Tải bản đầy đủ (.doc) (159 trang)

Giải pháp góp phần phát triển kinh tế trang trại tại huyện Trảng Bom tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 159 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả là học viên lớp Cao học kinh tế KT17 trường Đại học Lâm Nghiệp cơ
sở 2 thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác. Tôi xin chịu hoàn toàn về tính trung thực của các số liệu và tài
liệu được sử dụng trong nghiên cứu hoàn thành luận văn./.
Đồng Nai, tháng 02 năm 2012
Tác giả
Đoàn Xuân Trường
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn thầy TS. Nguyễn Văn Hà đã tận tình
hướng dẫn, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận văn tốt nghiệp;
Xin trân trọng khắc ghi công lao nuôi dưỡng và dạy dỗ của Ba, Mẹ đã giành
cho con;
Xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô Trường Đại học Lâm Nghiệp Việt Nam,
những người đã truyền đạt kiến thức cho tôi trong thời gian học cao học vừa qua.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị đang công tác tại Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Nai, các anh chị đang công tác tại phòng
Kinh tế, Chi Cục Thống Kê huyện Trảng Bom đã cung cấp những thông tin quý báu
và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này.
Xin gửi lời cảm ơn các anh chị đồng nghiệp, các bạn học đã động viên và
hỗ trợ tôi trong suốt những thời gian học tập và thực hiện luận văn này.
Trân trọng biết ơn.
Tác giả
Đoàn Xuân Trường
iii
MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CAM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT iv
WTO: Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Oganization) iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU vi
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.1. Quan niệm về kinh tế trang trại 4
1.1.1. Kinh tế trang trại 4
1.1.2. Vai trò của kinh tế trang trại 7
1.1.3. Đặc trưng và tiêu chí nhận dạng của trang trại 10
1.1.4. Các hình thức kinh tế trang trại 14
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển trang trại tại địa phương hiện
nay 14
1.1.6. Các chính sách phát triển kinh tế trang trại tại địa phương hiện nay20
1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại 32
1.2.1. Một số kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại của một số nước
có nền nông nghiệp hiện đại 32
1.2.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại trong nước và tại địa
phương hiện nay 34
2.1. Điều kiện cơ bản của huyện Trảng Bom 45
2.1.1 Vài nét về điều kiện tự nhiên 45
2.1.2.1 Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 51
2.1.2.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp giai đoạn 2000 - 2009 52
2.1.2.3. Nguồn nhân lực 54
2.1.2.4. Thực trạng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội 55
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu 59
2.2.2. Phương pháp phân tích số liệu 60

3.1. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại tại huyện Trảng Bom 64
iv
3.1.1. Số lượng và cơ cấu các trang trại tại huyện Trảng Bom giai đoạn
2006-2010 64
3.2.2. Tình hình hình sử dụng các yếu tố sản xuất của trang trại tại huyện
Trảng Bom 75
3.2.3. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại tại huyện Trảng
Bom 85
3.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của các trang trại tại
huyện Trảng Bom 101
3.2.6. Đánh giá chung và những vấn đề hạn chế đặt ra trong phát triển kinh
tế trang trại của huyện Trảng Bom 115
3.2. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong việc sản
xuất, kinh doanh của các trang trại tại huyện Trảng Bom 121
3.3.1. Định hướng phát triển kinh tế trang trại tại huyện Trảng Bom - tỉnh
Đồng Nai giai đoạn 2011-2015 121
3.3.2. Giải pháp về đất đai, vốn, nguồn nhân lực, khoa học kỹ thuật, cơ sở
hạ tầng và thị trường, quản lý trang trại 126
3.3.3.Giải pháp về phát triển ngành nghề trang trại tại địa phương 140
3.3.4. Giải pháp về cơ chế chính sách 142
TÀI LIỆU THAM KHẢO 148
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
WTO: Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Oganization)
AFTA: Hiệp hội mậu dịch tự do Asean (Asean Free Trade Association)
RRA: Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (Rapid Rural Appraisal)
SWOT: Phương pháp phân tích SWOT
VietGAP: Thực hành nông nghiệp tốt theo tiêu chuẩn Việt Nam
GAP : Thực hành nông nghiệp tốt
VAC : Vườn, ao, chuồng
GDP : Tổng sản phẩm quốc dân

GTSX : Giá trị sản xuất
KH-KT : Khoa học, kỹ thuật
v
HH : Hàng hóa
DV : Dịch vụ
HN : Hàng năm
LN : Lâu năm
TS : Thủy sản
CN : Chăn nuôi
TT : Trồng trọt; trang trại; thị trấn
TH : Tổng hợp
SL : Số lượng
BQ, b/q : Bình quân
Đvsp : Đơn vị sản phẩm
ĐĐ: Đất đai
LĐ : Lao động
Q.doanh : Quốc doanh
KTTT : Kinh tế trang trại
SX : Sản xuất
KD : Kinh doanh
CS : Chính sách
NN : Nhà nước
CQ : Cơ quan
NXB : Nhà xuất bản
PTNT : Phát triển nông thôn
BNN : Bộ nông nghiệp
BNNPTNT: Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn
TCTK : Tổng cục thống kê
BTC : Bộ tài chính
NHNN : Ngân hàng nhà nước

NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
CBTĂ : Chế biến thức ăn
TSCĐ : Tài sản cố định
CP : Cổ phần
TP : Thành phố
QL 1A : Quốc lộ 1 A
vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
Bảng 2.1 Một số yếu tố về khí hậu huyện Trảng Bom 43
Bảng 2.2 Tình hình sử dụng đất đai của huyện Trảng Bom qua các năm 45
Bảng 2.3 Một số chỉ tiêu về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Huyện Trảng Bom giai đoạn 2000-2009.
47
Bảng 2.4 Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu GTSX ngành nông lâm thủy sản
Giai đoạn 2000-2009, huyện Trảng Bom
49
Bảng 2.5 Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu GTSX ngành nông nghiệp Giai
đoạn 2000-2009, huyện Trảng Bom.
50
Bảng 2.6 Hiện trạng các công trình hồ, đập ở huyện Trảng Bom 52
Bảng 3.1 Số lượng trang trại của tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2006-2010 59
Bảng 3.2 Danh mục thống kê các loại hình trang trại trên địa bàn h.Trảng Bom. 60
Bảng 3.3 Một số chỉ tiêu chủ yếu của trang trại t.Đồng Nai từ năm 2006-2010 62
Bảng 3.4 Số lượng các trang trại phân theo loại hình sản xuất và quy mô 65
Bảng 3.5 Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2011 của trang trại 66
Bảng 3.6 Hiện trạng sử dụng đất của trang trại năm 2011 70
Bảng 3.7 Phân loại trang trại theo quy mô sử dụng đất 70

Bảng 3.8 Vốn sản xuất của các trang trại huyện Trảng Bom năm 2011 73
Bảng 3.9 Tình hình sử dụng lao động của các trang trại năm 2011 74
Bảng 3.10 Máy móc thiết bị chủ yếu của trang trại chia theo loại hình sản xuất 76
Bảng 3.11 Bảng tổng hợp kết quả sản xuất của trang trại trồng trọt năm 2011 79
Bảng 3.12 Quy mô đàn gia súc, gia cầm giai đoạn 2005-2009, h. Trảng Bom 82
Bảng 3.13 Tổng hợp kết quả sản xuất của trang trại chăn nuôi năm 2011 84
Bảng 3.14 Bảng tổng hợp kết quả sản xuất của trang trại tổng hợp năm 2011 89
Bảng 3.15 Tổng hợp chi phí đầu tư sản xuất của các trang trại năm 2011 90
Bảng 3.16 Tổng hợp so sánh hiệu quả kinh tế của các loại hình trang trại 93
Bảng 3.17 Tổng hợp ý kiến chủ trang trại 101
Bảng 3.18 Ma trận đánh giá các yếu tố bên trong của sản xuất trang trại 103
Bảng 3.19 Ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài ngành
104
Bảng 3.20 Ma trận SWOT cho phát triển kinh tế trang trại 107
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh lịch sử nước ta từ thời phong kiến thì ngành nghề nông đã
tồn tại không thể tách rời của nền kinh tế nông nghiệp. Kinh tế trang trại là một bộ
phận không thể tách rời của nền kinh tế nông nghiệp nước ta, tuy mới ra đời nhưng
kinh tế trang trại đã có những đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế, làm phong phú
và nhiều hơn các sản phẩm từ nông nghiệp. Thực hiện chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta trong những năm vừa qua nông nghiệp nông thôn đã
và đang đạt được những thành tựu to lớn về mặt chất và lượng. Ngành nông nghiệp
tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và
đủ sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Trong phạm vi cả nước kinh tế trang trại là loại hình kinh tế phát triển muộn,
tuy nhiên hiện nay kinh tế trang trại đang tăng nhanh về mặt số lượng với sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế. Sự phát triển một cách nhảy vọt của kinh tế trang
trại đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển; tạo ra nhiều việc làm cho

lao động ở nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo; tận dụng triệt để diện tích đất
trống, đất hoang hóa, đồi núi trọc.
Vấn đề kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay đã được đề cập và quan tâm
trong những năm đổi mới phát triển kinh tế. Kinh tế trang trại đã hình thành và phát
triển nhanh rộng khắp trên nhiều vùng của cả nước. Tại nội dung nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị ngày 05 tháng 4 năm 1998 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và
sau đó là chính sách giao ruộng đất ổn định cho nông dân sản xuất, trồng trọt.
Đồng Nai là một trong những tỉnh có nhiều lợi thế để phát triển mô hình kinh
tế trang trại theo tiêu chí của trung ương như: vị trí địa lý-kinh tế thuận lợi, có nhiều
ngành nghề phát triển rộng khắp, diện tích đất canh tác rộng lớn phù hợp cho các
loại hình sản xuất mang tích chất tập trung về mặt quy mô và số lượng.
2
Tuy nhiên quá trình phát triển của kinh tế trang trại của cả tỉnh nói chung và
huyện Trảng Bom nói riêng vẫn còn đặt ra nhiều vấn đề nổi cộm cần giải quyết.
Kinh tế trang trại tại huyện Trảng Bom vẫn chủ yếu là trang trại hộ nông dân. Hầu
hết các trang trại có quy mô nhỏ, chủ yếu sử dụng lao động của gia đình, một số có
thuê mướn lao động thời vụ và lao động thường xuyên, tiền công trả cho lao động
thường là do thỏa thuận của hai bên. Vốn đầu tư của trang trại thường là nguồn vốn
tự có và vốn vay của cộng đồng, vốn vay của các tổ chức tín dụng, ngân hàng chỉ
chiếm tỷ trọng rất thấp trong cơ cấu vốn. Bên cạnh đó sản phẩm được sản xuất ra
thì chưa có nơi tiêu thụ nên thường bị các lái buôn ép giá, chủ trang trại không nắm
bắt được đầy đủ nhu cầu của thị trường về mẫu mã, chất lượng và giá thành của sản
phẩm làm ra do đó sản phẩm làm ra thường đạt về mặt số lượng là chính.
Thực hiện việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
để phát triển kinh tế trang trại tại địa phương trong những năm qua tuy đã đạt được
một số kết quả song hiện nay vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế cần phải khắc phục và
điều chỉnh như: chính sách đất đai còn nhiều hạn chế, lao động đào tạo tại địa
phương chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, cơ sở hạ tầng tại nông thôn còn yếu
kém, việc chuyển giao và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn chậm và
chưa đồng bộ, thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa phát triển.

