1
.
- -
.
"
:
2
.
.
o .
o
09/2006.
o
.
.
:
.
.
.
3
Chương 1
.
- -
(nhưng
.
.
, ha
.
.
.
4
1.1
(a) (b)
.
.
1.2
(a) (b)
tăng
0
tăng
0
tăng
0
tăng
0
5
.
.
.
.
:
S
o
S
t
N
c
N
p
N
s
c
, N
p
, N
s
:
6
N
c
, N
p
, N
s
.
:
= N
s
(S
t
- S
o
) (1.1)
s
>0
sau: = N
c
[Max(0, S
t
- X) - C] (1.2)
c
<0
- S
t
< X
(N
c
C)
- S
t
> X
.
:
= N
s
(S
t
- S
o
) + N
c
[Max(0, S
t
- X) - C]
7
s
), N
c s
=-N
c
:
= S
t
- S
o
-
Max(0, S
t
- X) + C (1.3)
- S
t
< X
: = S
t
- S
o
+ C
- S
t
> X
: = S
t
- S
o
-
S
t
+ X + C = X - S
o
+ C.
.
V
:
= N
p
[Max(0, X - S
t
) - P] (1.4)
p
>0
- S
t
> X
(N
p
P)
- S
t
< X
y
(N
p
[(X - S
t
) - P]. ,
S
t
= X-P.
8
(1.1) + (1.4) như sau:
= N
s
(S
t
- S
o
) + N
p
[Max(0, X - S
t
) - P]
s
), N
p s
=N
p
: = S
t
- S
o
+ Max(0, X - S
t
) - P (1.5)
- S
t
> X
: = S
t
- S
o
- P
.
- S
t
< X
: = S
t
- S
o
+ X - S
t
- P = X - S
o
- P
.
.
.
9
-
- -
.
.
-
06/1977.
10
, ng
.
.
.
11
đây.
.
.
t .
12
.
-
:
,
- . Các bên trong thị
trường phái sinh mang danh nghĩa là giao dịch một số hàng hóa nhất định nhưng
thực ra trong nhiều trường hợp, họ không cần phải thực sự sở hữu hoặc trao đổi tiền
-
... mà không chờ mong
một sự giao nhậ
-
13
. Ở đó, các quan hệ mua bán được thiết lập khô
-
.
:
.
.
.
.
14
.
-
-
ty t .
.
15
.
.
.
, c
.
.
16
Chương 2
-
.HCM) đ
- 29/09/2006).
-INDEX
, r
-
-
-
-
sinh trong tương lai.
-
:
17
( : )
-
.
-
.
-
1276 ng
phiên 1 phiên 1386
VN-INDEX K.L (10CP)
18
.
-
15/09/2006.
. Trong k
.
.
2.2
Nam. Những nhà đầu tư tiên phong “có công” làm bật
. Tuy nhiên, tr
19
...
Như là quy luật, thị trường sôi động và giá tăng liên tục ấy đã nhanh chóng
cuốn hút một làn sóng đầu tư mới k
.
, ảnh hưởng của tâm lý “bầy đàn” lên
sự biến động dữ dội của chỉ số VN-Index là rất lớn.
.
20
.
.
TP.HCM)
, thị trường trái phiếu Chính phủ đơn điệu với cách thức phát hành đơn giản, chưa
thường xuyên, giao dịch thứ cấp chưa phát triển, thị trường trái phiếu công ty rất sơ
khai.
