một số nhà thơ Cách Mạng sau này có xu
hướng mĩ lệ hóa từ ngữ thì Nguyễn Đình Thi chủ yếu để hiện hình lên trang
giấy những từ ngữ thuần Việt, mộc mạc, tự nhiên. Trong thơ ông xuất hiện
đậm đặc các từ thuần Việt, các tính từ, các từ láy để “Mỗi tiếng mỗi chữ
ngồi cơng dụng gọi tên sự vật bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến chung
quanh nó những cảm xúc những hình ảnh khơng ngờ, tỏa ra xung quanh nó
một vùng ánh sáng động đậy”:
Quanh co, chen nhau rộn ràng Đồng Xuân
Xanh tươi bát ngát Tây Hồ
Hàng Đào ríu rít Hàng Đường Hàng Bạc, Hàng Gai...
(Người Hà Nội)
Rừng cây rung gió say sưa
Ngàn sao nghiêng mình chào vẫy
Bãi cát thắp lên từng dịng đuốc lửa
Đị bơi tíu tít qua sơng...
(Đêm sao)



14

Với ngơn ngữ thơ giản dị nhưng Nguyễn Đình Thi vẫn gọi về cho thơ
mình những hình ảnh thơ độc đáo. Ơng rất coi trọng hình ảnh trong thơ. Theo
ơng, “Người làm thơ phải để cho hình ảnh tự nói lên tình ý”. Nguyễn Đình
Thi đã kiến tạo cho thơ mình hệ thống hình ảnh vừa lạ vừa quen, có những
hình ảnh chưa thấy trong thơ ai bao giờ:
"Những lề đường mòn cũ
Quặn nhớ chân người...
Đêm nay trời sao trắng bạch
Cháy trùm những mái nhà đang khóc"
Những con đường, những mái nhà thân quen gắn bó bao đời với mỗi
chúng ta buớc vào thơ Nguyễn Đình Thi như mang một bóng dáng khác. Đó
khơng phải là những vật vơ tri, ngàn đời nằm im lìm dưới bước chân người
qua lại nữa mà nó cũng như có linh hồn, biết nhớ nhung biết khóc...
Hình ảnh trong thơ Nguyễn Đình Thi khỏe khoắn, gân guốc, chất phác tự
nhiên nhưng cũng không kém phần tinh tế, uyển chuyển. Lắng lại trong
những tiếng ầm ầm của bom đạn, của gót giầy quân thù, bật lên trên nền đen
tối của bóng đêm, của “miệng súng đen sì tua tủa” là:
"Ngang đồi một tia vàng bay vút
Một vàng sao sáng ngời muôn vầng sao
Tung lên như hoa lửa
Như bụi ngọc ngập trời
Rơi rơi trên đầu trên cổ
Trên ngón tay
Triệu triệu sao"
(Hà nội đêm nay)



15

Bom đạn của kẻ thù không thể giết được “trời đầy chim và đất đầy
hoa”, vẫn neo đậu trong thơ ơng những hình ảnh nên thơ trên cái nền chết
chóc mà quân thù đã gieo rắc trên đất nước này:
Cầu tre bắc gióng cao
Nghiêng nghiêng soi bóng suối
Bướm trắng đuổi chân người
(Mưa xuân)
3.2/ Đổi mới về giọng điệu thơ:
Nguyễn Đình Thi là một trong những người đầu tiên khởi xướng kiểu
thơ không vần. Trong khi một số nhà văn, nhà thơ khác quan niệm: “Thơ
phải có vần, thơ khơng có vần không gọi là thơ”(Ngô Tất Tố), “Vần là cái xe
chở hồn của bài thơ”(Hồng Cầm), “Dùng vần có mệt nhọc gì đâu, khơng
dùng vần tức là lập dị” (Xn Diệu), thì Nguyễn Đình Thi tuy khơng phủ
nhận vai trị của vần “vần là một khí giới rất mạnh trong thơ” nhưng cũng
kiên định ý kiến của mình: “khơng phải hết vần là hết thơ...Khơng phải hễ
thiếu võ khí này thì trận đánh nhất định thua, thiếu võ khí ấy trận đánh gay
go hơn nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng”, “Khi làm thơ, thái độ
của người làm thơ là ghi lại cảm xúc. Nếu cảm xúc gặp vần thì hay. Nhưng
gặp khi gị bó hãy vượt lên nó đã. Hình thức nghệ thuật phải tự thân nó ra”.
Với quan niệm như vậy, Nguyễn Đình Thi đã tiến hành một cuộc thí nghiệm
táo bạo, nhưng khơng cực đoan, về loại thơ khơng có vần. Nghĩa là ơng muốn
giải phóng thơ ra khỏi sự cầm tù của vần, sự trói buộc của luật lệ hà khắc.
Tuy khơng coi trọng vần nhưng ông lại đặc biệt chú trọng nhịp điệu
trong thơ.Theo Nguyễn Đình Thi, nhịp điệu là hình thức đích thực của thơ,
nhưng có điều nhịp điệu ấy khơng phải là nhịp điệu bằng trắc thông thường
mà là thứ nhạc bên trong, "nhạc của tâm hồn”. Nó là sự hồ điệu giữa tình, ý,