Để khắc phục những hạn chế kể trên và phát huy những tiềm năng, thế mạnh
về phát triển kinh tế trang trại của huyện Trảng Bom, việc nghiên cứu nhằm đưa ra
những giải pháp cho phát triển kinh tế trang trại hiện nay tại huyện Trảng Bom là
hết sức cần thiết, vì vậy tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Giải pháp góp phần
phát triển kinh tế trang trại tại huyện Trảng Bom - tỉnh Đồng Nai”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung:
Góp phần phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Trảng Bom và định
hướng cho sự phát triển của kinh tế trang trại tại địa phương hiện nay và trong thời
gian tới.
3
- Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển kinh tế trang trại.
- Đánh giá được hiện trạng phát triển kinh tế trang trại tại huyện Trảng Bom.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại tại huyện Trảng Bom.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các trang trại nông nghiệp tại huyện
Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, trong đó tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển,
hiệu quả kinh tế của các trang trại trên địa bàn hiện nay, những tồn tại và những mặt
đạt được cần phải phát huy.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển của các
trang trại ở huyện Trảng Bom – chủ yếu tại 71 trang trại của huyện Trảng Bom.
+ Phạm vi thời gian: Số liệu phục vụ nghiên cứu được thu thập chủ yếu từ
năm 2006 đến năm 2010; có bổ sung một số số liệu đến tháng 10/2011.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan niệm về kinh tế trang trại

1.1.1. Kinh tế trang trại
1.1.1.1. Sự ra đời và bản chất của kinh tế trang trại
Lịch sử hình thành và phát triển nông nghiệp của nước ta nói riêng và thế
giới nói chung đã tồn tại các hình thức sản xuất tập trung về diện tích và mức độ cơ
giới cao để sản xuất ra khối lượng nông sản lớn; đàn gia súc, gia cầm lớn so với
hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính truyền thống về quy mô nhỏ, phân tán.
Các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản đã tồn tại ở nhiều nước và đều có đặc điểm chung chủ yếu về: Mục
đích sản xuất, các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung đều nhằm mục đích chủ
yếu là tự cung tự cấp để đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trực tiếp trong nước và ngay
bản thân của mỗi cá nhân. Về sở hữu, có những hình thức dựa trên sở hữu nhà
nước, có những hình thức là sở hữu thuộc cá nhân.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những điều kiện và động lực
mạnh mẽ thúc đẩy hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung lên một trình độ mới
cao hơn, với những biến đổi cơ bản về kinh tế, tổ chức và kỹ thuật sản xuất so với
các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung trước chủ nghĩa tư bản.
Những biến đổi ấy bao gồm:
- Sự biến đổi về mục đích sản xuất: Sản xuất chuyển từ tự cung tự cấp là chủ
yếu sang sản xuất hàng hóa.
- Sự biến đổi về mặt sở hữu: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay,
hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung về cơ bản là dựa trên quyền sở hữu tư liệu
sản xuất của một cá nhân độc lập.
5
- Sự thay đổi về cách thức tổ chức sản xuất và kỹ thuật sản xuất: Do mục
đích sản xuất hàng hóa nên ở đây sản xuất được tổ chức theo phương thức tiến bộ
hơn với kỹ thuật sản xuất cao hơn hẳn so với hình thức sản xuất nông nghiệp mang
tính tập trung trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản.
- Trong điều kiện kinh tế thị trường, hộ gia đình chiếm đa số trong các đơn vị
sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung.
Tóm lại có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế thị trường về bản chất “kinh

tế trang trại” là thuật ngữ gắn liền với sản xuất nông nghiệp mang tính hiệu quả cao,
nó là một loại hình kinh tế có tính tập trung trên một diện tích lớn nhằm sản xuất ra
nhiều nông sản hàng hóa với quy mô hộ gia đình là chủ yếu.
1.1.1.2. Khái niệm kinh tế trang trại
Về bản chất “trang trại” và “kinh tế trang trại” là những khái niệm không
đồng nhất. Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và các quan
hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của trang trại; còn trang trại
là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của các quan hệ kinh tế
đó.
- Kinh tế trang trại là một hình thức tổ sức sản xuất kinh doanh trong nông,
lâm, ngư nghiệp, phổ biến được hình thành và phát triển trên nền tảng kinh tế nông
hộ và về cơ bản mang bản chất nông hộ.
- Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại gắn với sự tích tụ tập
trung các yếu tố sản xuất kinh doanh (đất đai, lao động, tư liệu sản xuất, vốn, khoa
học kỹ thuật và công nghệ) để nâng cao năng lực sản xuất và sản xuất ra nhiều sản
phẩm hàng hóa với năng suất chất lượng và hiệu quả cao.
- Là một trong những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp
dựa trên nền tảng kinh tế hộ chứ không phải là một thành phần kinh tế riêng biệt
nào ngoài kinh tế hộ.
6
Khái niệm kinh tế trang trại phải thể hiện được những nét bản chất về kinh
tế, tổ chức và kỹ thuật sản xuất của trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường.
Trước hết, trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông
nghiệp với chức năng sản xuất hàng hóa là chức năng chính của trang trại, giá trị
tổng sản phẩm và sản phẩm hàng hóa là chỉ tiêu trực tiếp đánh giá quy mô của trang
trại. Bên cạnh đó trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở vì trang trại là đơn vị
trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông
sản phẩm, thủy sản…đồng thời quá trình kinh tế trong trang trại là quá trình khép
kín với các khâu của quá trình tái sản xuất kế tiếp nhau (sản xuất-phân phối-trao
đổi-tiêu dùng).

Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất, các chỉ tiêu về vốn, mức độ thâm
canh, sử dụng lao động cao hơn kinh tế hộ. Chủ trang trại là người có ý chí làm
giàu, có điều kiện làm giàu và biết làm giàu; có vốn, trình độ kỹ thuật và khẳ năng
quản lý, có hiểu biết nhất định về thị trường. Bên cạnh đó chủ trang trại vừa điều
hành vừa trực tiếp sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, sản xuất của trang trại là sản xuất
hàng hóa, vì vậy các yếu tố sản xuất phải được tập trung với quy mô nhất định. Mặt
khác, tư liệu sản xuất của trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng
của một người chủ độc lập nên họ cũng chính là người quyết định các phương án
sản xuất, kinh doanh, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật cao hơn nông hộ để sản xuất ra
sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngoài các yếu tố trên thì lao động trong các
trang trại thường là lao động của gia đình, nếu có thuê mướn thì chỉ thuê mướn theo
theo thời vụ.
Nghị quyết số: 03/2000/NQ-CP ngày 02 tháng 2 năm 2000 của chính phủ
xác định “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông
nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng
cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản,
trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, nông, lâm, thủy sản. Phát triển
7
kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, kinh nghiệm quản lý
góp phần phát triển nông nghiệp bền vững…”
Nghị quyết cũng nhấn mạnh vai trò hộ gia đình nông thôn là chủ thể chính
cho việc phát triển kinh tế trang trại tại Việt Nam hiện nay; là cơ sở và điều kiện
cho thị trường hàng hóa phát triển về quy mô và số lượng.
1.1.2. Vai trò của kinh tế trang trại
Trang trại là một trong những hình thức sản xuất của nền kinh tế, là một bộ
phận không thể tách rời của nền kinh tế nông nghiệp và có vai trò đặc biệt quan
trọng. Các trang trại hình thành và phát triển đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông
thôn, phát triển xã hội. Sự phát triển của trang trại đã tạo ra những chuyển biến tích
cực về mặt kinh tế, cũng như về mặt xã hội và môi trường trong nông nghiệp, nông

thôn hiện nay.
- Trong giai đoạn đổi mới kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường thì việc đổi
mới kinh tế nông nghiệp là một yếu tố khách quan của nền kinh tế. Cơ chế thị
trường không chỉ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của các ngành nông nghiệp,
dịch vụ mà còn làm thay đổi căn bản mục đích và do đó thay đổi cả phương thức
sản xuất trong nông nghiệp. Các trang trại trong hệ thống nông nghiệp đã góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị
kinh tế cao, tổ chức sản xuất với quy mô lớn, hạn chế tình trạng sản xuất phân tán,
manh mún, tạo nên những vùng chuyên môn hóa, sản xuất hàng hóa tập trung với
trình độ thâm canh cao, đã tạo ra một khối lượng nông sản hàng hóa lớn từ đó thúc
đẩy ngành công nghiệp chế biến phát triển.
Hiện nay phát triển kinh tế trang trại phải đi đôi với việc khai thác và sử
dụng một cách đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn.
Việc phát triển kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của
nền nông nghiệp nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng. Các trang trại là thành
phần kinh tế luôn đi đầu trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất nên
đã tạo ra năng suất, khai thác có hiệu quả các nguồn lực hiện có. Đó cũng là lý do
8
mà sản phẩm của trang trại làm ra thường là sản phẩm có giá trị cao, đáp ứng được
nhu cầu của thị trường, các sản phẩm sản xuất ra thường có giá cạnh tranh, chất
lượng đồng đều, có khẳ năng cung ứng với số lượng lớn nên được các cơ sở chế
biến, công ty chế biến nông sản chấp nhận thu mua.
- Về mặt xã hội đạt được, khi kinh tế trang trại phát triển tại địa phương nó
sẽ đem lại một nguồn thu nhập cao cho các chủ trang trại, làm tăng số hộ giàu có ở
khu vực nông thôn, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho lao động. Thực hiện tốt
chương trình “xóa đói, giảm nghèo” trong nông thôn, đây là chủ trương của Đảng
và nhà nước ta nhằm thay đổi bộ mặt nông thôn, xây dựng nông thôn mới trong giai
đoạn hiện nay.
Một khi kinh tế trang trại phát triển góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ
tầng ở nông thôn (điện, đường, thủy lợi…). Song song với việc đầu tư phát triển cơ

sở hạ tầng của các cấp chính quyền tại địa phương, các trang trại cùng tham gia
đóng góp đầu tư nhằm phát triển hạ tầng phục vụ sản xuất.
- Về môi trường sống tại nông thôn, việc sản xuất kinh doanh của các chủ
trang trại luôn gắn với lợi ích lâu dài nền phần lớn các chủ trang trại có ý thức bảo
vệ môi trường trong sản xuất-kinh doanh. Tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường
sống đến các chủ trang trại thông qua các đoàn thể, chính quyền tại địa phương.
Điển hình là các trang trại trồng rừng tại địa phương đã góp phần phủ xanh đất
trống, đồi trọc và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất, tài nguyên nước tạo ra một
môi trường sinh thái bền vững.
Tóm lại kinh tế trang trại tuy mới phát triển nhưng đã phần nào góp phần
thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển. Vì vậy, nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày
02/2/2000 của Chính phủ đã khẳng định: “Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo
hộ kinh tế trang trại. Các hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn
định, lâu dài theo pháp luật để sản xuất kinh doanh.
9
Nhà nước đặc biệt khuyến khích việc đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu
quả đất trống, đồi núi trọc ở trung du, miền núi, biên giới, hải đảo, tận dụng khai
thác các loại đất còn hoang hoá, ao, hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển, mặt nước
eo vịnh, đầm phá để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng chuyên canh với tỷ
suất hàng hoá cao. Đối với vùng đất hẹp, người đông, khuyến khích phát triển kinh
tế trang trại sử dụng ít đất, nhiều lao động, thâm canh cao gắn với chế biến và
thương mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị kinh tế lớn. Ưu tiên giao đất, cho
thuê đất đối với những hộ nông dân có vốn, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, có yêu
cầu mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hoá và những hộ không có đất sản
xuất nông nghiệp mà có nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông
nghiệp.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ
nông dân, phát triển kinh tế trang trại đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở rộng
các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các hộ nông dân,