Số lượng các công ty niêm yết có khả năng tài chính tốt còn khiêm tốn, tính
so với khả năng của nền kinh tế và của các nhà đầu tư. Nguyên nhân của tình trạng
này là d
. Cũng
chính vì điều này làm cho th
- Cựu Phó
Chủ tịch Uỷ ban chứng khoán nhà nước).
n , cổ đông là thành viên hội đồng
quản trị, cổ đông chiến lược của mỗi công ty…, đây là số cổ phiếu không thể giao
dịch được hàng ngày. Thực tế, tỷ lệ nắm giữ của Nhà nước trong một số công ty
như Vinamilk, Sudico, Thuỷ điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh… lên tới trên 51%; tỷ lệ
21
nắm giữ của các thành viên hội đồng quản trị và nhà đầu tư chiến lược ở một số
công ty khác vào khoảng 30% -50%. Con số này cho thấy, khối lượng cổ phiếu thực
sự được giao dịch ít ỏi đến thế nào. N -
những quỹ đầu tư tiếng tăm của thế giới, tầm vóc bé nhỏ tất yếu sẽ dễ biến động
thất thường bởi các khách hàng từ cá nhân đến tổ chức.
Ngày 31/3 và 3/4/2006, Ủy ban Chứng
mình.
niêm yết từ trung tâm chứng khoán dưới dạng “thô”. Bản thân công ty muốn xử lý
những thông tin này qua việc phân tích, bình luận, diễn giải cho nhà đầu tư hiểu
thêm c
, định hướng đầu tư và coi
như vai trò tư vấn của công ty chứng khoán bị triệt tiêu.
.
22
.
.
.
mua trần. Đặt 3 lệnh ở 3 mức giá cao nhất, mỗi lệnh chỉ mua
.
Rải đinh che giá bán thật: Ngược l
được giá tốt, nếu không muốn bán giá sàn.
23
Việc khả năng tăng trưởng kỳ vọng của toàn bộ thị trường cao hơn mức tăng
trưởng trong quá khứ có thể được giải thích bằng việc nền kinh tế Việt Nam đang
thể hiện những dấu hiệu khá rõ nét về khả năng phát triển mạnh mẽ trong tương lai,
hay việc chúng ta có xuất phát điểm thấp nên khả năng phát tri
.
Việc tăng giá mạnh mẽ trong thời gian qua của các công ty vốn không được
đánh giá cao dường như đang theo đúng một kịch bản đã từng diễn ra tại các nước
xung quanh Việt Nam là Thái Lan và Trung Quốc trước mỗi lần suy thoái của thị
trường. Đó là việc giá cổ phiếu của các công ty làm ăn hiệu quả tăng mạnh trong
một thời gian dài đã kéo theo sự tăng giá cổ phiếu của các công ty có hoạt động sản
xuất kinh doanh không hiệu quả. Sự tăng giá này thường được đẩy lên mức mà giá
chứng khoán của các công ty làm ăn không hiệu quả lại cao hơn nhiều so với giá
của các công ty làm ăn hiệu quả, xét trên mối tương quan với khả năng sinh lời
trong quá khứ.
Giá cổ phiếu hiện tại ở Việt Nam cao hay thấp, không ai có thể đưa ra một
lời giải thích được tất cả mọi người chấp nhận. Nếu chỉ xét trên hệ số P/E mà so
sánh với các thị trường khác trong những thời điểm khác nhau thì việc chỉ số VN-
Index có tăng thêm vài trăm điểm nữa cũng chưa chắc đã trở thành vấn đề cần đặc
biệt quan ngại. Vấn đề đáng lưu tâm không phải là giá quá cao mà chính là giá đã
tăng quá nhanh. Suy luận một cách đơn giản như trong trường hợp phải đối mặt với
tình trạng lạm phát phi mã, người tiêu dùng mua bất kể hàng hoá gì mà họ tìm thấy,
không cần biết loại hàng đó có thực sự là tốt hay có ích đối với mình hay không.
Lạm phát không cho phép người tiêu
vừa qua cũng thể hiện một trạng thái tương tự.