16

hình và sự âm vang của lời và tiếng, chứ khơng phải là sự phân chia về
phương diện tuyến tính của ngữ âm. Ơng nói :“Thơ có một thứ nhạc nữa,
một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh tình ý, nói chung
là của tâm hồn (…)Đó là nhịp hình thành của những cảm xúc, hình ảnh liên
tiếp hoà hợp mà những tiếng và chữ gợi ra những ngân vang dài, ngay những
khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo
của sự xúc động”.
Với quan niệm như vậy, nhịp điệu trong thơ Nguyễn Đình Thi là nhịp
điệu của của cuộc sống. Khi tâm hồn vui phơi phới âm thanh thường vang lên
ở cung bậc cao:
"Gió thổi rừng tre phấp phới
Trong biếc nói cười thiết tha"
(Đất nước)
Khi cảm xúc tầm buồn sâu lắng thơ ơng tự tìm cho mình những thanh
trầm buồn:
"Tây Bắc rung mình nhớ người lính trẻ
Sơng Đà gầm mãi không nguôi"
(Người tử sĩ)
Mỗi bài thơ của Nguyễn Đình Thi như những khúc nhạc, mỗi khúc
nhạc mang một âm hưởng, một giai điệu riêng: khi thì nhưu tiếng dội trầm
sâu của lịch sử vọng về “Đất nước”, khi thì mang âm hưởng hùng tráng
(Nguời Hà Nội), khi thì là một nét buồn mênh mang (Khơng nói). Nếu như
những bài thơ lục bát của Tố Hữu dễ đi vào lịng người bởi cách hiệp vần dễ
thuộc dễ nhớ thì sở dĩ những vần thơ có vẻ trúc trắc khó đọc của Nguyễn
Đình Thi có thể lưu lại trong tâm hồn người đọc bởi tính nhạc truyền cảm ấy.
Làm nên tính nhạc cho thơ ơng, bên cạnh tiếng nhạc lịng tuôn trải trên
trang giấy không thể không kể đến vai trị của các thể thơ được ơng sử dụng



17

một cách nhuần nhuyễn và linh hoạt. Hầu như bài thơ nào cũng được ông sử
dụng phối hợp đan xen nhiều thể thơ. Những câu thơ dài ngắn khác nhau phụ
thuộc vào cảm xúc: nỗi đau uất nghẹn trước hành động bạo tàn của quân thù
khiến câu thơ như bị bẻ gãy:
"Ngoài phố ầm ầm lũ cướp
Bắt
Khám
Chăng dây
Miệng súng đen sì tua tủa”
(Đêm sao)
Cịn trong niềm vui sướng hân hoan câu thơ như kéo dài vô tận:
"Bụi hè đường cuốc bốc tung bay xác thù rơi dưới gót giầy
Ầm ầm cười tiếng súng vui thay, trông ngày mai sáng láng...”

III. PHẦN KẾT LUẬN
Những cách tân táo bạo của Nguyễn Đình Thi cả về nội dung lẫn hình
thức nghệ thuật, như đã nói một cách rất khái qt ở trên, khơng chỉ góp phần
tạo nên một diện mạo mới cho thơ ca giai đo ạn 1945 – 1975 mà còn tạo nên
một bước đà, tạo nền tảng cho sự cách tân thơ trong giai đoạn tiếp theo ở thế
hệ những nhà thơ trẻ sau này...
Trong khuôn khổ khiêm tốn của một bài thực hành, cộng với áp lực về
thời gian và chương trình học, bài viết chắc chắn có nhiều bất cập . Kính
mong sự chỉ dạy tận tình của thầy hướng dẫn chuyên đề và sự thể tất của
người đọc.


18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. P.Gs – Ts Trần Hữu Tá - Bài giảng Chuyên đề “Văn học Việt Nam
giai đoạn 1945 – 1975.
2. Vũ Duy Thông - Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 –
1975, NXB giáo dục, 2001.
3. Chu Văn Sơn - Nguyễn Đình Thi và một hướng tìm tịi của thơ hiện
đại, 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng 8, NXB Đại học quốc
gia, Hà Nội, 1996.
4. Vương Trí Nhàn - Số phận những tìm tịi hình thức trong thơ Việt
Nam sau 1945, 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạngTháng 8, NXB Đại
học quốc gia, Hà Nội, 1996.
4. Vương Trí Nhàn - Số phận những tìm tịi hình thức trong thơ Việt
Nam sau 1945, 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạngTháng 8, NXB Đại
học quốc gia, Hà Nội, 1996.
4. Vương Trí Nhàn - Số phận những tìm tịi hình thức trong thơ Việt
Nam sau 1945, 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạngTháng 8, NXB Đại
học quốc gia, Hà Nội, 1996.



×