các trang trại, các nông, lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nước và doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực và sức mạnh tổng hợp
cho nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học-công nghệ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm,
xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại phát triển bền
vững.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước để các trang trại phát triển lành
mạnh, có hiệu quả.” (Nguồn: Thư viện pháp luật)
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế trang trại:
+ Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông
nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao
hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng
rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản.
10
+ Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai,
vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền vững; có
việc làm tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo; phân
bổ lao động, dân cư xây dựng nông thôn mới.
+ Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất đã hình thành các trang trại gắn
liền với quá trình phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển dịch lao
động nông nghiệp sang làm các ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình công
nghiệp hoá trong nông nghiệp và nông thôn.
1.1.3. Đặc trưng và tiêu chí nhận dạng của trang trại
1.1.3.1. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại
Từ những khái niệm trên thể hiện kinh tế trang trại có những đặc trưng cơ
bản như sau:
- Mục đích chủ yếu của kinh tế trang trại là sản xuất các sản phẩm hàng hóa
theo nhu cầu của thị trường.
Đặc trưng cơ bản nhất là mục đích sản xuất hàng hóa, bởi vì mục đích sản
xuất hàng hóa chi phối và ảnh hưởng rất lớn, thậm chí quyết định tới các đặc trưng

khác của kinh tế trang trại. Các trang trại đều đi lên từ kinh tế hộ nông dân khi kinh
tế hộ phá vỡ vỏ bọc tự cung, tự cấp vốn có. Như quá trình hình thành và phát triển
kinh tế trang trại gia đình là quá trình nâng cao hay mở rộng tính chất và trình độ
sản xuất hàng hóa của trang trại đồng thời cũng là quá trình thu hẹp tính chất sản
xuất trực tiếp tự cấp, tự túc vốn có của kinh tế hộ nông dân. Về mặt quy mô của
trang trại lớn gấp nhiều lần quy mô của hộ gia đình hay kiểu tiểu nông. Nó được
đánh giá bằng tổng diện tích đất đai sử dụng, hay bằng giá trị sản lượng làm ra
trong một năm hoặc đo bằng tỷ suất hàng hóa của trang trại. Các hình thức sản xuất
nông nghiệp tập trung trước kinh tế thị trường dù sản xuất ra khối lượng nông sản
phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất phân tán, song mục đích chủ yếu vẫn là
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của cá nhân người chủ và gia đình. Kinh
11
tế trang trại từ lúc ra đời đã mang tính hàng hóa và càng ngày tính chất và trình độ
sản xuất càng cao.
- Tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
của một người chủ độc lập.
Các tư liệu sản xuất trong các trang trại thuộc quyền sở hữu hay đi thuê, hoặc
được giao quyền sử dụng thì tư liệu sản xuất đều thuộc quyền sử dụng của một
người chủ độc lập. Người chủ độc lập ở đây là người hoàn toàn có quyền tự chủ
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng lại không tách biệt khỏi các mối quan
hệ liên kết và hợp tác với các chủ thể kinh tế khác.
- Trong các trang trại, quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu tư được tập
trung với quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hóa.
Việc sản xuất hàng hóa chỉ được tiến hành khi đầy đủ các yếu tố như: cơ sở
hạ tầng, đất đai, máy móc, nguyên vật liệu, nhân công…Đặc trưng này được quy
định bởi chính đặc trưng về mục đích sản xuất của trang trại. Ở các trang trại tư
nhân, quy mô tập trung các yếu tố sản xuất lớn hơn hẳn so với các trang trại gia
đình. Các trang trại gia đình dù có quy mô lớn hơn nhiều so với kinh tế hộ tự cấp, tự
túc, song nói chung vẫn nằm trong khuôn khổ gia đình, chịu sự giới hạn nhất định
của các yếu tố sản xuất nội lực.

- Phát triển kinh tế trang trại là giải quyết việc làm cho người lao động tại
nông thôn.
Nhu cầu thực tế về lao động tại các trang trại là rất lớn, ngoài lao động là của
gia đình thì các trang trại trên thực tế vẫn phải thuê mướn lao động theo thời vụ
hoặc lao động thường xuyên. Hiện nay các trang trại tư nhân có quy mô sản xuất
lớn thì thường thuê lao động thường xuyên là chính, bên cạnh đó có thuê thêm lao
động thời vụ tùy theo khối lượng công việc. Các trang trại tiểu nông thì thuê cả hai
loại lao động, nhưng lao động thời vụ là chủ yếu, còn trang trại gia đình do quy mô
sản xuất nhỏ hơn các loại hình trang trại trên nên thường sử dụng lao động thời vụ.
12
1.1.3.2. Tiêu chí nhận dạng kinh tế trang trại
Tiêu chí chung để nhận dạng kinh tế trang trại thường dựa vào mặt định tính
và mặt định lượng là:
- Về mặt định tính: Mục đích sản xuất của trang trại thường ở quy mô lớn,
mức độ tập trung hóa và chuyên môn hóa các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn
hẳn so với sản xuất nông hộ thể hiện qua đất đai, cơ sở hạ tầng, đầu gia súc, số
lượng lao động, giá trị hàng sản xuất ra. Trình độ sản xuất hàng hóa cao của trang
trại được biểu hiện bằng trình độ ứng dụng khoa học-công nghệ và quản lý kinh
doanh của trang trại.
- Về mặt định lượng: Chủ yếu dựa vào chỉ tiêu đánh giá trị sản lượng hàng
hóa và dịch vụ tính bình quân 01 năm của trang trại. Ngoài ra còn dựa vào các tiêu
chí định lượng khác như quy mô đất đai, lao động, vốn sản xuất kinh doanh…tùy
theo từng loại hình sản xuất của trang trại.
Trước đây khi trang trại mới hình thành thì chưa có tiêu chí thống nhất để
nhận dạng kinh tế trang trại. Tiêu chí nhận dạng kinh tế trang trại phải hàm chứa
được những đặc trưng cơ bản nhất của trang trại nhưng phải đơn giản và dễ vận
dụng như sau:
+ Mặc dù chỉ tiêu sản lượng hàng hóa là chỉ tiêu chủ yếu, các chỉ tiêu về quy
mô là bổ sung, nhưng khi vận dụng các địa phương đã sử dụng một cách linh hoạt
theo từng trường hợp cụ thể. Những trang trại đã định hình, ổn định sản xuất kinh