24
- 3
năm 2006) là tác động không mong muốn của 2 cổ phiếu lớn mới lên niêm yết,
Sacombank và Thuỷ điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh (VSH). Đối với VSH, có lẽ tâm lý
đón đầu những cổ phiếu sẽ giao dịch trên sàn TP. HCM cộng với kết quả kinh
doanh 2 quý đầu năm 2006 khả quan hơn cùng kỳ năm 2005, đã đẩy cổ phiếu này
tăng giá mạnh, từ mức hơn 10.000 đồng lên tới hơn 30.000 đồng/cổ phiếu. Do đó,
việc điều chỉnh giá đối với VSH là điều tất yếu. Còn đối với Sacombank, do quá
trình tăng vốn quá nhanh từ mức 740 tỷ đồng vốn điều lệ năm 2005, nay tăng lên
gần 2.000 tỷ đồng và có kế hoạch tiếp tục tăng vốn điều lệ, trong khi kết quả kinh
doanh chưa thể tăng kịp với tốc độ tăng vốn điều lệ mà giá thì liên tục tăng sau mỗi
lần phát hành thêm cổ phiếu mới với giá ưu đãi, nên việc giảm giá cũng là điều tất
yếu, khi so sánh tương quan với sự sụt giảm của các cổ phiếu khác.
- -
-
161/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán cùng
với một hệ thống các thông tư, quy chế hướng dẫn của Bộ Tài chính
Tuy nhiên, vì chứng khoán là một lĩnh vực mới mẻ lại nằm trong quá trình
hoàn thiện, nên các quy định hiện hành còn nhiều kẽ hở mà giới nhà đầu tư có thể
tận dụng để “lách” một cách dễ dàng.
Từ thực tế trên cho thấy, không phải bây giờ mà ng
, nhà đầu tư đã biết cách sử dụng nhiều tài khoản để thu lợi.
Hiện nay, dù quy định pháp lý đã được hoàn thiện hơn một bước, nhưng nếu một cá
nhân hay một tổ chức có ý định thâu tóm cổ phiếu doanh nghiệp để kinh doanh thì
họ không dại gì mở một tài khoản (chỉ trừ khi họ có ý định công khai để tham gia
vào Hội đồng quản trị), bởi cách làm này vừa phải qua nhiều thủ tục, vừa phải chào
mua công khai và phải sau 6 tháng mới được bán. Họ chỉ cần mở nhiều tài khoản
với các tên khác nhau ở một hay nhiều công ty và mua với khối lượng cổ phiếu dưới
25
5% (tức là 4,99 %) là có thể thâu tóm một lượng cổ phiếu rất lớn, mà không phải
tuân theo các quy định trong Nghị định. Đây là cách “lách luật” hết sức sơ đẳng mà
nhà quản lý không thể kết tội được đối tượng thực hiện.
- , như vậy sẽ ảnh
hưởng đến lợi nhuận trong việc kinh doanh. Thêm nữa, đối với những người mua vì
mục tiêu kinh doanh, họ không thể đợi sau 6 tháng mới được bán, vì thời cơ kiếm
lợi nhuận đâu có tuân theo ý muốn chủ quan của ai.
, thời gian
qua, có một khối lượng mua, bán cổ phiếu rất lớn từ một tổ chức có tiềm lực mạnh
về tài chính, gây ra những cơn chao đảo giá cả, nhưng các nhà giám sát, quản lý đã
không đủ khả năng hoặc không có công cụ để phát hiện. Điều này cũng chứng tỏ
rằng, khối lượng tiền và cổ phiếu được mua -bán không nằm trong một, hai tài
khoản, mà nằm trong nhiều tài khoản và các tài khoản này có thể cùng hoạt động
trong một phiên giao dịch.
. Do đó, muốn Luật Chứng khoán có khả năng
thực thi cao cần phải quan tâm đầy đủ đến việc đào tạo chuyên môn về chứng khoán
cho đội ngũ thẩm phán. Ở Việt Nam hiện nay, việc thanh tra, giám sát, quản lý giao
dịch thuộc Trung tâm Giao dịch chứng khoán.
có sự thao túng, lũng đoạn thì cũng khó mà chỉ ra được tài khoản nào, tên ai, tổ
chức nào đang phạm luật, mặc dù quy định pháp luật có cụ thể, chi tiết đến đâu. Lý
do là bản chất của việc phát hiện các hành vi thao túng, lũng đoạn không chỉ nằm