doanh thì lấy chỉ tiêu sản lượng hàng hóa hoặc tỷ suất hàng hóa là chủ yếu. Trường
hợp đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản, chưa có sản phẩm hàng hóa thì dựa vào
chỉ tiêu quy mô đất, vốn đầu tư, lao động, số đàn con gia súc…
+ Các chỉ tiêu nói trên còn phụ thuộc vào loại hình sản xuất kinh doanh cụ
thể đối với cây trồng vật nuôi, ngành nghề cụ thể. (VD: Trồng rừng thì đòi hỏi quy
mô đất đai lớn, còn trang trại trồng hoa cây cảnh và nuôi đặc sản thì quy mô diện
tích không lớn nhưng quy mô vốn phải lớn.
13
+ Các chỉ tiêu nhận dạng kinh tế trang trại phải được quy định theo vùng cụ
thể: miền núi, đồng bằng, ven biển…và theo từng thời điểm nhất định. Ngày
23/6/2000, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và Tổng cục thống kê đã ban
hành Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK; sau đó ngày 4/7/2003 Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành thông tư số 74/TT-BNN về việc sửa
đổi bổ sung mục III của thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày
23/6/2000 hướng dẫn xác định kinh tế trang trại, cụ thể:
* Giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ bình quân 1 năm:
- Đối với các tỉnh phía Bắc và duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên.
- Đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên phải đạt 50 triệu đồng trở lên.
* Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội hơn so với kinh tế hộ
tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế. (Nguồn: Thư viện pháp luật)
+ Theo thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13 tháng 4 năm 2011 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại điều 5 tiêu chí xác định kinh tế trang
trại là: "Cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản đạt tiêu chuẩn kinh tế trang trại phải thỏa mãn điều kiện sau:
1. Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp phải đạt:
a) Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu:
- 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long;
- 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại.
b) Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm.
2. Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu

đồng/năm trở lên;
3. Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị sản
lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên." (Nguồn: Trang Web
Hội làm vườn Việt Nam(VACVINA))
14
1.1.4. Các hình thức kinh tế trang trại
- Đối với trang trại trồng trọt < 2 ha là trang trại gia đình.
- Đối với trang trại trồng rừng 2-5 ha là trang trại tiểu chủ.
- Đối với trang trại trồng cây ăn quả 5-10 ha là trang trại tư nhân kinh doanh
nông nghiệp.
- Lớn >10 ha là trang trại trồng cây lâu năm, trồng cây lương thực-thực
phẩm, kinh doanh đặc thù (chăn nuôi, thủy sản, trang trại tổng hợp).
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển trang trại tại địa phương hiện nay
1.1.5.1. Các yếu tố thuộc về môi trường của các chủ thể trang trại
* Tác động của các cơ quan nhà nước đến môi trường kinh tế, pháp lý cho
phát triển kinh tế trang trại:
Sự tác động của các chủ thể nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo lập môi
trường kinh tế và pháp lý để làm cơ sở cho kinh tế trang trại hình thành và phát
triển. Kinh tế trang trại là sự biểu hiện tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và
các quan hệ kinh tế trong quá trình tồn tại và hoạt động của các trang trại. Kinh tế
trang trại về mặt bản chất là sự phát triển cao hơn kinh tế hộ nông dân và chủ yếu
được hình thành từ kinh tế hộ nông dân sản xuất tự cung, tự cấp là chính. Là quá
trình tích tụ và tập trung các yếu tố sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi
mục đích và phương thức sản xuất kinh doanh…Quá trình đó diễn ra một mặt do
kết quả hoạt động của các hộ nông dân, mặt khác do sự tác động của Nhà nước với
tư cách là chủ thể quản lý.
Ở các nước tiên tiến có nền nông nghiệp phát triển, hình thức tổ chức sản
xuất nông nghiệp chủ yếu là trang trại. Trong khi đó ở những nước phát triển theo
xu hướng xã hội chủ nghĩa thì hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong nông
nghiệp là các hợp tác xã nông nghiệp, các nông, lâm trường quốc doanh…trong khi

các điều kiện khác hầu như không có sự khác biệt lớn. Như vậy, những tác động
tích cực của nhà nước sẽ thúc đẩy làm cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển;
15
những tác động tiêu cực hay ngăn cản sẽ làm cho kinh tế trang trại chậm ra đời hoặc
không thể ra đời, nếu có thì nó cũng là một quá trình chậm phát triển.
Các tác động của nhà nước được thực hiện thông qua:
1. Định hướng cho sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại thông qua
các quy hoạch phát triển và ban hành các chính sách kinh tế-xã hội theo hướng
khuyến khích kinh tế trang trại. Nhà nước có vai trò tạo ra môi trường kinh tế ổn
định cho phát triển các thành phần kinh tế trong đó kinh tế trang trại.
2. Khuyến khích sự hình thành, phát triển kinh tế trang trại thông qua các
đòn bẩy kinh tế nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế trang trại và khuyến
khích các hình thức liên kết kinh tế phục vụ cho kinh tế trang trại phát triển lớn.
3. Hỗ trợ các nguồn lực để phát triển kinh tế trang trại như thường xuyên mở
các lớp tập huấn đào tạo về công tác quản lý cho các chủ trang trại, đào tạo nâng
cao tay nghề cho lao động của trang trại, hổ trợ và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật; xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển nông thôn mới, khuyến khích việc hình
thành và phát triển trang trại tại các nông thôn mới.
4. Nhà nước công nhận địa vị pháp lý để trang trại ra đời và phát triển một
cách bền vững.
Kinh tế trang trại chỉ được hình thành và phát triển khi có các môi trường
pháp lý hoàn thiện phù hợp và thuận lợi. Nguyên nhân của sự ra đời và phát triển
của các trang trại phải dựa trên những cơ sở pháp lý nhất định:
- Trên phương diện điều hành kinh tế vĩ mô, sự công nhận của nhà nước đối
với trang trại là cơ sở để các trang trại có tư cách pháp nhân, là điều kiện cần và đủ
cho quá trình sản xuất kinh doanh của các trang trại cũng như các chủ thể kinh
doanh khác.
- Sự công nhận địa vị pháp lý của kinh tế trang trại sẽ tạo cơ sở pháp lý cho
những cá nhân có nguồn lực yên tâm đầu tư phát triển kinh doanh theo mô hình
kinh tế trang trại. Tạo điều kiện cần thiết cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển.

16
Tầm quan trọng và vai trò của kinh tế trang trại trong hệ thống nông nghiệp
và của nền kinh tế sản xuất hàng hóa theo hướng thị trường có sự điều tiết của chính
phủ thì phải tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi. Coi trang trại như một loại hình
sản xuất kinh doanh chủ yếu trong nông nghiệp từ đó ban hành những văn bản pháp
quy phù hợp nhằm khuyến khích kinh tế trang trại phát triển, trước hết cần có các
văn bản pháp quy xác định địa vị pháp lý và quy định khuôn khổ pháp lý cho trang
trại hoạt động.
* Khung pháp lý cho sự tích tụ và tập trung ruộng đất của Nhà nước:
Đất đai trong sản xuất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt
khó có thể thay thay thế, là yếu tố quan trọng tạo ra các sản phẩm nông nghiệp. Nói
tóm lại đất đai là yếu tố quan trọng, có mối quan hệ sống còn với trang trại, góp
phần hình thành nên trang trại. Trang trại là loại hình kinh tế nông nghiệp có hiệu
suất sử dụng đất đai hiệu quả nhất trong nông nghiệp. Nguồn lực đất đai lớn, quy
mô là cơ sở tạo ra số lượng lớn nông sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất
khẩu. Nước ta với mật độ dân số đông nên diện tích đất dùng cho sản xuất nông
nghiệp tính theo bình quân đầu người là tương đối thấp so với mức trung bình của
thế giới.
Với quy mô diện tích đất đai cần thiết, việc tập trung đất đai có ý nghĩa quan
trọng đến sự hình thành của kinh tế trang trại. Để việc tập trung ruộng đất diễn ra
thuận lợi, đòi hỏi phải có những điều kiện kinh tế và hành lang pháp lý. Những điều
kiện kinh tế chủ yếu cho sự tập trung đất đai là hiệu quả kinh tế của sản xuất trên cơ
sở tập trung ruộng đất, vốn đầu tư. Mà việc tập trung ruộng đất phần lớn do các cá
nhân tự thực hiện sang nhượng theo đúng pháp luật. Do đó Nhà nước phải có chính
sách đất đai hợp lý, tạo điều kiện cho người làm trang trại được phát huy hết khẳ
năng vốn có của mình tức là: đất đai phải được chuyển giao cho những người sử
dụng có hiệu quả, tức là chính sách đất đai phải tạo điều kiện cho sự tập trung ruộng
đất một cách hợp lý, đến tay những cá nhân có khẳ năng và điều kiện để phát triển
17
trang trại một cách có hiệu quả cao nhất. Đây cũng là yếu tố cơ bản và quan trọng

đối với sự tồn tại và phát triển của kinh tế trang trại hiện nay và trong thời gian tới.
* Ảnh hưởng của sự phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông
nghiệp:
Khi ngành công nghiệp phát triển nói chung thì sự phát triển của ngành công
nghiệp chế biến các sản phẩm làm từ nông nghiệp hình thành và phát triển là một
yếu tố khách quan. Công nghiệp chế biến có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của nông nghiệp, các sản phẩm nông nghiệp có giá trị hơn khi qua khâu đóng gói và
chế biến vì thế giữa hai ngành này có mối quan hệ khó có thể tách rời. Quan hệ trên
càng thể hiện rõ trong điều kiện sản xuất nông nghiệp được tổ chức dưới hình thức
trang trại. Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp có quy
mô lớn hơn kinh tế hộ, mục đích của sản xuất là tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp
để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, do đó nếu không có sự hổ trợ của công nghiệp
chế biến thì hoạt động sản xuất của trang trại vô hình sẽ bị ảnh hưởng theo và có thể
không phát triển được. Sự phát triển của công nghiệp chế biến là nhân tố tích cực
tạo ra thị trường rộng lớn cho các nông sản phẩm, sự tác động của công nghiệp chế
biến đến nông nghiệp nói chung và sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại
nói riêng được biểu hiện rất rõ, trong đó điển hình là các cây công nghiệp có giá trị
kinh tế cao như ca cao, chè, cà phê, điều…Đây là một trong những yếu tố chủ yếu
làm cho sự xuất hiện nhanh của các trang trại hiện nay.
Như vậy, việc hình thành và phát triển của kinh tế trang trại ngày nay tất yếu
cần có sự hỗ trợ của ngành công nghiệp chế biến, đáp ứng được nhu cầu của thị
trường trong nước và nhu cầu xuất khẩu.
* Tác động của sự phát triển của kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp:
Cơ sở hạ tầng kỹ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp như: điện,
đường xá, hệ thống kênh mương thủy lợi hoàn chỉnh là cơ sở vật chất hạ tầng không
thể thiếu trong hoạt động phục vụ cho sản xuất của nông nghiệp. Hệ thống hạ tầng
kỹ thuật giao thông giúp người làm nông nghiệp chủ động trong việc sản xuất nông
18
sản phẩm hàng hóa vận chuyển đến tay người tiêu dùng, hệ thống mương thủy lợi
hoàn chỉnh cung cấp nước tưới khi thời tiết khí hậu khắc nghiệt, giảm thiểu thiệt hại

từ thiên nhiên đến hoạt động sản xuất của trang trại. Kinh tế trang trại chỉ được hình
thành và phát triển khi chúng ta ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và sản xuất
với quy mô, nông sản phẩm tạo ra phải đáp ứng nhu cầu về mặt số lượng và chất
lượng, giá cả cạnh tranh. Để đáp ứng được những nhu cầu nêu trên thì hoạt động
của các trang trại phải được xây dựng trên yêu cầu có sẵn một hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật phát triển ở một trình độ nhất định, bao gồm kết cấu hạ tầng trên địa
bàn (hoặc vùng) hoạt động của các trang trại và cơ sở vật chất kỹ thuật trong phạm
vi của từng trang trại. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật trên từng địa bàn, từng vùng rộng
lớn, được nhà nước đầu tư là chủ yếu.
Hạ tầng kỹ thuật trong các trang trại phần lớn được thực hiện xây dựng bởi
nguồn vốn của chủ trang trại, nếu có sự giúp đỡ của Nhà nước thông qua các hình
thức phù hợp vì:
+ Đầu tư cơ sở vật chất trong từng trang trại, nhất là đối với các trang trại
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn đòi hỏi nhu cầu về vốn rất lớn do đó đòi hỏi cần
phải có sự hổ trợ, giúp đỡ của các cơ quan nhà nước dưới dạng vốn vay có hổ trợ về
mặt lãi suất, hoặc vốn vay không lãi suất.
+ Cơ sở hạ tầng trong từng trang trại phải gắn kết chung với hệ thống cơ sở
hạ tầng của vùng thì mới phát huy được hiệu quả kinh tế cao. Nhà nước cần phải
yêu tiên phát triển hạ tầng tại các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa để tận dụng
diện tích đất đai rộng lớn tại các vùng này.
Để kinh tế trang trại phát triển cần có sự trợ giúp của các cấp chính quyền
địa phương cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn phục vụ sản xuất
nông nghiệp, xây dựng kinh tế mới phát triển trang trại, hổ trợ hạ tầng của các trang
trại hoàn thiện.
* Ảnh hưởng của sự hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp có sự chuyên
môn hóa cao.
19
Ngày nay việc chuyên môn hóa các hình thức sản xuất là xu thế tất yếu của
nền sản xuất xã hội, trong đó có ngành nông nghiệp. Trong nông nghiệp thì chuyên
môn hóa được thể hiện dưới các hình thức khác nhau như: chuyên môn hóa theo

vùng, theo ngành nghề sản xuất, theo đặc trưng thế mạnh của mỗi địa phương…Về
bản chất đó là quá trình tập trung các yếu tố sản xuất để khai thác các lợi thế của
vùng. Trong các chủ thể sản xuất kinh doanh nông nghiệp, trang trại là một trong
các chủ thể chủ yếu. Vì vậy trong điều kiện kinh tế thị trường việc hình thành các
vùng chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp và các trang trại có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, tạo điều kiện để kinh tế trang trại phát triển.
Các vùng chuyên môn hóa hình thành là kết quả của các điều kiện tác động
như: Sự tác động của Nhà nước vào chủ thể là ngành nông nghiệp và trong đó có
kinh tế trang trại, các điều kiện thuận lợi về khí hậu, thổ nhưỡng, tập quán canh tác,
sự phát triển của kết cấu hạ tầng công nghiệp chế biến…khi các vùng chuyên môn
hóa hình thành thì việc sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hóa nhất định có ảnh
hưởng tích cực tới sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại. Bản thân thực
tế thấy rằng các vùng chuyên canh tập trung luôn gắn liền với công nghiệp chế biến,
tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm của trang trại.
Để hình thành các vùng chuyên môn hóa sản xuất trong lĩnh vực nông
nghiệp, Nhà nước và chính quyền địa phương phải tiến hành quy hoạch, phân vùng
để bố trí sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi thích hợp, tạo các điều kiện thực hiện
các phương án sản xuất. Muốn vậy phải thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật
và sử dụng các hình thức kích thích sản xuất theo hướng chuyên canh. Đây là những
điều kiện cần thiết cho sự phát triển của kinh tế trang trại. Nhìn chung có thể nói
rằng sự hình thành các vùng chuyên môn hóa cũng là quá trình hình thành và phát
triển của kinh tế trang trại.
* Sự phát triển các hình thức liên kết kinh tế trong nông nghiệp ảnh hưởng
đến kinh tế trang trại.

×